Ngoài trực giác và sự tương giao, linh chúng ta còn có một chức năng
quan trọng khác là điều chỉnh các hành vi sai trái của chúng ta và khiển trách
chúng ta hầu cho chúng ta không có sự bình an khi thiếu hụt vinh hiển của Đức
Chúa Trời. Chúng ta đang nói về lương tâm. Giống như sự thánh khiết của Đức Chúa
Trời kết án kẻ ác và vui thích trong điều thiện thì lương tâm của các tín đồ
cũng quở trách sự dơ bẩn và theo đuổi sự tốt lành. Lương tâm của các tín đồ là
nơi sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được biểu hiện. Nếu ao ước bước đi theo
linh, chúng ta không thể phớt lờ điều lương tâm nói với chúng ta vì dù ở bất cứ
giai đoạn nào, chúng ta cũng không thể không phạm sai lầm hoặc có xu hướng phạm
sai lầm. Lương tâm không chỉ khiển trách khi chúng ta làm một điều gì đó sai
trật để đem chúng ta đến chỗ ăn năn; nếu chỉ có như vậy thì chức năng của lương
tâm sẽ không trọn vẹn. Hơn nữa, đang khi chúng ta suy xét về con đường của mình
và trước khi chúng ta làm bất cứ điều gì, lương tâm sẽ trỗi dậy cùng với trực
giác để phản đối nếu chúng ta nghĩ về một điều gì đó không làm vui lòng Thánh
Linh. Điều này sẽ khiến chúng ta đánh mất cảm thức về sự bình an. Nếu các tín
đồ sẵn lòng lắng nghe tiếng nói của lương tâm đang phát ngôn qua trực giác thì
họ sẽ không thất bại như hiện nay.
LƯƠNG TÂM VÀ
SỰ CỨU RỖI
Khi chúng ta còn là những người vô tín, linh chúng ta hoàn toàn chết.
Lương tâm cũng chết và không thể tác nhiệm cách bình thường. Điều này không có
nghĩa là lương tâm hoàn toàn không tác nhiệm. Lương tâm của một tội nhân vẫn
hoạt động, nhưng nó ở trong một giấc ngủ sâu. Ngay cả khi được đánh thức, nó
cũng chỉ kết án tội nhân; nó không có quyền năng để dẫn dắt con người đến với
Đức Chúa Trời. Mặc dù lương tâm của con người chết đối với Đức Chúa Trời nhưng
Ngài hài lòng vì lương tâm vẫn còn ở trong lòng con người vì chủ đích thực hiện
một công tác rất nhỏ. Dường như trong linh chết của con người, lương tâm vẫn có
thể hoạt động nhiều hơn các phần khác. Sự chết của trực giác và sự tương giao
nghiêm trọng hơn lương tâm. Có một lý do cho điều này. Khi Adam ăn trái cây tri
thức về thiện và ác, trực giác và sự tương giao của ông đối với Đức Chúa Trời
đã hoàn toàn chết; tuy nhiên, khả năng phân biệt thiện ác (lương tâm) của ông
đã gia tăng. Đến ngày hôm nay, trực giác của một tội nhân đối với Đức Chúa Trời
và sự tương giao của người ấy với Đức Chúa Trời đã hoàn toàn chết, không còn
một dấu vết gì, nhưng lương tâm vẫn có một chút hoạt động. Không phải là lương
tâm của con người vẫn sống, vì theo ý nghĩa của Kinh Thánh, việc sống có liên
hệ đến việc có sự sống của Đức Chúa Trời. Không có sự sống của Đức Chúa Trời là
chết. Theo Kinh Thánh, lương tâm một tội nhân đang chết vì nó không chứa đựng
sự sống của Đức Chúa Trời, nhưng theo cảm nhận của con người, nó vẫn có thể
hoạt động. Hoạt động này của lương tâm chỉ khiến một tội nhân có trực giác chết
cảm thấy đau khổ hơn mà thôi.
Vì lương tâm vẫn có thể hoạt động theo cách này nên Thánh Linh bắt đầu
thực hiện công tác cứu rỗi bằng cách trước hết đánh thức lương tâm đang ngủ.
Ngài dùng sấm và chớp của núi Sinai để làm rúng động và soi sáng lương tâm bị
làm cho tối tăm này hầu nhận thức rằng nó đã vi phạm luật pháp của Đức Chúa
Trời và không thể đáp ứng các đòi hỏi công nghĩa của Ngài. Theo cách này, nó bị
kết án và phải bị diệt vong. Nếu lương tâm sẵn lòng xưng nhận các vi phạm và
tội vô tín của mình, nó sẽ tự trách mình và tìm kiếm sự thương xót từ Đức Chúa
Trời. Ẩn dụ về người thu thuế đến đền thờ để cầu nguyện minh họa cho công tác
của Thánh Linh trong lương tâm. Theo các lời Chúa Jesus phát ngôn, bước đầu
tiên trong công tác của Thánh Linh là khiến cho con người tự cáo trách về tội,
sự công nghĩa và sự phán xét. Nếu lương tâm từ chối công tác này, một tội nhân
sẽ không có khả năng nhận được sự cứu rỗi.
Thánh Linh chiếu ánh sang của luật pháp Đức Chúa Trời vào trong lương
tâm của một tội nhân hầu cho người ấy có thể nhận biết tội lỗi của mình. Thánh
Linh cũng ban cho lương tâm của con người ánh sáng của phúc âm hầu cho họ có
thể được cứu. Sau khi tội nhân biết tội và nghe về phúc âm ân điển, Đức Chúa
Trời cũng sẽ ban cho người ấy đức tin để tiếp nhận sự cứu rỗi, nếu người ấy sẵn
lòng chấp nhận. Khi đó, người ấy sẽ thấy thể nào huyết quý báu của Chúa Jesus
thỏa đáp mọi lời kiện cáo của lương tâm mình. Mặc dù người ấy đã phạm tội,
nhưng huyết của Chúa Jesus đã đổ ra. Ngài đã nhận hình phạt vì tội rồi. Còn gì
để kiện cáo nữa? Huyết của Chúa Jesus đã tẩy sạch tín đồ khỏi mọi tội trong đời
sống của người ấy; vì vậy, lương tâm không cần kiện cáo người ấy nữa. Vì lương
tâm của người thờ phượng đã được làm thuần khiết nên nó không cảm thức về tội
nữa (Heb. 10:2). Huyết quý báu của Chúa Jesus đã được rảy trên lương tâm chúng
ta (9:14) hầu cho chúng ta có thể dạn dĩ đứng trước mặt Đức Chúa Trời. Sự chắc
chắn của sự cứu rỗi là một sự thật, vì tiếng nói của lương tâm đã bị huyết quý
báu làm cho nín lặng. Nếu lòng không tin vào huyết quý báu, lương tâm vẫn kiện
cáo chúng ta về việc chúng ta đã gian ác thể nào trước khi được tái sanh.
Cả ánh sáng làm cho khiếp sợ của luật pháp lẫn ánh sáng yêu thương của
phúc âm đều chiếu vào trong lương tâm. Vì vậy, chẳng lẽ chúng ta không chú ý
đến lương tâm con người khi rao giảng sao? Nếu chủ đích của chúng ta chỉ là
khiến cho người khác hiểu biết bằng tâm trí, được khuấy động trong tình cảm,
hoặc quyết tâm trong ý muốn, và nếu sứ điệp của chúng ta không vươn đến lương
tâm của họ, thì cho dù họ hiểu biết, được khấy động và quyết định trong tâm
trí, Thánh Linh vẫn không có cách nào thực hiện công tác sâu hơn. Đây là vì
công tác sâu hơn của sự tái sanh dựa trên một lương tâm nhận biết thấu đáo về
tội lỗi và huyết quý báu. Trong các sự dạy dỗ của mình, chúng ta phải chú ý đến
huyết quý báu và lương tâm như nhau. Nhiều người nhấn mạnh đến lương tâm và ít
phát ngôn về huyết quý báu; do đó, người ta nỗ lực ăn năn và làm thiện, hi vọng
rằng qua những điều này họ có thể tránh khỏi cơn giận của Đức Chúa Trời. Những
người khác nhấn mạnh đến huyết quý báu mà không nói về lương tâm. Kết quả là
người ta có thể hiểu biết trong tâm trí, được khấy động trong tình cảm và quyết
tâm trong ý muốn, nhưng “đức tin” của họ không có rễ vì lương tâm của họ vẫn
chưa được lay động bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Vì vậy, hai điều này phải
được rao giảng bằng nhau. Bất cứ ai nhìn thấy các sự quá phạm của lương tâm đều
chấp nhận ý nghĩa của huyết quý báu.
LƯƠNG TÂM VÀ
SỰ TƯƠNG GIAO
Câu Kinh Thánh sau đây cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa lương tâm và
sự tương giao của con người với Đức Chúa Trời trong trực giác. “Huyết của Đấng
Christ, Đấng qua Linh đời đời đã dâng chính Ngài không tì vết cho Đức Chúa
Trời, sẽ tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi những công tác chết để phục vụ Đức
Chúa Trời hằng sống càng hơn là dường nào?” (Heb. 9:14). Nếu con người muốn
tương giao với Đức Chúa Trời và “phục vụ Đức Chúa Trời”, trước hết lương tâm
người ấy phải được tẩy sạch bởi huyết quý báu. Vì lương tâm của tín đồ được tẩy
sạch bởi huyết của Chúa nên người ấy được tái sanh. Vì vậy, theo Kinh Thánh,
việc tẩy sạch bởi huyết và sự tái sanh của linh xảy ra cùng một lúc. Lương tâm
phải được tẩy sạch bởi huyết để một tín đồ có thể có được sự sống mới và có
trực giác được làm cho sống động; khi đó, người ấy có thể phục vụ Đức Chúa
Trời. Linh chỉ có thể phục vụ Đức Chúa Trời trong trực giác sau khi lương tâm
đã nhận được sự tẩy sạch của huyết. Mối liên hệ giữa lương tâm và trực giác
không thể phân rẽ.
Hebrew 10:22 nói: “Chúng ta hãy ra trình diện với lòng chân thật trong
sự tin chắc đầy đủ của đức tin, vì lòng chúng ta đã được rảy khỏi lương tâm xấu
và thân thể được rửa bằng nước thuần khiết”. Khi ra trình diện Đức Chúa Trời,
chúng ta không sử dụng thân thể mình giống như những người trong Cựu Ước, vì
Nơi Chí Thánh của chúng ta (c. 19) ở trong cõi thiên thượng; chúng ta cũng
không dùng các tư tưởng và cảm xúc của mình vì các phần này của hồn không thể
có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Chỉ có linh được tái sanh mới có thể ra
trình diện Đức Chúa Trời. Tín đồ chỉ có thể thờ phượng Đức Chúa Trời qua trực
giác được phục hồi của mình (chúng ta đã nói qua điều này). Câu Kinh Thánh này
bày tỏ rằng việc tẩy sạch các sự vi phạm của lương tâm là nền tảng cho sự tương
giao với Đức Chúa Trời trong trực giác, nếu lương tâm ý thức về bất cứ sự vi
phạm nào thì không thể có bất kỳ sự tương giao nào với Đức Chúa Trời trong trực
giác. Nếu lương tâm có bất kỳ sự vi phạm nào, một tín đồ sẽ tự phát kết án
chính mình. Khi đó trực giác, là điều gắn chặt với lương tâm, lập tức bị ảnh
hưởng. Vì vậy tín đồ không dám và không thể đến gần Đức Chúa Trời. Hơn nữa, khi
tín đồ tương giao với Đức Chúa Trời, không thể thiếu “lòng chân thật trong sự
tin chắc đầy đủ của đức tin”. Một khi lương tâm có bất kỳ sự vi phạm nào, tín
đồ sẽ đến gần Đức Chúa Trời cách miễn cưỡng và không ra từ tấm lòng chân thật;
tự nhiên, người ấy sẽ không thể tin rằng Đức Chúa Trời là vì mình và Ngài không
có gì nghịch lại với mình. Loại tự kết án và nghi ngờ này đè nặng trên trực
giác đến nỗi nó không thể tự do có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Tín đồ
không được có bất cứ sự kết án nào từ lương tâm. Người ấy phải biết rằng mình
đã được tẩy sạch khỏi tội lỗi bởi huyết của Chúa và không có gì chống lại người
ấy (Rô ma 8:33-34). Một sự vi phạm nhỏ trong lương tâm cũng đủ để đàn áp, cản
trở và ngăn chặn hoạt động của sự tương giao bởi trực giác. Mỗi khi một tín đồ
ý thức về bất kỳ tội nào, mọi năng lực của linh đều tập trung vào việc giũ sạch
tội cụ thể này và không có sức lực để bước ra hay thăng thiên.
LƯƠNG TÂM
CỦA TÍN ĐỒ
Sau khi linh của tín đồ được tái sanh, lương tâm người ấy được làm cho
sống động. Huyết quý báu của Chúa Jesus làm thuần khiết lương tâm hầu cho lương
tâm được sạch, sở hữu cảm nhận sắc bén nhất và có thể công tác theo ý muốn của
Thánh Linh. Công tác thánh hóa và đổi mới của Thánh Linh trong con người và
công tác của lương tâm liên hệ và kết nối hỗ tương với nhau. Nếu tín đồ muốn
được đổ đầy bởi Thánh Linh, được thánh hóa, có một đời sống phù hợp với chủ
đích của Đức Chúa Trời và hoàn toàn bước đi theo linh thì người ấy không thể
phớt lờ tiếng nói của lương tâm. Nếu không nhường cho lương tâm vị trí mà nó
đáng phải có, chắc chắn chúng ta sẽ rơi vào chỗ bước đi theo xác thịt. Trung
tín trong việc xử lý lương tâm là bước đầu tiên trong công tác thánh hóa. Bước
đi theo lương tâm là một dấu hiệu của sự thuộc linh thật. Nếu một tín đồ thuộc
xác thịt không để cho lương tâm thực hiện công tác triệt để, người ấy không có
cách nào bước vào trong lĩnh vực thuộc linh. Cho dù một người nghĩ mình thuộc
linh nhưng sự thuộc linh của người ấy không có nền tảng. Nếu tội lỗi cùng với
những điều không theo chủ đích của Đức Chúa Trời và không phù hợp với phẩm hạnh
đúng đắn của các thánh đồ không được xử lý theo tiếng nói của lương tâm thì nền
tảng thuộc linh không được thiết lập cách đúng đắn. Dù xây dựng trên đó bao
nhiêu ý tưởng thuộc linh đi nữa thì cuối cùng cũng sụp đổ.
Công tác của lương tâm là làm chứng cho chúng ta rằng chúng ta có đúng
đắn với Đức Chúa Trời và con người hay không, các hành vi, tư tưởng và lời nói
của chúng ta có theo ý muốn của Đức Chúa Trời và không phản loạn với Đấng
Christ không. Mỗi khi có sự tiến bộ trong nếp sống Cơ Đốc, lời chứng của lương
tâm và lời chứng của Thánh Linh gần như giống nhau. Khi lương tâm hoàn toàn
được kiểm soát bởi Thánh Linh, lương tâm ngày càng trở nên nhạy bén hơn cho đến
khi lương tâm phù hợp với sự phát ngôn của Thánh Linh. Hơn nữa, Thánh Linh cũng
phát ngôn với các tín đồ qua lương tâm. Đây là ý nghĩa các lời của vị sứ đồ:
“Lương tâm tôi cùng làm chứng với tôi trong Thánh Linh” (Rô ma 9:1).
Nếu lương tâm chúng ta làm chứng rằng chúng ta sai trật thì chúng ta
sai trật. Nếu lương tâm kết án chúng ta về tội, chúng ta phải ăn năn ngay lập
tức. Chắc chắn chúng ta không thể che đậy hoặc hối lộ lương tâm. “Nếu lòng chúng
ta cáo trách mình, đó là vì Đức Chúa Trời lớn hơn lòng chúng ta” (1 John 3:20).
Chẳng phải Đức Chúa Trời sẽ kết án chúng ta hơn nữa sao? Sự kết án của lương
tâm cho chúng ta biết mình sai. Bất cứ điều gì lương tâm kết án chắc chắn Đức
Chúa Trời cũng kết án. Chắc chắn không có chuyện sự công nghĩa của Đức Chúa
Trời kém hơn tiêu chuẩn của lương tâm chúng ta. Vì vậy, nếu lương tâm chúng ta
nói rằng chúng ta đã sai rồi thì chắc chắn là chúng ta sai.
Vì đã sai trật nên chúng ta phải làm gì? Nếu chưa làm điều đó thì chúng
ta phải dừng lại; nếu đã phạm điều đó chúng ta phải ăn năn, xưng nhận tội lỗi
mình và tìm kiếm sự tẩy sạch của huyết quý báu. Đáng tiếc là ngày nay các tín
đồ không bước đi theo cách này. Một khi lương tâm khiển trách, họ nghĩ đến việc
hối lộ và làm hòa với lương tâm để lương tâm không còn lên tiếng phản đối nữa.
Trong tình trạng này, các tín đồ thường có hai sự lựa chọn. Một là các tín đồ
sẽ tranh cãi với lương tâm, cố gắng sử dụng các lý lẽ để biện minh cho hành
động của mình. Họ nghĩ rằng bất cứ điều gì có thể được biện minh bởi các lập
luận đều là theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Vì vậy, họ hi vọng rằng lương tâm
cũng sẽ yên lặng. Họ không biết rằng lương tâm, giống như trực giác, không tác
nhiệm bởi các lập luận. Lương tâm biết ý muốn của Đức Chúa Trời qua trực giác;
lương tâm kết án bất cứ điều gì không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời. Lương
tâm chỉ đại diện cho ý muốn của Đức Chúa Trời để phát ngôn và không quan tâm
đến các lý lẽ. Một tín đồ không nên bước đi theo lý lẽ hay bất cứ điều gì hợp
lý; đúng hơn người ấy phải thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời như được khải thị
trong trực giác. Mỗi khi tín đồ phản loạn chống lại sự chuyển động của trực
giác, lương tâm sẽ phát ngôn để kết án. Mặc dù các sự giải thích bằng lý lẽ có
thể làm thỏa mãn tâm trí nhưng điều đó không đủ để làm thỏa mãn lương tâm. Một
khi lương tâm đã kết án một vấn đề nào đó thì nó sẽ không bao giờ chấp nhận bất
cứ lập luận nào và không bao giờ ngừng kết án cho đến khi vấn đề đó được cất
đi. Ban đầu, lương tâm chỉ làm chứng về những điều đúng sai; sau khi tín đồ
tăng trưởng trong sự sống thuộc linh, lương tâm không chỉ làm chứng về những
điều đúng sai mà còn làm chứng về điều gì ra từ Đức Chúa Trời và điều gì không
ra từ Đức Chúa Trời. Vì vậy, mặc dù nhiều điều tốt lành theo mắt con người
nhưng chúng vẫn bị lương tâm kết án nếu chúng không dựa trên sự khải thị của
Đức Chúa Trời mà chỉ là sự khởi xướng của tín đồ.
Sự lựa chọn thứ hai là một tín đồ sẽ cố gắng làm nhiều điều khác để an
ủi lương tâm. Về một mặt, người ấy không sẵn lòng vâng phục tiếng nói của lương
tâm và bước theo sự chỉ dẫn của lương tâm để làm vui lòng Đức Chúa Trời. Mặt
khác, người ấy sợ sự kết án của lương tâm quấy rầy người ấy và khiến người ấy
cảm thấy khốn khổ. Vì vậy, người ấy nghĩ về việc làm nhiều việc thiện để che
đậy. Người ấy cố gắng thay thế ý muốn của Đức Chúa Trời bằng các hành vi tốt.
Người ấy không đầu phục Đức Chúa Trời, nhưng nói rằng các hành vi hiện tại của
mình cũng tốt như các sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và có lẽ còn tốt hơn, đẹp
đẽ hơn, ở trong quy mô lớn hơn, ích lợi hơn, hữu dụng hơn và có tầm ảnh hưởng
lớn hơn. Người ấy cho rằng công tác của mình là tốt nhất. Bất kể người ấy làm
bao nhiêu điều và con người đánh giá công tác của người ấy ra sao thì cũng
không có bất cứ sự hữu dụng thuộc linh nào trong mắt Đức Chúa Trời. Không phải
là có bao nhiêu mỡ được dâng lên, cũng không phải là có bao nhiêu của lễ thiêu
mà là có bao nhiêu sự thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời khải thị
trong linh rằng một điều gì đó phải được cất đi, thì bất kể các ý định của anh em
tốt lành đến đâu, bất kể gia súc anh em béo tốt đến đâu, bất kể vàng bạc anh em
có nhiều đến đâu, chúng cũng không đủ chuyển động lòng Đức Chúa Trời. Tiếng nói
của lương tâm phải được thuận phục. Nếu không, Đức Chúa Trời sẽ không hài lòng,
bất kể công tác anh em tốt đến đâu. Dù cho của lễ có gấp nhiều lần hơn sự đòi
hỏi của Đức Chúa Trời đi nữa thì cũng không thể dừng tiếng nói của lương tâm
lại. Lương tâm chỉ đòi hỏi chúng ta vâng phục; lương tâm không đòi hỏi chúng ta
làm bất cứ điều gì lạ thường để phục vụ Đức Chúa Trời.
Vì vậy, chúng ta đừng có bất cứ hành động tự lừa dối nào. Nếu chúng ta
muốn bước đi theo linh, chúng ta phải vâng phục sự hướng dẫn của lương tâm.
Đừng cố gắng thoát khỏi “sự quở trách bên trong”! Hơn nữa, hãy cẩn thận lắng
nghe. Nếu muốn bước đi theo linh mọi lúc, chúng ta phải hạ mình và chú ý đến
các sự điều chỉnh của lương tâm. Một tín đồ không nên xưng nhận tổng quát, cho
rằng các lỗi lầm của mình nhiều đến nỗi không thể kể rõ. Một sự xưng nhận mơ hồ
không cho phép lương tâm thực hiện công việc triệt để. Tín đồ phải để cho Thánh
Linh, qua lương tâm, chỉ ra các tội lỗi của mình từng điều một. Người ấy phải
hạ mình, yên lặng và thuần phục để cho lương tâm quở trách và kết án người ấy
về tội lỗi của mình từng điều một. Người ấy phải chấp nhận sự quở trách của
lương tâm và sẵn lòng, theo tâm trí của Thánh Linh, cất đi mọi điều chống đối
Đức Chúa Trời. Anh em có dám để cho lương tâm tra xét đời sống mình không? Anh
em có dạn dĩ để cho lương tâm nói cho anh em biết tình trạng thật của toàn bộ
đời sống anh em không? Anh em có sẵn lòng để cho lương tâm đặt toàn bộ cách
sống và hành vi của anh em ở trước mặt anh em, theo tâm trí của Đức Chúa Trời
không? Anh em có sẵn lòng để cho lương tâm mở ra mọi tội lỗi của anh em không?
Nếu anh em không sẵn lòng và rụt lại, e sợ trong lòng, điều này chỉ tỏ rằng vẫn
còn nhiều điều trong đời sống anh em phải bị kết án và đóng đinh lên thập tự
giá; nhưng anh em không thuận phục. Điều này cũng chỉ tỏ rằng anh em không hoàn
toàn thuận phục Đức Chúa Trời trong nhiều điều và anh em cũng không bước đi
theo linh. Giữa anh em và Đức Chúa Trời vẫn không phải là một sự tương giao
trọn vẹn, vẫn còn nhiều ngăn trở. Cho nên, anh em không thể nói với Đức Chúa
Trời: “Không có sự phân rẽ giữa Ngài và tôi”.
Việc chấp nhận sự quở trách của lương tâm cách vô điều kiện và không
giới hạn và sự sẵn lòng bước đi theo sự khải thị của lương tâm chứng tỏ sự hiến
dâng của chúng ta đối với Đức Chúa Trời có trọn vẹn hay không, chúng ta có thật
sự ghét tội lỗi và thành thật muốn thực hiện ý muốn của Ngài không. Nhiều lần
chúng ta sẵn lòng thuận phục Đức Chúa Trời hoàn toàn, bước đi theo linh và làm
một người thật sự làm vui lòng Đức Chúa Trời; bây giờ là lúc kiểm tra các ý
định của chúng ta, xem chúng ta là đúng hay sai, trọn vẹn hay thiếu hụt. Nếu
chúng ta vẫn còn dính líu đến tội lỗi và không hoàn toàn cắt đứt với tội thì
hầu hết sự thuộc linh của chúng ta là giả. Nếu một tín đồ không thể bước đi
hoàn toàn theo lương tâm thì người ấy không thể bước đi theo linh hoàn toàn, vì
sự đòi hỏi của lương tâm chưa được đáp ứng. Vì vậy, ngoài “linh tưởng tượng”
dẫn dắt người ấy, linh thật sự đang kiên trì đòi hỏi người ấy lắng nghe sự phát
ngôn của lương tâm. Nếu tín đồ bị tác động mạnh trong lương tâm mình sau sự tự
tra xét, nhưng không muốn bị thẩm phán bởi ánh sáng của Đức Chúa Trời, không ăn
năn, và không chịu xử lý triệt để thì nếp sống thuộc linh của người ấy chắc
chắn sẽ không có sự tiến bộ thật. Việc sự hiến dâng và công tác của tín đồ là
đúng hay sai tùy thuộc vào việc người ấy có sẵn lòng hoàn toàn thuận phục Chúa,
vâng phục lệnh truyền và sự quở trách của Ngài hay không.
Sau khi tín đồ để cho lương tâm hành động, người ấy không chỉ lưu lại
trong giai đoạn này. Một tội nào đó đã được xử lý rồi nhưng các tội khác cũng
cần được xử lý dần dần, cho đến khi mọi tội lỗi được xử lý triệt để. Nếu tín đồ
trung tín xử lý mọi điều sai trái và bước đi theo lương tâm thì ánh sáng thiên
thượng sẽ chiếu sáng càng hơn bên trong người ấy. Khi đó, người ấy có thể khám
phá ra tội lỗi mà trước đây người ấy không để ý thấy; người ấy có thể lĩnh hội
nhiều hơn mỗi ngày, đọc và biết luật mà Thánh Linh viết trong lòng người ấy.
Theo cách này, tín đồ sẽ biết sự thánh khiết, công nghĩa, thuần khiết và ngay
thẳng là gì. Những điều trước đây vốn không rõ ràng sẽ được khắc sâu trong lòng
mình. Trực giác sẽ được giúp đỡ nhiều và sự nhạy bén của trực giác trong việc
hiểu biết ý định của Thánh Linh sẽ gia tăng. Vì vậy, khi lương tâm quở trách,
tín đồ phải nói với Đức Chúa Trời: “Tôi sẵn lòng thuận phục”. Người ấy phải để
cho Đấng Christ làm Chúa của đời sống mình một lần nữa và người ấy phải sẵn
lòng chịu dạy dỗ và nương dựa trên các sự dạy dỗ của Thánh Linh. Nếu tín đồ
thật sự bước theo lương tâm. Thánh Linh chắc chắn sẽ đến giúp đỡ.
Lương tâm là cửa sổ của linh tín đồ. Ánh sáng từ trời chiếu sáng qua đó
để linh và toàn bản thể của tín đồ đầy dẫy ánh sáng. Toàn bản thể tín đồ và
linh người ấy sẽ nhìn thấy ánh sáng từ trời qua đó. Mỗi lần chúng ta suy nghĩ,
nói chuyện và làm một điều gì đó không tốt hay không phù hợp với phẩm hạnh đúng
đắn của một tín đồ, ánh sáng thiên thượng sẽ chiếu sáng qua lương tâm để phơi
bày sai phạm của chúng ta và kết án các thất bại của chúng ta. Nếu chúng ta để
cho lương tâm hành động, thuận phục lương tâm và cất đi mọi sự mà lương tâm kết
án thì ánh sáng thiên thượng sẽ chiếu sáng hơn nữa vào lần sau. Nếu chúng ta
không xưng nhận các lỗi lầm của mình hoặc cất đi tội, thì vết nhơ của tội sẽ
còn lại và lương tâm sẽ bị ô uế (Titus 1:15) vì chúng ta không bước đi theo sự
dạy dỗ của ánh sáng Đức Chúa Trời. Rồi hết tội này tới tội kia đến, hết vết bẩn
này đến vết bẩn kia thêm vào, khiến cho cửa sổ càng lúc càng trở nên tối tăm
đến nỗi ánh sáng khó mà chiếu qua. Cho nên, tín đồ sẽ cố ý phạm tội mà không
cảm thấy bất an. Lương tâm sẽ bị dập tắt và trực giác sẽ bị tội lỗi làm cho mờ
đục. Một tín đồ càng thuộc linh thì lương tâm người ấy càng nhạy bén. Không có
tín đồ nào thuộc linh đến nỗi không còn phải xưng nhận tội mình nữa. Nếu lương
tâm mờ đục và thậm chí mất cảm giác, thì chắc chắn người ấy sẽ bị suy thoái về
mặt thuộc linh. Tri thức tốt nhất, sự lao nhọc chuyên cần, tình cảm nhiệt thành
và ý chí vững chắc, không bao giờ có thể thay thế sự nhạy bén của lương tâm.
Nếu tín đồ không chăm sóc lương tâm và thay vào đó lại theo đuổi sự tiến bộ
trong tâm trí và tình cảm thì người ấy sẽ thụt lùi trong bước đi thuộc linh.
Sự nhạy bén của lương tâm có thể gia tăng và cũng có thể giảm sút. Nếu
một tín đồ nhường lập trường cho lương tâm công tác, cửa sổ của người ấy sẽ mỗi
ngày một sáng hơn. Nếu người ấy phớt lờ sự phát ngôn của lương tâm hoặc, như
chúng ta đã nói trước đây, sử dụng các lý luận hoặc các công tác khác để thay
thế các đòi hỏi của lương tâm thì lương tâm sẽ phát ngôn đi phát ngôn lại.
Nhưng sau khoảng mười lần, lương tâm sẽ ngừng phát ngôn. Tiếng nói sẽ ngày càng nhỏ nhẹ hơn cho đến khi mất hẳn. Mỗi lần
tín đồ không lắng nghe tiếng nói của lương tâm mình, sự sống thuộc linh của
người ấy bị tổn hại. Nếu người ấy để cho sự sống thuộc linh của mình tiếp tục
bị tồn hại, cuối cùng, tín đồ đó chắc chắn sẽ rơi vào trong vị trí thuộc xác
thịt. Người ấy sẽ không còn ghét tội và ao ước chiến thắng như trước nữa. Nếu
không đối diện với sự quở trách của lương tâm, người ấy không thể biết được tầm
quan trọng của việc lắng nghe tiếng nói của lương tâm và bước đi theo linh.
MỘT LƯƠNG
TÂM KHÔNG VẤP PHẠM
Sứ đồ Paul nói “Tôi đã cư xử mọi cách theo lương tâm tốt trước mặt Đức
Chúa Trời cho đến ngày này” (Công 23:1). Đây là bí quyết của đời sống ông.
Lương tâm được nói đến ở đây không phải là lương tâm của một người chưa được tái
sanh mà là một lương tâm đầy dẫy Thánh Linh. Vị sứ đồ dạn dĩ trong việc tiến
tới để có sự tương giao đầy đủ với Đức Chúa Trời vì lương tâm được tái sanh của ông không quở
trách ông. Mọi hành vi của ông đều theo lương tâm mình. Ông không một lần nào
phạm bất cứ điều gì mà lương tâm quở trách và cũng không một lần nào cho phép
bất cứ điều gì lương tâm kết án còn lại trong mình, Vì vậy, ông dạn dĩ đối với
Đức Chúa Trời và con người. Mỗi khi có bất cứ sự vấp phạm nào trong lương tâm,
chúng ta không thể hoàn toàn không sợ hãi. Vị sứ đồ nói: “Tôi cũng tự luyện tập
để có một lương tâm không vấp phạm đối với Đức Chúa Trời và con người” (Công
24:16) vì “Nếu lòng chúng ta không cáo trách chúng ta thì chúng ta có sự dạn dĩ
đối với Đức Chúa Trời và con người; và bất cứ điều gì chúng ta cầu xin, chúng
ta sẽ nhận được từ Ngài vì chúng ta giữ các điều răn của Ngài và làm những điều
đẹp lòng trong cách nhìn của Ngài” (1 John 3:21-22)
Nhiều tín đồ không suy xét tầm quan trong của lương tâm. Chúng ta nghĩ
rằng hễ bước đi theo linh thì mọi chuyện đều ổn. Nhưng mỗi khi lương tâm chúng
ta có một sự vấp phạm, chúng ta không thể hoàn toàn không sợ hãi trước mặt Đức
Chúa Trời. Hễ chúng ta sợ hãi trước mặt Đức Chúa Trời thì lập tức có một rào
cản trong sự tương giao của chúng ta với Ngài. Sự vấp phạm của lương tâm là sự
ngăn trở lớn nhất cho sự tương giao của trực giác với Đức Chúa Trời. Nếu chúng
ta không giữ các điều răn của Ngài và những điều đẹp lòng Ngài, lòng chúng ta
sẽ tự nhiên bị quở trách. Sẽ có các sự vấp phạm và rụt lại đối với Đức Chúa
Trời. Hơn nữa, chúng ta sẽ không nhận được những điều chúng ta cầu xin Ngài.
Chỉ có “lương tâm thuần khiết” mới có thể phục vụ Đức Chúa Trời (2 Tim 1:3) Một
lương tâm vấp phạm khiến trực giác thoái lui và sợ đến gần Đức Chúa Trời.
“Vì sự khoe khoang của chúng tôi là điều này, lời chứng của lương tâm
chúng tôi, trong tính đơn nhất và thành thật của Đức Chúa Trời, không trong sự
khôn ngoan theo xác thịt nhưng trong ân điển của Đức Chúa Trời, chúng tôi đã cư
xử trong thế giới” (2 Cor 1:12). Câu này nói về lời chứng của lương tâm. Chỉ có
một lương tâm không vấp phạm mới có thể làm chứng cho tín đồ. Dù chứng cớ của
một người là tốt nhưng lời chứng của chính lương tâm người ấy còn quý báu hơn.
Vị sứ đồ nói rằng ông khoe khoang trong điều này. Trên lối muốn bước đi theo
linh, chúng ta phải thường xuyên có một lời chứng như vậy từ lương tâm. Nhiều
lần, người khác có thể nói sai về chúng ta vì họ không hiểu cách Đức Chúa Trời
dắt chúng ta. Họ có thể hiểu lầm chúng ta và họ có thể đánh giá sai lầm chúng
ta, giống như vị sứ đồ bị các tín đồ thời xưa hiểu lầm và đánh giá sai. Mặt
khác, họ cũng có thể khen ngợi và ngưỡng mộ chúng ta thái quá. Vì bước theo
Chúa, nhiều người có thể thường gièm pha chúng ta, mặc dù chúng ta thật sự đang
vâng phục Chúa. Những lúc khác, người ta tán dương chúng ta vì những điều họ
nhìn thấy nơi chúng ta; tuy nhiên, hầu hết những điều này đều ra từ tình cảm
bất chợt hay sự tưởng tượng. Vì vậy, sự khen ngợi và chỉ trích bên ngoài không
phải là tiêu chuẩn; chỉ có lời chứng của lương tâm được phục sinh của chính
chúng ta mới đáng kể. Chúng ta phải kiểm tra xem lương tâm làm chứng về mình
thế nào. Lương tâm làm chứng chúng ta thuộc loại người nào? Lương tâm có kết án
chúng ta về sự giả hình không? Lương tâm có nói rằng chúng ta che đậy các lỗi
lầm của mình và tự khoác lên một vẻ bề ngoài ấn tượng không? Hoặc lương tâm có
làm chứng rằng chúng ta cư xử trong thế giới này, theo tính đơn nhất và thành
thật của Đức Chúa Trời không? Lương tâm có làm chứng rằng chúng ta bước đi theo
ánh sáng mà chúng ta nhận được không?
Lương tâm làm chứng gì về Paul? Lời chứng là “không trong sự ngôn ngoan
thuộc xác thịt nhưng trong ân điển của Đức Chúa Trời , chúng ta đã cư xử trong
thế giới” Thật ram đây lời chứng duy nhất của lương tâm. Lương tâm tranh đấu và
đòi hỏi tín đồ sống bởi ân điển của Đức Chúa Trời và không theo sự khôn ngoan
thuộc xác thịt. Sự khôn ngoan của xác thịt chẳng có ích lợi gì trong công tác
và ý muốn của Đức Chúa Trời, cũng không ích lợi gì trong nếp sống thuộc linh
của tín đồ. Tâm trí con người tuyệt đối vô dụng trong sự tương giao với Đức
Chúa Trời; thậm chí trong sự tiếp xúc của con người với những điều thuộc thể,
nó cũng chiếm một vị trí thứ yếu. Cách xư xử của tín đồ trong thế giới hoàn
toàn lệ thuộc vào ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển nghĩa là Đức Chúa Trời làm
mọi sự và con người không làm gì cả (Rô ma 11:6) Chỉ khi nào tín đồ sống bằng
cách hoàn toàn lệ thuộc Đức Chúa Trời, không cho phép chính mình khởi xướng bất
cứ điều gì, không cho phép tâm trí con người bước vào và thống trị, lúc đó
lương tâm mới có thể làm chứng rằng chúng ta sống trong thế giới theo tính đơn
nhất và thành thật của Đức Chúa Trời. Nói cách khác , lương tâm cùng công tác
với trực giác. Lương tâm chỉ làm chứng và thán thành cách cư xử theo trực giác
của tín đồ. Bất cứ cách cư xử nào đi ngược lại với trực giác, dù điều đó có
theo sự khôn ngoan của con người đi nữa, thì cũng bị lương tâm kháng cự. Tóm
lại, lương tâm không tán thành bất cứ điều gì khác hơn sự khải thị của trực
giác. Trực giác dẫn dắt tín đồ và lương tâm thúc giục tín đồ vâng phục trực
giác khi người ấy nghĩ đến chuyện không vâng phục sự dẫn dắt đó.
(Người Thuộc Linh)