NGUYÊN TẮC SỰ SỐNG
Phúc Âm Giăng không đơn giản như
nhiều người vẫn nghĩ. Khi viết Phúc Âm của mình, Giăng hoàn toàn ở dưới sự xức
dầu của chim bồ câu, là Linh. Do đó, bố cục Phúc Âm này rất kỳ diệu. Chúng ta
đã thấy chương một giới thiệu toàn bộ sách này. Dầu vài nhà giải nghĩa Phúc Âm
Giăng nói rằng phần giới thiệu chỉ gồm mười tám câu đầu của chương một, Chúa
cho chúng ta thấy toàn thể chương một là phần giới thiệu. Phần giới thiệu bắt đầu
với cõi đời đời quá khứ và kết thúc với cõi đời đời tương lai. Giữa cõi đời đời
quá khứ với cõi đời đời tương lai là chiếc cầu thời gian, trên đó có năm biến cố
chính xảy ra để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Chúng ta đã thấy
rõ điều đó trong bài trước. Giăng chương 1 cũng là một phần cô đọng của toàn thể
Phúc Âm Giăng. Thật ra, đó là một phần cô đọng của toàn bộ Kinh Thánh.
Sau khi đưa ra cho chúng ta một
phần giới thiệu bao-hàm-tất-cả như vậy, Giăng trình bày một vài trường hợp để
minh họa cho vấn đề sự sống. Mặc dù Jesus làm nhiều dấu lạ trước mặt các môn đồ
(20:30-31), Giăng chỉ chọn không quá mười hai dấu lạ để minh họa vấn đề sự sống.
Bắt đầu với trường hợp của Ni-cơ-đem trong chương ba và chấm dứt với sự phục
sinh của La-xa-rơ trong chương mười một, có chín trường hợp được trình bày. Nếu
kể cả sự kiện biến nước thành rượu, sự tẩy uế đền thờ, và việc rửa chân, thì
chúng ta có tất cả mười hai sự việc. Nếu so sánh phần ký thuật của Phúc Âm
Giăng với những sách Phúc Âm khác, anh em sẽ thấy các Phúc Âm ấy bao gồm nhiều
điều mà Giăng không có và Giăng ghi lại nhiều điều mà những Phúc Âm khác không
có. Chẳng hạn, Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca không nói gì về việc Jesus hóa nước thành
rượu. Các Phúc Âm ấy cũng không đề cập đến việc Chúa nói chuyện với Ni-cơ-đem về
sự tái sinh. Đừng nghĩ rằng những sự khác biệt này là tình cờ. Không, mỗi Phúc
Âm được hoạch định cách cẩn thận bởi Tác giả Thần thượng. Ma-thi-ơ viết Phúc Âm
của mình với một mục đích cụ thể, ấy là để chứng minh Jesus là Vua và là Đấng
Christ. Để chứng minh điều này, Ma-thi-ơ lựa chọn một vài sự kiện và trường hợp
trong cuộc đời của Đấng Christ để minh chứng Jesus là Vua của Israel và Đấng
Christ của Đức Chúa Trời. Vì mục đích của Lu-ca là bày tỏ Jesus là Đấng Cứu Rỗi
của nhân loại, ông chọn những trường hợp chứng minh Jesus là Đấng Cứu Rỗi. Chẳng
hạn, câu chuyện người con trai hoang đàng được ghi trong sách Lu-ca, nhưng
không được ghi trong sách Ma-thi-ơ, Mác hay Giăng. Vì sao câu chuyện ấy được
ghi lại trong sách Lu-ca? Vì câu chuyện ấy chứng minh Jesus là Đấng Cứu Rỗi. Một
sự kiện khác được ghi lại trong sách Lu-ca mà thôi là người ăn trộm trên thập tự
giá xin Chúa nhớ đến ông khi Ngài vào trong vương quốc mình (Lu. 23:39-43).
Lu-ca cũng cho biết Chúa đã trả lời với tên trộm hấp hối ấy: “Hôm nay ngươi sẽ ở
cùng Ta trong Pa-ra-đi” (Lu. 23:43). Ma-thi-ơ, Mác hay Giăng đều không tường
thuật sự kiện này cho chúng ta. Cũng theo nguyên tắc ấy, mọi trường hợp được
Giăng ghi lại đều chứng minh Đấng Christ là sự sống để đáp ứng nhu cầu của
chúng ta. Dựa trên nguyên tắc đó, chúng ta cần phải nhận thức rằng sự kiện hóa
nước thành rượu (2:1-11) không chỉ là một câu chuyện được thuật lại mà thôi,
nhưng có ý nghĩa thuộc linh quan trọng đặc biệt. Bây giờ chúng ta cần tìm ra ý
nghĩa thuộc linh của sự kiện ấy.
I. NGUYÊN TẮC CỦA SỰ SỐNG –
BIẾN ĐỔI SỰ CHẾT THÀNH SỰ SỐNG
Khi mới nghe câu chuyện Jesus hóa
nước ra rượu, tôi không biết ý nghĩa đằng sau sự kiện ấy. Về sau tôi mới hiểu rằng
đó không đơn giản là một câu chuyện, nhưng là một sự kiện được Chúa Jesus thực
hiện để thiết lập nguyên tắc của sự sống. Nguyên tắc của sự sống là gì? Nguyên
tắc ấy là đổi sự chết thành sự sống. Trong chín trường hợp được ghi lại từ
chương ba đến chương mười một, mỗi trường hợp đều có nguyên tắc là đổi sự chết
thành sự sống. Điều này đặc biệt sáng tỏ trong trường hợp của La-xa-rơ.
La-xa-rơ chết và đã được chôn bốn ngày rồi. Thậm chí ông đã có mùi. Ông đầy dẫy
sự chết từ đỉnh đầu đến gót chân và từ trong ra ngoài. Mỗi một đường gân thớ thịch
và mỗi một tế bào của con người ông đều không có gì ngoài ra sự chết. Như phần
ghi lại của chương mười một đã cho chúng ta biết, khi Chúa Jesus biết La-xa-rơ
bị bịnh, Ngài không đi thăm ông. Ngài chờ cho đến khi ông đầy dẫy sự chết, cho
đến khi ông đã chết và chôn. Rồi Ngài đến làm cho ông sống lại từ chỗ chết. Nếu
áp dụng nguyên tắc sự sống cho trường hợp ấy, chúng ta thấy Jesus đã đổi sự chết
thành sự sống.
Nguyên tắc này không những áp dụng
cho trường hợp cuối cùng là trường hợp của La-xa-rơ, mà còn cho trường hợp thứ
nhất, là trường hợp của Ni-cơ-đem. Anh em có nghĩ rằng Ni-cơ-đem là người đầy dẫy
sự chết không? Vì ông đầy dẫy sự chết, Chúa bảo ông rằng ông cần được sinh lại
để có được sự sống đời đời là chính Đức Chúa Trời (3:3, 5-6). Về một ý nghĩa,
Ni-cơ-đem đang sống, nhưng theo mắt Đức Chúa Trời, ông là một người sống mà thật
ra đã chết. Theo mắt Đức Chúa Trời, Ni-cơ-đem đã chết rồi. Ông cũng cần được đổi
sự chết của mình thành sự sống. Thậm chí Ni-cơ-đem không nhận biết rằng mình tội
lỗi, huống chi là mình đang chết. Tuy nhiên, theo mắt Đức Chúa Trời, ông tội lỗi,
quỉ quyệt và chết chóc. Là một người như vậy, ông cần được thay đổi từ sự chết
thành sự sống.
Điều này cũng đúng với người đàn
bà Sa-ma-ri trong chương bốn. Bà ấy đang khát, và khát là dấu hiệu của sự chết.
Khi anh em đang khát, có nghĩa là anh em sắp chết. Sự kiện anh em khát cho thấy
anh em có yếu tố sự chết trong mình. Chỉ có Chúa Jesus mới có thể làm cho anh
em hết khát. Làm cho hết khát nghĩa là đổi sự chết thành sự sống. Mọi trường hợp
khác được ghi lại trong sách Giăng cũng vậy. Mỗi biến cố đều minh họa nguyên tắc
đã được thiết lập trong sự kiện hóa nước thành rượu, đó là nguyên tắc đổi sự chết
thành sự sống.
A. Trong Sự Phục Sinh, Jesus Đến
Với Những Người Yếu Đuối Và Mỏng Manh, Trong Khi Họ Đang Vui Hưởng Cuộc Sống
Phàm Nhân Của Mình
Bây giờ chúng ta cần nhìn thấy
trong sự phục sinh, Jesus đến với những người yếu đuối, mỏng manh. Có lẽ một
vài người sẽ hỏi: “Làm thế nào Jesus đến trong sự phục sinh khi Ngài chưa bị
đóng đinh? Nói như vậy là theo lối ẩn dụ”. Vâng, cả câu chuyện hóa nước thành
rượu là một ẩn dụ, và chúng ta cần ẩn dụ hóa mọi phần của câu chuyện ấy.
1. “Ngày Thứ Ba” Chỉ Về Sự Phục
Sinh
Ngày mà dấu lạ này được thực hiện
là “ngày thứ ba” (2:1). “Ngày thứ ba” chỉ về ngày phục sinh. Trong Giăng chương
1, các từ ngữ “ngày hôm sau” (BNC: sáng ngày sau), được dùng ba lần, trong các
câu 29, 35 và 43. Tại sao có ba lần “ngày hôm sau”, và rồi “ngày thứ ba” được
nói đến trong 2:1? “Ngày thứ ba” trong chương 2 thật ra không nên gọi là ngày
thứ ba, mà là ngày thứ năm. Có lẽ anh em nên đến tranh luận với Giăng: “Anh
Giăng à, anh viết có điều sai. Ba lần anh nói ‘ngày hôm sau’ cho nên ngày được
đề cập trong 2:1 phải là ngày thứ năm chứ”. Giăng sẽ trả lời: “Anh thân mến ơi,
đó là lý do vì sao tôi không nói đến ngày thứ hai, ngày thứ ba, ngày thứ tư
trong chương một, nhưng gọi mỗi ngày ấy là “ngày hôm sau” cho đến khi tôi gọi
ngày trong chương hai là ‘ngày thứ ba’ ”. Không một sự kiện nào đã xảy ra vào
các “ngày hôm sau” trong chương một ở trong sự phục sinh.
Chúng ta hãy xem xét ba lần “ngày
hôm sau” trong chương một. “Sáng ngày sau Giăng thấy Jesus đến cùng mình, thì
nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi của thế giớiđi!”
(c. 29). Điều đó có ở trong sự phục sinh không? Chắc chắn là không. Làm thế nào
anh em có thể nói điều đó ở trong sự phục sinh được? “Sáng ngày sau nữa Giăng
cùng đứng với hai môn đồ mình, thấy Jesus đi qua, bèn nói rằng: Kìa, Chiên con
của Đức Chúa Trời!” (cc. 35-36). Dầu xảy ra vào “sáng ngày sau” của ngày thứ
hai, điều đó vẫn không xảy ra vào “ngày thứ ba”. “Sáng ngày sau” của ngày thứ
ba được tìm thấy trong câu 43. “Sáng ngày sau Jesus muốn qua Ga-li-lê. Ngài gặp
Phi-líp, bèn phán rằng: Hãy theo Ta”. Điều này không xảy ra vào “ngày thứ ba”,
vì “ngày thứ ba là ngày phục sinh. Không một sự kiện nào được đề cập trong
chương một xảy ra vào “ngày thứ ba”, tức là trong sự phục sinh. Chỉ khi đến với
sự kiện hóa nước thành rượu trong chương hai, chúng ta mới thấy “ngày thứ ba”
được đề cập.
2. “Ca-na”, Vùng Đất Lau Sậy, Tượng
Trưng Cho Nơi Ở Của Những Con Người Yếu Đuối Và Mỏng Manh
Làm thế nào chúng ta biết trong
Giăng chương 2 Jesus đến với những con người yếu đuối và mỏng manh? Ấy là nhờ sự
kiện Ngài đến Ca-na và Ca-na trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “vùng đất lau sậy”.
Cây sậy trong Kinh Thánh tượng trưng cho những người mỏng manh. Cả Ê-sai lẫn
Ma-thi-ơ đều nói rằng chúng ta, tức những người yếu đuối, đều là “những cây sậy
đã giập” mà Chúa sẽ không bẻ gãy (Ês. 42:3; Mat. 12:20). Trong Ma-thi-ơ 11:7,
khi nói đến Giăng Báp-tít, Chúa hỏi người Do thái xem họ có đi ra đồng vắng để
xem cây sậy bị gió rung không. Dĩ nhiên Giăng Báp-tít không phải là một người yếu
đuối đến nỗi có thể bị gió rung. Vì vậy, Ca-na là miền đất lau sậy tượng trưng
cho trái đất. Cả thế giới đều là Ca-na, đầy dẫy những người yếu đuối và mỏng
manh mà Chúa đã đến với họ. Chúa đến Ca-na có nghĩa là Ngài đến với thế giới đầy
những con người yếu đuối và mỏng manh, nhưng Chúa đã đến với họ trong sự phục
sinh.
3. “Ga-li-lê”, Nơi Bị Khinh Miệt
Đám cưới mà Jesus tham dự trong
Giăng chương 2 thì ở tại Ca-na, xứ Ga-li-lê. Ga-li-lê là nơi bị dân chúng khinh
miệt (7:52). Là nơi bị khinh miệt, Ga-li-lê tượng trưng cho tình trạng thấp hèn
của thế gian.
4. Đám Cưới, Tượng Trưng Cho Sự
Tiếp Nối Sự Sống Của Loài Người, Và Tiệc Cưới, Tượng Trưng Cho Sự Vui Hưởng Của
Đời Người
Chúng ta phải ẩn dụ hóa đám cưới
và tiệc cưới. Hôn nhân rất quan trọng và cần thiết cho sự sống loài người, vì
không có hôn nhân, sự sống loài người bị cản trở. Nếu loại trừ hôn nhân, thì
anh em cũng kết liễu sự sống loài người. Hôn nhân tượng trưng cho sự nối tiếp sự
sống loài người. Tiệc cưới tượng trưng cho điều gì? Tiệc cưới tượng trưng cho sự
hưởng thụ và vui thỏa của cuộc sống loài người. Không có dịp nào trên đất vui vẻ
cho bằng một đám cưới. Anh em có bao giờ thấy người ta khóc lóc rên rỉ tại một
đám cưới không? Nếu anh em khóc lóc như vậy tại một đám cưới, điều đó chứng tỏ
là anh em bất lịch sự hoặc thiếu văn hóa. Trái lại, khi dự đám tang, anh em
không được phép vui vẻ. Nhưng khi dự đám cưới, anh em phải vui mừng. Theo văn
hóa loài người, đám cưới là một dịp vui vẻ.
5. Rượu, Là Sự Sống Của Loài Người,
Tượng Trưng Cho Yếu Tố Cơ Bản Của Sự Hưởng Thụ Này
Dầu trong thời cổ đại hay hiện đại,
dầu ở Đông phương hay Tây phương, tiệc cưới chủ yếu tùy thuộc vào rượu, điều ấy
có ý nghĩa là mọi sự vui thỏa của loài người đều tùy thuộc vào sự sống. Vì
không giống như nước, rượu lấy từ trái nho, rượu đến từ một điều gì sống động.
Rượu tượng trưng cho sự sống, vì rượu của trái nho là sự sống của trái nho. Do
đó sự hưởng thụ của loài người tùy thuộc vào sự sống của loài người. Khi sự sống
chấm dứt, mọi sự hưởng thụ cũng tan biến.
B. Sự Sống Loài Người Khô Cạn Và
Bản Thể Của Họ Đầy Dẫy Sự Chết
Mặc dầu đám cưới là một dịp rất
vui vẻ, nhưng sự vui vẻ ấy chỉ tạm thời. Không một đám cưới nào kéo dài được
lâu. Gần đây tôi dự một đám cưới kéo dài hơn nửa giờ. Chúng tôi chỉ được vui vẻ
trong nửa giờ. Đó là đám cưới của loài người, sự hưởng thụ của loài người.
1. “Hết Rượu Rồi”
Rượu, là trung tâm của sự vui hưởng
trong tiệc cưới, đã cạn rồi (2:3). Điều này có nghĩa là sự hưởng thụ của đời
người chấm dứt khi sự sống con người khô cạn. Khi rượu hết, niềm vui của tiệc
cưới tan biến. Điều này không chỉ có nghĩa là sự hưởng thụ của cuộc đời chấm dứt,
mà còn có nghĩa là đời người kết thúc. Cho dầu anh em đang hưởng thụ vui thú đến
mức nào, khi đời người kết thúc, mọi sự hưởng thụ của con người cũng tan biến.
Dầu vợ, chồng, cha mẹ, con cái, nghề nghiệp của anh em có tốt đến đâu, nếu sự sống
mình chấm dứt thì niềm vui cũng tàn. Khi rượu nho cạn, thì tiệc cũng xong, vì
tiệc tùy thuộc vào rượu. Mọi sự hưởng thụ của anh em tùy thuộc vào sự sống của
mình. Nếu sự sống của anh em bị kết liễu, sự hưởng thụ cũng không còn. Dầu anh
em dự đám cưới như thế nào đi nữa, khi sự sống loài người đã cạn, thì đám cưới
chấm dứt và sự hưởng thụ cũng qua đi. Đó là điều đã xảy ra hôm ấy tại Ca-na thuộc
Ga-li-lê.
Anh em không tin rằng trước khi
Chúa Jesus đến Ca-na, Ngài biết rằng rượu sẽ cạn sao? Chắc chắn Ngài biết trước,
vì đó là lý do Ngài đến Ca-na. Rượu không cạn cách tình cờ. Chúa Jesus biết trước
rượu sẽ cạn và Ngài đến Ca-na để thiết lập nguyên tắc của sự sống, thay đổi sự
chết thành sự sống. Ngài đến tiệc cưới để giải quyết và để cứu vãn tình hình tại
đó. Chúa chữa lành sự chết trong tình trạng của con người bằng cách biến sự chết
thành sự sống giống như Ê-li-sê chữa lành nước mặn bằng cách làm cho nó ra ngọt
(2 Vua. 2:19-22).
Khi Chúa đến thế gian, Ngài bước
vào một hoàn cảnh mà trong đó con người vẫn còn đang hưởng thụ [những niềm
vui], nhưng không lâu bền. Ngài bước vào một hoàn cảnh mà trong đó sự chết của
loài người đã kết thúc mọi sự hưởng thụ của họ. Việc biến nước thành rượu là dấu
lạ mà chúng ta cần phải hiểu theo nghĩa bóng. Chẳng hạn, nếu chúng ta đã quá
sáu mươi tuổi, thì ấy là lúc chúng ta đang đến gần thời điểm sắp hết rượu. Khi
rượu sắp hết, chúng ta biết rằng tiệc cưới sắp kết thúc. Nhưng ngợi khen Chúa,
vào một lúc như vậy, Chúa bước vào tình huống của chúng ta. Trong tiệc cưới của
mình, chúng ta có Chúa! Chúng ta không cần phải sợ hãi, vì Ngài có thể biến nước
thành rượu.
2. “Sáu Cái Bình Đựng Nước Bằng
Đá”
Trước khi làm phép lạ, Chúa bảo
người ta đổ nước đầy các bình đựng nước (2:6-7). Những bình đựng nước làm bằng
đá này có sáu cái. Số sáu tượng trưng cho con người thọ tạo, vì con người được
tạo dựng nên vào ngày thứ sáu (Sáng. 1:27, 31). Vì vậy, sáu bình đựng nước bằng
đá tượng trưng cho con người thiên nhiên được tạo dựng vào ngày thứ sáu. Nói
theo thiên nhiên, chúng ta không là gì khác hơn “những bình đựng nước”, là những
chiếc bình chứa đựng một điều gì đó. Chúng ta, những “bình đựng nước”, được đặt
tại Ca-na, là đất của những cây sậy, đầy dẫy những con người yếu đuối, mỏng
manh. Chúng ta là những bình đựng nước tại Ca-na, yếu đuối và mỏng manh.
3. “Lệ Tẩy Sạch Bằng Nước Của Người
Do Thái”
Các bình đựng nước được dùng theo
lệ tẩy sạch của người Do Thái (2:6), là sự hành đạo của Do Thái giáo. Lệ tẩy sạch
bằng nước của người Do Thái chỉ về nỗ lực của tôn giáo làm cho người ta sạch bằng
những sự hành đạo chết chóc nào đó. Người Do Thái xưa chăm lo tắm rửa và giữ
cho mình được sạch sẽ, tinh khiết trong sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Trái lại,
Chúa biến đổi sự chết thành sự sống. Sự tẩy rửa bằng nước theo thông lệ là bề
ngoài, không có sự sống, nhưng Chúa biến đổi sự chết thành sự sống là điều từ
bên trong và đầy dẫy sự sống.
4. “Hãy Đổ Đầy Nước Vào Các Bình
Này”
Chúa bảo các đầy tớ đổ nước đầy
các bình, và họ đổ đầy tới miệng (2:7). Điều này có nghĩa là gì? Như chúng ta sẽ
thấy, điều này tượng trưng cho loài người đầy dẫy sự chết. Các bình nước, tức
là nhân loại được tạo dựng vào ngày thứ sáu, thì đầy dẫy nước sự chết.
C. Jesus Biến Đổi Sự Chết Của Họ
Thành Ra Sự Sống Đời Đời
1. Nước, Tượng Trưng Cho Sự Chết
Khi Chúa ra lệnh cho người ta đổ
đầy nước vào sáu cái bình ấy, sự kiện đó bày tỏ con người thiên nhiên đầy dẫy sự
chết. Nước trong Lời Thánh có hai ý nghĩa tượng trưng. Trong một vài trường hợp,
nó tượng trưng cho sự sống (Gi. 4:14; 7:38); trong những trường hợp khác, nước
tượng trưng cho sự chết (Sáng. 1:2, 6; Xuất. 14:21; Mat. 3:16). Các dòng nước
trong Sáng Thế Ký chương 1 và nước báp-têm mang ý nghĩa sự chết. Trong trường hợp
này, nước cũng có ý nghĩa là sự chết. Tất cả những bình bằng đá đều đầy dẫy nước,
nghĩa là toàn thể nhân loại đầy dẫy sự chết về mặt thiên nhiên. Cũng y như các
bình nước đầy tới miệng, chúng ta đầy dẫy sự chết.
2. Rượu Là Nước Sự Sống Của Trái
Nho, Tượng Trưng Cho Sự Sống
Chúa Jesus hóa nước sự chết thành
ra rượu cách lạ lùng (2:8-9). Phép lạ này không những bày tỏ rằng Chúa Jesus có
thể gọi những sự không hiện hữu như đã hiện hữu (La. 4:17), mà Ngài còn có thể
biến đổi sự chết thành sự sống.
Việc Chúa hóa nước thành rượu
cách lạ lùng mang ý nghĩa Ngài có thể biến đổi sự chết của chúng ta thành sự sống.
Nước tượng trưng cho sự chết, và rượu tượng trưng cho sự sống. Khi Chúa biến đổi
nước của chúng ta thành rượu, rượu trong tiệc cưới của chúng ta không bao giờ hết.
Vì chúng ta đã được tái sinh, sự sống với sự vui hưởng thuộc linh của sự sống ấy
sẽ còn mãi mãi. Chúng ta sẽ có tiệc cưới đời đời không bao giờ chấm dứt. Tiệc
này không có trong sự sống nguyên thủy của chúng ta, mà ở trong sự sống mới
chúng ta nhận được qua sự tái sinh. Y như người chủ tiệc khám phá rượu mới ngon
hơn rượu đãi lúc đầu (2:9-10), chúng ta cũng sẽ thấy sự sống mình nhận được qua
sự tái sinh tốt hơn sự sống thiên nhiên của mình rất nhiều. Sự sống ban đầu của
chúng ta được tượng trưng bằng rượu dở, kém hơn rất nhiều. Chúa không ban cho
chúng ta điều tốt nhất trước, nhưng ban cho điều tốt nhất sau cùng. Sự sống đầu
tiên, là sự sống của con người, tức sự sống thọ tạo, là một sự sống thua kém; sự
sống tốt nhất là sự sống thứ hai, tức sự sống thần thượng và đời đời. Sự sống
này tốt nhất vì đó là sự sống của chính Đức Chúa Trời trong Đấng Christ. Cho
nên, sự vui thỏa của chúng ta sẽ kéo dài mãi mãi và mãi mãi. Chúng ta có sự vui
hưởng đời đời, vì Đấng Christ đã biến đổi chúng ta từ chết qua sống. Là sự sống
mãi mãi, đời đời của chúng ta, Ngài có thể duy trì sự vui thỏa và vui hưởng của
chúng ta mãi mãi, đời đời. Tiệc cưới mới đã bắt đầu khi chúng ta được cứu, và
tiệc ấy sẽ không bao giờ dứt. Bên trong chúng ta luôn luôn có sự vui mừng và
luôn luôn có tiệc cưới vì chúng ta có rượu thần thượng, tức sự sống thần thượng,
là chính Chúa.
Tất cả chúng ta đều đã có kinh
nghiệm này. Trước khi được cứu, chúng ta là những bình chứa đầy nước sự chết. Một
ngày kia, chúng ta nói: “Chúa Jesus ơi” và Ngài đến thay đổi sự chết của chúng
ta thành ra sự sống. Dầu ở trong tình trạng chết chóc nào chăng nữa, nếu chúng
ta giao tình trạng của mình cho Chúa Jesus, Ngài sẽ thay đổi sự chết ấy thành
ra sự sống. Chẳng hạn, ngay cả những cặp vợ chồng là Cơ Đốc nhân cũng có thể đi
đến chỗ sự sống khô cạn trong đời sống hôn nhân. Dường như họ không thể tiếp tục
cuộc sống hôn nhân của mình. Tuy nhiên, nếu họ mở ra đối với Chúa Jesus, Ngài sẽ
biến đổi sự chết ấy thành ra sự sống. Trong nhiều cuộc hôn nhân, Chúa đã biến đổi
nước sự chết ra rượu sự sống.
D. Phần Mở Đầu Của Các Dấu Hiệu
1. Tất Cả Các Phép Lạ Trong Phúc
Âm Này Đều Gọi Là Dấu Hiệu
Trong sách này, tất cả các phép lạ
Chúa làm đều được gọi là dấu hiệu (2:23; 3:2; 4:54; 6:2, 14, 26, 30; 7:31;
9:16; 10:41; 11:47; 12:18, 37; 20:30). Đó là những phép lạ, nhưng được dùng như
những dấu hiệu để nói lên vấn đề sự sống. Từ ngữ được dịch là “phép lạ” trong bản
Kinh Thánh King James là chữ “dấu hiệu” trong tiếng Hi Lạp. Dấu hiệu là điều tượng
trưng cho một điều gì đó. Chẳng hạn như đèn đỏ là dấu hiệu bảo chúng ta phải dừng
lại. Tất cả các phép lạ do Chúa Jesus thực hiện được ghi lại trong Phúc Âm
Giăng đều không những là phép lạ mà còn là dấu hiệu.
2. Nguyên Tắc Về Những Điều Được
Đề Cập Đến Lần Đầu
Bất cứ những gì được đề cập đến lần
đầu trong Lời Thánh đều đưa ra nguyên tắc cho vấn đề cụ thể ấy. Vì vậy dấu hiệu
đầu tiên ở đây đưa ra nguyên tắc cho tất cả những dấu hiệu tiếp theo, tức là biến
đổi sự chết thành ra sự sống. Việc Chúa hóa nước thành rượu thiết lập nguyên tắc
về sự sống, ấy là biến đổi sự chết thành sự sống. Vì đây là dấu hiệu đầu tiên,
cho nên nguyên tắc sự sống được thiết lập trong dấu lạ này có thể được áp dụng
cho mọi trường hợp khác. Chẳng hạn, nguyên tắc này có thể áp dụng cho
Ni-cơ-đem, một người đầy dẫy sự chết, là người cần được sinh lại để có được sự
sống đời đời là chính Đức Chúa Trời.
Chúng ta cũng có thể áp dụng
nguyên tắc này cho trường hợp người đàn bà Sa-ma-ri trong chương bốn. Anh em có
nghĩ rằng người đàn bà Sa-ma-ri có một cuộc đời đầy dẫy niềm vui và sự hưởng thụ
không? Không, nhưng Chúa đã đến trong cuộc đời bà và thay đổi bà. Bà chỉ là một
chiếc bình mà trong đó rượu con người hưởng thụ đã cạn rồi. Bà đã thử năm đời
chồng, nhưng cuối cùng sự vui hưởng của đời người đã chấm dứt mà không có rượu.
Bà đã hết sức hưởng thụ rượu của những niềm vui đời người, nhưng cuối cùng bà
chỉ cảm thấy trống rỗng và chết chóc. Rồi Chúa đến biến sự chết ấy ra sự sống
và làm cho bà đầy dẫy rượu sự sống đời đời thần thượng của Ngài.
Chương năm trình bày về một người
bị bịnh đã ba mươi tám năm. Căn bịnh của ông cho thấy rượu đã hết rồi, nhưng
Chúa đến để biến sự chết thành sự sống. Theo mắt Chúa, không những ông bị bịnh
mà còn chết nữa, vì về sau trong câu 25 Chúa nói người chết sẽ nghe tiếng Ngài
và sống. Không những ông là người bệnh được Chúa chữa lành mà còn là người chết
được Chúa làm cho sống lại. Thậm chí ông còn yếu đuối và chết trong tôn giáo. Dầu
tôn giáo có thể rất tốt, nhưng tôn giáo đòi hỏi năng lực. Làm sao một người chết
có năng lực được? Kết quả là ông không làm gì được với tôn giáo, vì rượu của
ông đã hết. Nhưng Chúa đến để áp dụng nguyên tắc biến sự chết thành sự sống,
như chúng ta đã thấy trong dấu lạ đầu tiên.
Chúng ta cũng có thể áp dụng
nguyên tắc này vào những trường hợp khác. Cơn đói của quần chúng trong chương
sáu bày tỏ sự vui hưởng của đời người đã kết thúc, nhưng Chúa đến với họ như
bánh sự sống. Người đàn bà tội lỗi trong chương tám cũng là một người mà rượu
mình hưởng thụ đã cạn. Người mù trong chương chín cũng không có sự vui hưởng của
đời người. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp của La-xa-rơ trong chương mười
một. Trên nguyên tắc, những điểm chính của trường hợp La-xa-rơ cũng giống như
những điểm chính của trường hợp đầu tiên, là tiệc cưới tại Ca-na. Trong trường
hợp đầu tiên có sự hưởng thụ trong tiệc cưới. Trong trường hợp La-xa-rơ có niềm
vui của tình thương gia đình giữa La-xa-rơ và hai chị em ông. Trong tiệc cưới,
rượu đã cạn; trong trường hợp La-xa-rơ, sự sống loài người đã hết. La-xa-rơ chết
bày tỏ rượu của sự sống loài người không còn. Trong cả hai trường hợp, nguyên tắc
sự sống giống y như nhau: Chúa đến trong cả hai trường hợp và thay đổi sự chết
thành sự sống. Vì vậy, nguyên tắc sự sống được đưa ra trong sự kiện Chúa hóa nước
thành rượu có thể áp dụng cho mọi trường hợp trong cả Phúc Âm Giăng.
Trong Lời Thánh, nói theo nghĩa
bóng, cây sự sống là nguồn sự sống, và cây kiến thức là nguồn sự chết, như đã
được khải thị trong Sáng Thế Ký 2:9, 17. Trong mọi trường hợp được ghi lại
trong Phúc Âm Giăng, về nguyên tắc, ý nghĩa luôn luôn tương ứng với cây sự sống
đưa đến sự sống và cây kiến thức đưa đến sự chết.
3. Bày Tỏ Vinh Quang Ngài
Câu 11 nói khi Jesus bắt đầu làm
các dấu lạ tại Ca-na thuộc xứ Ga-li-lê, Ngài bày tỏ vinh quang Ngài và các môn
đồ tin vào Ngài. Thần tính của Chúa được bày tỏ ra trong việc Ngài biến đổi sự
chết thành ra sự sống.
E. Mẹ Của Jesus Tượng Trưng Cho
Con Người Thiên Nhiên
Ma-ri, mẹ của Jesus ở đây tượng
trưng cho con người thiên nhiên, là con người không liên quan gì đến sự sống và
cần phải bị sự sống thần thượng bắt phục (cc. 3-5). Khi rượu hết, con người
thiên nhiên lộ ra và thậm chí cầu nguyện với Chúa. Khi Ma-ri nói với Chúa: “Người
ta không còn rượu nữa”, thì Ngài nói với bà: “Đàn bà kia ơi, Ta với ngươi có
can gì chăng? Giờ Ta chưa đến” (cc. 3-4). Chúng ta thường giống hệt mẹ của
Jesus. Chúng ta là Ma-ri ngày nay, cầu nguyện như người thiên nhiên theo sự sống
thiên nhiên. Thông thường trong một số hoàn cảnh nào đó, Chúa cho phép hết rượu
để Ngài có cơ hội biến đổi sự chết thành sự sống. Ngay cả tại một Hội thánh địa
phương, Chúa có thể cho phép tình hình đi vào sự chết. Trong trường hợp đó, con
người thiên nhiên sẽ cầu nguyện: “Chúa ôi, xin Ngài làm một điều gì đó để giải
cứu chúng con khỏi tình trạng này”. Nếu anh em cầu nguyện như vậy, Chúa sẽ quay
qua anh em và nói: “Ta có liên quan gì với con? Con không liên hệ gì với Ta
trong vấn đề này”. Hầu như tất cả chúng ta đều hành động giống như Ma-ri. Khi ấy
chúng ta nên làm gì? Chúng ta không nên làm gì cả. Hãy để cho sự chết lộ diện
và bị phơi bày ra. Khi ấy Chúa Jesus sẽ bước vào.
Tất cả chúng ta đều phải thừa nhận
rằng nhiều lời cầu nguyện của mình không được trả lời. Chẳng hạn như nhiều anh
em có gia đình cầu nguyện cho vợ mình, họ nói với Chúa: “Chúa ơi, Chúa biết vợ
con. Chúa ơi, Ngài cần phải thay đổi vợ con”. Đó là loại cầu nguyện gì? Đó là lời
cầu nguyện của Ma-ri, lời cầu nguyện của người thiên nhiên. Anh em đừng cầu
nguyện như vậy. Hãy để cho sự chết trong vợ mình lộ diện. Hãy để cho La-xa-rơ
chết và chôn. Khi ấy Chúa Jesus sẽ đến và làm cho ông từ người chết sống lại.
Hãy để cho vợ anh em, giống như La-xa-rơ, chết, chôn và bắt đầu thối rữa. Nếu
anh em làm như vậy, Chúa Jesus sẽ đến và biến sự chết thành sự sống.
Tôi rất thường nhận được những lá
thư kêu cứu từ những cá nhân hay từ các Hội thánh, đại ý nói rằng: “Anh ơi,
chúng tôi yếu đuối quá. Xin anh đến giúp đỡ chúng tôi với”. Bất cứ khi nào nhận
được một lá thư như vậy, tôi nói: “Anh em yếu, nhưng chưa chết. Thậm chí nếu đã
chết, anh em vẫn chưa bắt đầu xông mùi”. Chúng ta cần chờ đợi cho đến khi sự chết
lộ diện; rồi Chúa Jesus sẽ đến để biến sự chết thành sự sống. Mọi sự Chúa làm đều
theo nguyên tắc biến sự chết thành sự sống.
-