1 Cô-rinh-tô 15: 52, "trong chốc-lát, trong cái nháy mắt, ở tiếng kèn trom-bét cuối cùng; vì kèn trom-bét sẽ trổi tiếng, và các người chết sẽ được vực dậy không thể hư-nát, và chúng ta sẽ được biến đổi".
1 Tê 4:16-17, "Vì chính Chúa sẽ xuống từ trời với tiếng kêu lớn, với tiếng của thiên-sứ trưởng, và với tiếng kèn trom-bét của Đức Chúa TRỜI; và các người chết trong CHRIST sẽ sống lại trước nhứt. Đoạn, chúng ta là những người sống, là những người còn ở lại, sẽ được chộp lên cùng với họ trong các đám mây để gặp Chúa trong không-trung, và như vậy chúng ta sẽ luôn luôn ở với Chúa".
Đã có một số tranh luận về tiếng kèn cuối cùng trong Kinh thánh. Vì vậy, tôi nghĩ rằng mình nên viết một bài nghiên cứu nhỏ về lịch sử của cây kèn, về cách thức cùng lý do nó được sử dụng trong thời Kinh Thánh, với nỗ lực làm cho rõ ràng hơn về ý nghĩa hoặc chỉ dẫn của câu kinh thánh trong 1 Cô-rinh-tô 15 nói về tiếng kèn cuối cùng liên quan đến sự biến hóa cất lên toàn bộ hội thánh vào cuối 7 năm của tuần lễ thứ 70.
Các nhạc cụ giống như kèn trom-bét trong lịch sử đã được sử dụng làm thiết bị báo hiệu trong trận chiến, với các ví dụ có niên đại ít nhất 1500 trước Công nguyên.
Chúng ta không có nhiều thông tin về những cái kèn mà Môi-se đã tạo ra trong Dân số kí 10, ngoài việc chúng được làm bằng bạc. Chúa chỉ dẫn cách làm những chiếc kèn này. Có một số đồng tiền cổ từ thời đại này, có hình ảnh của những chiếc kèn được khắc trên chúng. Vào thời đó, tiếng thổi của những chiếc kèn này là tín hiệu được sử dụng để cảnh báo dân thánh nhóm họp và di chuyển, hoặc diễu hành. Nói cách khác, chúng được sử dụng để chỉ đạo các hành động và chuyển động của dân Israel. Điều thú vị là chúng làm bằng bạc có nghĩa là "sự cứu chuộc", và vì vậy, kèn thổi để cất lên sẽ kêu gọi chúng ta hưởng sự cứu chuộc khỏi trái đất này.
Ngày trước, tất nhiên họ không có điện thoại di động, loa phóng thanh lớn, còi báo động hoặc pháo sáng, vì vậy Israel phải được hướng dẫn bằng cách nghe tiếng kèn thổi. Cả cuộc gọi để nhóm họp và cuộc gọi để diễu hành đã được liên lạc với những chiếc kèn. Ý tưởng cơ bản là những chiếc kèn bạc được sử dụng để báo hiệu cho mọi người rằng có chỉ thị từ Đức Chúa Trời; và sau đó báo hiệu cách mọi người phản ứng. Những tiếng kèn đó giống như còi báo động khi có máy bay địch không kích.
Vì vậy, về cơ bản, tiếng kèn đầu tiên là để báo hiệu cho mọi người chuẩn bị sẵn sàng, hoặc nhóm họp. Và tiếng kèn cuối cùng là để di chuyển, hoặc diễu hành. Một lần nữa, tôi nhắc lại, tiếng kèn cuối cùng là khiến mọi người phải di chuyển!
Hệ thống phát ra tiếng còi này không phải là mới và cũng không được Israel phát minh trước nhất. Nó đã được sử dụng trong nhiều thế kỉ trước Israel ở hầu hết các nền văn hóa được biết đến. Ban đầu, như trường hợp ở đây với Israel, mục đích chính là vì quân sự.
Những chiếc kèn bạc này không giống với shofar. Chúng ta có thể biết điều đó bằng lời mô tả và tên cụ thể của chúng. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, những chiếc kèn bạc này được gọi là hatsotserah, trong khi shofar là từ tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là sừng động vật, sừng con cừu làm kèn.Cũng như dân Việt chúng ta thổi tù- và bằng sừng trâu. Trong Kinh thánh, người dân thường sử dụng shofar, nhưng những chiếc kèn bạc chỉ có thể được các thầy tế lễ thổi.
Kèn bạc không phải là một nhạc cụ. Người Israel có nhạc cụ chuyên dụng và họ chơi chúng, thường là trong khi hát Thánh vịnh. Nhưng kèn bạc là thiết bị để liên lạc.
Dù sách Khải huyền nói sẽ có 7 tiếng kèn thổi trong khoảng 7 năm tới đây sau khi có hiệp ước hòa bình Trung Đông, nhưng theo tôi, tai loài người chỉ nghe được tiếng kèn thứ 7 mà thôi, chứ 6 tiếng kèn kia không nghe được bằng tai, mà chỉ có thể nhận định được bằng mắt.
Kèn thứ 7, là kèn cuối cùng thổi lên vào cuối đại nạn, tai con người nghe được. Theo sách Xuất hành 19: 16, trước đây khoảng 3500 năm, kèn trom-bét của Chúa thổi vang động trên núi Si-nai lần đầu: "Vì vậy xảy ra vào ngày thứ ba, khi trời sáng, rằng có các tiếng sấm và sét loé lên và mây dầy-đặc trên núi và một tiếng kèn trom-pét rất lớn, đến nỗi tất cả dân chúng ở trong trại đều run-rẩy".
Nếu chúng ta so sánh hai vụ thổi kèn cách xa nhau khoảng 3500 năm này, chúng ta có thể thấy một số điểm tương đồng:
--Tại núi Si-nai, dân Y-sơ-ra-ên đã được cứu chuộc khỏi cảnh nô lệ. Cuối 7 năm, các tín đồ sẽ được cứu chuộc khỏi thế giới tội lỗi.
--Tại núi Si-nai, họ được thánh hiến. Trong sự cất lên, hội thánh sẽ được hoàn thiện.
--Tại núi Si-nai, họ phải giặt quần áo. Các tín đồ sẽ được ban cho quần áo tinh sạch, sáng láng.
--Đức Chúa Trời đến đỉnh núi Si-nai. Chúa Giê-su sẽ đến trên một đám mây và bước xuống núi Ô-liu.
--Tại núi Si-nai, Israel được kết hôn với Đức Chúa Trời. Các tín đồ sẽ được kết hôn với Chúa Giê-su khi được cất lên.
--Tại núi Si-nai, Đức Chúa Trời cư ngụ với Israel. Sau khi được cất lên, chúng ta sẽ ở với Chúa Giê-su mãi mãi.
--Tại núi Si-nai, là phần trình bày của Đức Chúa Trời về luật pháp. Sự cất lên là biểu hiện của ân điển gia tăng của Ngài ban cho tín nhân (xem 1 Phi 1:13).
Đa số dân Chúa, gồm cả các hội thánh thế giới, đều tin sai lầm rằng hội thánh sẽ được cất lên vào đầu 7 năm hòa bình. Họ không thấy rằng đến kèn chót là kèn thứ 7, hội thánh mới được cất lên cách đại trà. 2 Tê. 2:1-3 còn quả quyết hội thánh không thể hội ngộ với Chúa trước khi antichrist hiện ra trong 3,5 năm đại nạn.
Việc sử dụng kèn trong ngày đó cũng là một tín hiệu của sự thờ phượng. Tôi rất chắc chắn rằng khi Ngài kêu gọi chúng ta gặp Ngài trên mây, chúng ta sẽ tôn thờ Ngài hơn bao giờ hết.
Các cuộn Biển Chết đề cập đến việc sử dụng kèn như phát ra âm thanh vào thời điểm được Đức Chúa Trời chỉ định. Không ai trên trái đất biết ngày hay giờ của sự cất lên, nhưng tiếng kèn thổi sau cùng đó sẽ chỉ xảy đến vào thời điểm được Đức Chúa Trời chỉ định.
Tiếng kèn cuối cùng trong thời Kinh Thánh là để báo hiệu cho mọi người di chuyển. Tiếng kèn cuối cùng vang lên cuối 7 năm là dấu hiệu chúng ta được di chuyển lên trời.
Tôi cầu mong nhiều bạn được làm trái đầu mùa, được cất lên trời trước kèn 5, là kèn mở màn cho 3 năm rưởi đại nạn, trước khi tai mọi người đều nghe âm thanh kèn bạc, là kèn chót đặc biệt đó thổi lên để di chuyển toàn bộ hội thánh, là vụ mùa, lên trời.
Bát-xi-lai biên soạn-20-3-2020