Giu Đa—Ngợi khen
Nàng thọ thai nữa, sanh một con trai, và nói rằng: Lần nầy
tôi ngợi khen Đức Giê-hô-va; vì cớ ấy, đặt tên là Giu-đa” (ngọi khen)
Sáng thế ký 29:35,”
Dân số ký 2: 3, “Trại quân Giu-đa sẽ đóng tại hướng đông, về
phía mặt trời mọc, với ngọn cờ và những đội ngũ của mình”
Dân 10:14, “Ngọn cờ của trại quân Giu-đa, tùy theo các đội
ngũ mình, đi trước”.
Viên ngọc đầu tiên trong hàng thứ nhất của bảng đeo ngực thầy
thượng tế khắc tên của chi phái Giu-đa. Giu đa nghĩa là “ ngợi khen”. Đang khi
con cái Israel di hành, Giu đa đi đầu và hướng dẫn người khác. Cũng vậy, trong
đời sống chúng ta, ngợi khen và thờ phượng phải chiếm chỗ đầu nhất và chúng ta
phải học tập cách thờ phượng và ngợi khen Ngài trong mọi lúc. Đây là kinh nghiệm
thuộc linh trước nhất mà chúng ta phải có.
Khi chúng ta được sinh lại, khát vọng đầu tiên của chúng ta
là có tri thức kinh thánh. Chúng ta nghĩ rằng nhờ có thêm tri thức kinh thánh,
chúng ta sẽ càng lớn lên về thuộc linh. Dù bạn đọc được bao nhiêu sách hay có
bao nhiêu bằng cấp cũng không đáng kể, không một ai lớn lên về mặt thuộc linh bởi
chỉ tri thức kinh thánh mà thôi. Nhờ học tập làm sao cám ơn Ngài, ngợi khen
Ngài, tôn thờ Ngài, tôn đại Ngài luôn luôn trong mọi sự, chứng ta tăng trưởng
thuộc linh. Trước khi bắt đâu một ngày mới, bạn nên dành một ít phút trong sự
thờ phường thuần khiết, không có cầu xin hay đòi hỏi điều gì. Hãy thưa cùng
Ngài, “ Chúa ơi, con đến trước mặt Ngài, vào
hiện diện Ngài là chỉ để ở với Ngài, cảm thấy hiện diện Ngài, nghe tiếng
Ngài, và thấy vinh quang cùng vẻ đẹp của Ngài”. Khi bạn cảm xúc hiện diện Ngài,
hãy thờ phượng Ngài vì cớ Ngài là Vua của các vua; hãy ngợi khen Ngài vì sự
thương xót, nhân từ, yêu thương và ân điển của Ngài; hãy cảm tạ Ngài về mọi hoạn
nạn, hãy cảm tạ Ngài vì cuộc đời khó khăn của bạn và không cảm thấy buồn về nó,
vì cớ Đức Chúa Trời không thể có lỗi lầm, vì bất luận điều gì Ngài cho phép
trong đời sống của bạn đều có một mục đích. Nên bạn phải cảm tạ Đức Chúa Trời về
mọi sự (Philip 4:6-).Thậm chí dù Chúa có thể giữ bạn trong tình thế khó khan,
trong bệnh tật hay trong nghèn nàn, hay hoạn nạn bất cứ loại nào, bạn vẫn có thể
ngợi khen Ngài, thờ lạy Ngài và tôn đại Ngài, vì cớ mọi sự đều do Ngài cho phép
với một mục đích cặp theo. Chúng ta càng thờ lạy Ngài như vậy, chúng ta càng lớn
lên mặt thuộc linh.
Bakht Singh
---
Chúa Che Giấu
Thi thiên 31:20, “Chúa giấu họ tại nơi ẩn bí ở trước mặt
Chúa, cách xa mưu kế của loài người; Chúa che khuất họ trong một cái lều cách
xa sự tranh giành của lưỡi”.
Esai 54:17, “Phàm binh khí chế ra nghịch cùng ngươi sẽ chẳng
thạnh lợi, và ngươi sẽ định tội mọi lưỡi dấy lên để xét đoán ngươi. Đức
Giê-hô-va phán: Ấy là phần cơ nghiệp của các tôi tớ Đức Giê-hô-va, và sự công
bình bởi ta ban cho họ”.
Xachari 2:8, “Vì Đức Giê-hô-va vạn quân phán rằng: ..vì ai đụng
đến các ngươi tức là đụng đến con ngươi mắt Ngài”.
Thi thiên 31: 20 bảo
Chúa sẽ che giấu chúng ta khỏi sự tranh giành của cái lưỡi. Để làm điều nầy, Chúa
thường cảnh cáo trước cho chúng ta về hoạn nạn sắp đến. Khi chúng tôi bắt đầu
công việc Chúa ở Madras vào tháng 6 năm 1941, chúng tôi đã lên một ngọn đồi và
dành trọn cả đêm để cầu nguyện tại đó. Đang khi chúng tôi thắp một đèn lên, nhiều
loại côn trùng từ mồ mả người Hồi giáo xung quanh đó xông tới theo hướng ngọn
đèn. Trong số côn trùng đó có bò cạp và rết không ít. Chúng tôi đã giết chúng nó suốt đêm. Mỗi lần
chúng tôi quì xuống cầu nguyện, bò cạp và rết liền đến, thật là một phép lạ khi
không một ai trong chúng tôi bị cắn. Bởi điều nầy Chúa phán với chúng tôi rằng
hãy chuẩn bị về các bò cạp và rết…tức là dân chúng sẽ đến chống đối chúng tôi.
Chúa đã hứa rằng họ không làm hại chúng tôi được. Ngài đã bày tỏ trước rằng
chúng tôi sẽ bị mọi người xung quanh khinh khi, bắt bớ và ghen ghét, và điều đó
là thật. Khi chúng tôi đã bắt đầu bẻ bánh tiệc thánh và làm chứng trong nước
báp-têm tại thành phố Madras, mọi người lãnh đạo đã đến chống đối chúng tôi,
dùng nhiều cách thế tục để chận đứng công việc xây dựng Hội thánh tại đó. Nhưng
chúng tôi không quan tâm họ. Vào đúng thời giờ của Đức Chúa Trời, Ngài bắt đầu
đánh bại họ, và chúng tôi đã không nói một lời nào chống đối họ, hay cố gắng
bênh vực mình. Chúng tôi thực sự tin lời hứa lạ lùng trong Esai 54:17. Đang khi
chúng ta ở trong Ngài, Ngài sẽ bênh vực chúng ta. Chúng tôi đã thấy điều nầy là
sự thật trải nhiều năm trong quá khứ, và tại nhiều nơi trên thế giới. Một sự bảo
đảm như vậy ban cho chúng ta từ nhiều phần trong Kinh thánh. Như Xachari 2: 8 trên
đây, “vì ai đụng đến các ngươi tức là đụng đến con ngươi mắt Ngài”. Con mắt rất
nhạy cảm, chỉ một làn khói bay vào nó, nó bắt đầu chớp, và chảy nước mắt, do đó
tẩy sạch hạt bụi dù nhỏ tí xíu. Đó là cách Đức Chúa Trời sẽ giữ gìn chúng ta. Ngài
sẽ không cho chép bất cứ loại vũ khí nào chống đối chúng ta thịnh vượng, miển
là chúng ta tiếp tục ngợi khen và tin cậy Ngài và đòi hỏi lời hứa của Ngài.
Bakht Singh--Ấn độ.
----
Nép-Ta –Li---Vật Lộn Với Đức Chúa Trời
Sáng thế ký 30:8, “Ra-chên rằng: Tôi đã hết sức chống cự với
chị tôi, và tôi được thắng; vì cớ ấy, nàng đặt tên đứa trai nầy là Nép-ta-li”
(Vật lộn, tranh đấu).
Dân 2:29, “Kế đến chi phái Nép-ta-li; quan trưởng của người
Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của Ê-nan”.
Sáng 32:26, “Người đó bèn nói: Trời đã rạng đông rồi; thôi, để
cho ta đi; nhưng Gia-cốp đáp rằng: Tôi chẳng cho người đi đâu, nếu người không
ban phước cho tôi”
Epheso 6:18, “Lúc nào cũng hãy dùng đủ thứ khẩn đảo, nài xin
mà cầu nguyện trong Thánh Linh; về điều đó hãy thức canh, bền đỗ mọi bề mà cầu
nguyện cho hết thảy các thánh đồ”.
Tên khắc trên viên đá quí cuối cùng của bảng đeo ngực thầy
thượng tế A-rôn là Nép-ta-li. Nép ta li có nghĩa là “vật lộn với Đức Chúa Trời”.
Gia cốp vật lộn với Đức Chúa Trời xin Ngài ban phước. Abraham vật lộn cầu nguyện
cho Sô đôm. Chúng ta cũng có đặc quyền đến cùng Đức Chúa Trời để trăn trở và cầu
thay cho dân Đức Chúa Trời và cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời trên khắp thế giới.
Cá nhân chúng ta không thể đi đến mọi nơi, nhưng chúng ta có thể cầu nguyện.
Khi chúng ta biết được các nhu cầu của thánh dân, chúng ta nên chiến đấu cầu
nguyện cùng Đức Chúa Trời cho họ. Vòng mối cầu nguyện của chúng ta càng lớn,
chúng ta sẽ nhận thấy mình càng được kéo đến gần tấm lòng của Đức Chúa Trời nhiều
hơn.
Nhiều năm trước tôi đến Victoria, Canada. Tôi nhận được tin
nhắn từ một phụ nữ cao niên. Chị đã bị gãy cột sống và nằm một chỗ trải nhiều
năm. Khi tôi đến thăm chị trong căn phòng hẹp, nơi chị sống, chị đã nói với
tôi, “Tôi cảm tạ Chúa vì Ngài đã giữ gìn tôi trên giường nầy. Điều nầy cho tôi
có nhiều thì giờ cầu nguyện cho nhiều tôi tớ của Chúa.”
—Nhiều năm trước chị đã muốn làm giáo sĩ nước ngoài, nhưng vì
một vài lý do, chị không thực hiện được. Chị tiếp tục nói, “nhưng bây giờ khi
tôi ở trong sự đau đớn và không thể ngủ, Chúa đã nhắc nhở tôi cầu nguyện cho
người tôi tớ nầy của Chúa, và cầu nguyện cho người tôi tớ kia của Ngài, và cầu
thay cho người đầy tớ nọ của Đức Chúa Trời ở chỗ khác trên thế giới”.—Đó là chức
vụ Đức Chúa Trời đã ban cho chị. Bấy giờ, Victoria là hải cảng của Canada, nhiều
tàu thuyền thế giới qua lại đó. Do đó các giáo sĩ từ nhiều quốc gia đi qua
thành phố nầy. Chị nầy có danh sách những tôi tớ của Đức Chúa Trời đi qua, và
chị mời họ ghé thăm chị. Một ai đó đã nói với chị về tôi, và chị đã mời tôi.
Khi tôi đến thăm chị, mặt chị sáng ngời hạnh phúc. Chị nói với tôi rằng thế nào
chị đã cầu nguyện cho tôi trải nhiều năm rồi. Chỉ trong cõi đời đời, chúng ta mới
biết hết những việc lớn mà Đức Chúa Trời đã làm khi đáp lời cầu nguyện của chị
nầy, trong và xuyên qua các thánh đồ, và các tôi tớ của Đức Chúa Trời mà chị đã
cầu thay. Đó là Nép-ta-li. Tất cả chúng ta đều có đặc quyền nầy để vật lộn
trong sự cầu nguyện.
Tôi nhận thấy hành trình bằng tàu hỏa hữu ích cho sự cầu nguyện.
Tôi thường dành nhiều đêm trong sự cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới,
cho sự cứu rỗi, sự an ninh và sự xức dầu khi tôi đi tới lui bằng tàu hỏa trên đất
nước Ấn độ.
Bakht Singh (Ấn độ)