Thứ Năm, 12 tháng 8, 2021

HỘI THÁNH PHỔ THÔNG VÀ CÁC HỘI THÁNH ĐỊA PHƯƠNG-

 “Ai có tai, hãy nghe lời Thánh Linh phán cùng các Hội thánh”.

 (Khải Huyền 2: 7)

Chúng ta cần phân biệt giữa Hội Thánh, Thân Thể của Đấng Christ, bao gồm tất cả con cái của Đức Chúa Trời trong thời kỳ ân sủng này và các cộng đồng địa phương của Đức Chúa Trời, là những nhóm tín đồ có trách nhiệm nhóm họp với nhau để thông công và làm chứng Cơ đốc. Chính Chúa Giê-su xây dựng điều mà Ngài gọi là “Hội thánh của Ta” (Ma-thi-ơ 16:18). Còn việc xây dựng các hội thánh địa phương phần lớn được giao cho các tôi tớ của Ngài (1 Cô-rinh-tô 3:10). Khi Phao-lô đi hết nơi này đến nơi khác, ông đã được Đức Chúa Trời sử dụng để quy tụ các tín đồ vào mối thông công của các hội thánh, nơi họ sẽ được nuôi dưỡng và gây dựng và có thể duy trì  chứng cớ trong cộng đồng tương ứng của họ.

Các hội thánh nhỏ này chịu trách nhiệm trực tiếp với chính Chúa Giê-su Christ, trong khi họ duy trì sự  thông côngvới nhau với tư cách là các đại diện của một Đầu vinh hóa. Xin xem 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:14. Chớ không có một Tổng quản nhiệm nào trên đất cai trị họ.

 Ban đầu chỉ có một vòng thông công lớn của các Cơ đốc nhân. Tuy nhiên, trong suốt nhiều thế kỷ, nhiều sự chia rẽ đã xảy ra do sự yếu đuối của con người. Các hội thánh càng gần với khuôn mẫu của Đức Chúa Trời trong Tân Ước, thì họ càng được Chúa chấp thuận và ban phước nhiều hơn. Chúng ta không thể xóa bỏ những sai lầm trong quá khứ, nhưng chúng ta có thể bám vào Chúa và Lời của ân điển của Ngài, và tránh xa những điều trái ý muốn Chúa và chia rẽ. Các hội thánh địa phương có quyền hạn nagng nhau, và không nên thống nhất hóa vào một Tổng hội nầy nay Tổng hội kia  do con người thiết kế.

 

BẢY CỘNG ĐỒNG-

 Tại Ê-phê-sô, chúng ta có nguyên tắc lớn về sự cai trị của Chúa trong và tổng quát trên hội thánh tuyên xưng bằng môi miệng mà thôi. Ngài có bảy ngôi sao và đi giữa các chân đèn. Nguyên tắc xuất phát từ chỗ đứng đầu tiên được lấy làm lập trường chung; kết quả của sự trung thành cũng mang tính cá nhân - anh ta ăn cây sự sống, trong địa đàng của Đức Chúa Trời của Chúa Giê-xu (đọc là“Đức Chúa Trời của Ta” trong câu 7), trong khi sự thật chung về sự phán xét đang bị đe dọa - chân đèn bị di dời. Về mọi mặt, đó là những nguyên tắc chung tuyệt vời về sự đi lêch hướng và phán  xét, mặc dù vẫn còn nhiều điều tốt đẹp trong Ê-phê-sô.

Trạng thái Si-miệc-nơ đã rõ ràng. Đấng Christ, Đấng có trước tất cả, và sẽ là Đấng sau cùng, và trong thế giới hiện tại này, đã chiến thắng sự chết, giữ vững đức tin giữa cuộc bách hại cần thiết, và hứa ban mão miện của sự sống. Đó là danh hiệu mà Ngài đã làm khô héo sự sống xác thịt nơi sứ đồ Giăng khi ông được thấy vinh hiển của Ngài. Xin lưu ý, nghề nghiệp của tôn giáo cha truyền con nối đi kèm với sự bức hại— thử thách là ở bên ngoài, và phước lành ở đây là chung; họ phải giữ đức tin tốt của họ giữa những sa bại chung.

Tiếp theo, ở Bẹt-găm, chúng ta có bản án dò xét theo từng lời, nơi sự hư hoại được cho phép. Vì vậy, phước lành là đặc biệt. Tiếp theo, chúng ta có - không phải xét xử bởi lời Chúa, lẽ thật được khải thị, nhưng - Chúa đang dò xét tất cả những gì ở trong lòng: mắt Ngài như ngọn lửa rực cháy; và có phán quyết theo quyền cai trị. Và điều này khép lại lịch sử công khai của hội thánh nói chung. Và ngôi sao mai, sự xuất hiện và vương quốc của Đấng Christ, được mang đến làm đối tượng của niềm hy vọng. Ở đây cũng không có lời mời ăn năn. Trong thơ đầu tiên có. Trong hội thánh bị bắt bớ có sự khích lệ. Trong thơ thứ ba là Bẹt găm đã có lời khuyên ăn năn. Trong hội thánh thứ tư, kẻ xấu có không gian để ăn năn, nhưng không ăn năn. “Kìa, Ta sẽ quăng,” và “Ta sẽ giết,” là tuyệt đối (Khải 2: 22-23-Nầy, ta quăng nó trên giường bịnh, và cũng ném những kẻ phạm tội ngoại tình với nó vào hoạn nạn lớn, miễn chúng nó ăn năn công việc mình thì thôi.  Ta sẽ lấy sự chết mà giết con cái nó, ….”

Cộng đồng Sạt-đe rõ ràng là sự bắt đầu mới. Đấng Christ có bảy ngôi sao. Họ thuộc về Ngài; nhưng Ngài không nói Ngài cầm chúng trong tay hữu của mình. Và Ngài có bảy Linh - một điểm vẫn chưa được chú ý, nhưng đánh dấu rằng dù ở trạng thái nào của Hội thánh, Ngài cũng có sự cung cấp đầy đủ ân tứ - Thánh Linh, trong mọi khả năng để hành động và tôn vinh Đức Chúa Trời. Nhưng tôi nghĩ điều đó nhìn vượt quá hội thánh Thi-a-ti-rơ . Đó là năng lực không thường xuyên, nhưng là một năng lực trên thứ tự bình thường, và một năng lực phù hợp với cá nhân Ngài. Do đó, nó sẽ được tìm thấy, như mỗi đặc điểm của Đấng Christ trong ba giáo hội cuối cùng, để tiếp cận với cảnh tượng sắp tới, tức là chính đặc điểm đó. Không ai trong ba hội thánh cuối được đề cập đến trong mô tả về Con người. Chúng là những đối tượng và nền tảng mới của đức tin; không phải là các đặc điểm được quy định cho giao tiếp của giáo hội, hoặc của việc sử dụng được tiết lộ đó.

Do đó, nếu không trung thành, Sạt-đe không được đánh giá là hội thánh, như Thi-a-ti-rơ, mà đã được coi là thế giới. Những người đắc thăng có kết quả chung là sự công bình, không bị xóa tên khỏi sách sự sống, và được tuyên xưng tên tuổi riêng lẻ trước mặt Đức Chúa Cha, như họ đã tuyên xưng Đấng Christ trước thế giới.

Ở Phi-la-đen-phi, tất cả sự tự phụ của giáo hội đều chống lại họ. Nhưng tước hiệu tối cao của Đấng Christ về việc đóng và mở cửa dành cho họ. Họ phải giữ lời nhẫn nại của Ngài. Tất cả điều này là không thuộc về giáo hội. Đấng Christ chờ đợi kẻ thù của Ngài làm bệ chân cho Ngài. Về mặt này, Ngài tiếp tục cuộc sống của mình trên đất. Các thánh đồ cũng vậy. Họ bước đi giữa thời kỳ hư hỏng sắp đóng lại, giữ lời của Đấng Christ. Do đó có chữ  "của Ta".

 Lao-đi-xê đi xa hơn. Vì Đấng Christ làm chứng về sự sáng tạo mới, thay vì Hội thánh, là điều Ngài khước từ. Phải có sự công bình thuộc linh - sự công bình của các thánh đồ, theo sự thanh khiết của Đức Chúa Trời và sự biện biệt thực sự từ Đức Chúa Trời, chỉ được biết qua Đấng Christ. Ngài đã không ngừng yêu mến hội thánh, tìm kiếm sự sốt sắng và ăn năn của ai đó. Vương quốc là tất cả những gì được hứa hẹn ở đây. Vị trí khác nhau của cảnh báo trong ba lá thơ cuối đã được thông báo.

PHI-LA-ĐEN-PHI-

 (Đấng Christ tự giới thiệu chính mình )

 Khải Huyền 3: 7, “Ngươi cũng hãy viết cho sứ giả của Hội thánh tại Phi-la-đen-phi rằng: 'Đấng thánh, Đấng chân thật, Đấng có chìa khoá của Đa-vít, mở thì không ai đóng được, đóng thì không ai mở được, phán rằng….”.

Chúa Giê-su Christ được nhìn nhận theo ba cách: trước tiên là "Đấng Thánh", sau đó là "Đấng Chân Thật" và cuối cùng là "Đấng có chìa khóa của Đa-vít." Rõ ràng là Đấng Christ không được giới thiệu trước hội thánh này với tư cách chính thức của Ngài là Đấng cầm bảy ngôi sao và đi giữa bảy chân đèn bằng vàng. Nhưng Ngài được trình bày trong vinh quang đạo đức của Ngài.

Ngài là "Đấng Thánh" - Ngài là người thoát khỏi mọi ô nhiễm của tội lỗi và hoàn toàn tách biệt khỏi các tội nhân. Về phương diện cá nhân, Ngài luôn luôn như vậy, chỉ trên thập tự giá mà Ngài đứng ở vị trí của chúng ta với tư cách là người đại diện, nên Ngài đã bị trở nên tội lỗi và do đó bị Đức Chúa Trời từ bỏ, bởi vì Đức Chúa Trời là thánh (2 Cor. 5: 21). Nhưng Ngài đã sống lại, các tội lỗi thế giới đã được xóa bỏ, con người phạm các tội lỗi sẽ bị xét xử và bị loại khỏi tầm nhìn của Đức Chúa Trời một cách hợp pháp, và với tư cách là Đấng Christ Phục sinh, Ngài là "thánh khiết, trong trắng, không ô uế, biệt khỏi tội nhân, được cao hơn các từng trời" (Heb. 7:26).

Trong lời cầu nguyện nơi Giăng 17, chúng ta học được hai cách mà sự thánh khiết của Chúa thực tế được truyền vào trong các tín nhân. Trước hết, đó là bởi quyền năng thanh tẩy của Lời Đức Chúa Trời, vì Chúa đã phán, "Xin Cha lấy lẽ thật (sự thật) thánh hóa họ; Lời Cha tức là lẽ thật" (câu  17) Thứ hai, đó là nhờ có Đấng Christ trước mặt chúng ta như một chủ thể trong vinh quang, vì Ngài phán: "Con vì họ tự biệt ra thánh, hầu cho họ cũng nhơn lẽ thật mà được thánh hóa vậy" (câu 19).

Lời Kinh thánh kiểm tra suy nghĩ của chúng ta, và các lời và cách thức của chúng ta khiến chúng ta lên án tất cả những gì thuộc về xác thịt. Lời Kinh thánh cũng bày tỏ cho chúng ta biết Đấng Christ trong vinh quang, là khuôn mẫu hoàn hảo của sự thánh khiết phù hợp với Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nhìn vào Chúa, chúng ta sẽ được thay đổi thành cùng một hình ảnh từ vinh quang đến vinh quang. Ngài tách biệt khỏi mọi điều ác và tách biệt với các tội nhân, và khi chúng ta kêu cầu Chúa, chúng ta cũng có trách nhiệm kiềm chế sự bất nghĩa và chia tay với những người ghì mài trong sự bất nghĩa. Chúng ta phải tẩy sạch mình khỏi những chiếc bình  làm điều ô nhục (2 Ti 2: ​​19-21). Không có sự thánh thiện nào mà không tách rời khỏi sự dữ và khỏi những kẻ nắm giữ điều ác.

Vậy thì Đấng Christ là "Đấng Chân Thật". Tất cả những gì Ngài là, Ngài đều hoàn hảo. Mọi điều Ngài làm và mọi điều Ngài nói đều hoàn hảo tuyệt đối. Ngài không chỉ chân thật một phần, mọi thứ đều hoàn hảo. Nếu Ngài ta là ánh sáng, thì là "ánh sáng thực". Nếu Ngài là bánh từ trời xuống, thì "bánh thật". Nếu Ngài là cây nho, thì "cây nho thực sự". Nếu Ngài là nhân chứng, thì “nhân chứng trung thành”. Ngài có làm chứng về ​​chính mình không? "Lời chứng của Ngài là sự thật". Ngài có phán xét không? "Sự phán xét của Ngài là sự thật". Sự bình đẳng với Đấng Christ với tư cách là "Đấng Thánh" đòi hỏi phải tách khỏi mọi sự hư hoại của xác thịt, điều được thể hiện rõ nhất nơi Thi-a-ti-rơ. Việc công nhận Đấng Christ là "Đấng Chân Thật" sẽ giải thoát Sạt-đe khỏi chủ nghĩa hình thức và không thực tế.

Vì vậy, Chúa có "chìa khóa của Đa-vít". Chìa khóa không liên quan trực tiếp đến cộng đồng Phi-la-đen-phi và sự điều hành của họ, nhưng liên quan đến vương quốc và quyền cai trị (Mathio 16:19). Câu trích dẫn từ Ê-sai 22:22, và bối cảnh của đoạn văn kết nối ý tưởng về quyền cai trị với chìa khóa, vì trong câu trước Chúa nói, "lấy quyền bính của ngươi trao vào tay người---Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai người”.

Hai biểu hiệu quan trọng của quyền cai trị trong Kinh thánh là thanh gươm và chìa khóa. Thanh gươm tượng trưng cho việc thực hiện quyền quản trị bằng cách phán xét cái ác; chìa khóa là vận dụng quyền cai trị bằng cách ngăn chặn (đóng) điều ác hoặc ban cho (mở) các phước lành. Sẽ đến ngày Chúa sẽ sử dụng thanh gươm trong một cuộc phán xét áp đảo trên hội thánh. Ngày nay, Ngài đang sử dụng chìa khóa thay mặt cho dân của Ngài, để dọn đường cho tất cả những gì thuộc về Ngài và tránh xa tất cả những gì trái với Ngài. Thật vui biết bao khi biết Chúa Giê-su Christ là "Đấng Thánh" và "Đấng Chân thật" và là “Đấng có chìa khóa của Đa-vít”.

NƯỚC ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ NƯỚC TRỜI-

Thánh ngữ “nước trời”, bản Truyền thống dịch là “nước thiên đàng”, nguyên văn là “The kingdom of the heavens”—vương quốc các tầng trời. Thành ngữ nầy là một thành ngữ đặc biệt chỉ xuất hiện 32 lần trong sách Mathio.

Nước trời kéo dài 3000 năm, 2000 năm thời Tân ước và 1000 năm bình an.

Còn thành ngữ “nước Đức Chúa Trời”—the kingdom of God, xuất hiện 72 lần trong cả bộ kinh Tân ước, và cũng có xuất hiện một số lần trong sách Mathio nữa, khiến cho  tín nhân rối loạn tâm trí, khó phân biệt được các phương diện khác nhau của vương quốc.

Nước Đức Chúa Trời kéo dài từ cõi đời đời quá khứ đến cõi hằng hữu tương lai. Đó là  nói về chiều dài của thời gian. Còn nói theo phương diện khác, nước Đức Chúa Trời là lãnh vực của Chúa.

 Giăng 3:3, 5, “Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời--Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được”. Nước Đức Chúa Trời là một lãnh vực thuộc linh, không thấy được hiện nay.

Nhờ được tái sinh, chúng ta mới thấy, là cảm nhận được, lãnh vực của Chúa, và bước vào đó cư trú đời đời, tương đương vào trong Đức Cháu Trời và sống đời đời trong đó. Vương quốc động vật, thí dụ của chó mèo, khác vương quốc con người. Động vật không hiểu vương quốc của con người, nên chỉ người tái sinh sẽ hiểu và vào nước củaa Đức Chúa Trời mà thôi.

 Khi học sách Mathio chúng là phải chú ý và cần có liên hệ mật thiết đúng đắn với nước trời. Nếu ngày nay bạn được nước trời nầy cai trị trong lòng, thì trong thiên niên kỉ sau đây, bạn mới được thu nhận làm công dân của nước trời trong 1000 năm. Lúc ấy nước trời hiển lộ 1000 năm trên đất

 

 

NÚI NON TRONG SÁCH MA-THI-Ơ-

Trong Kinh thánh, núi non thường tượng trưng vương quốc của Chúa hoặc ám chỉ các đế quốc trên thế giới.

 Chúa Giê-su là Tân Vương Israel do Đức Chúa Trời bổ nhiệm, hiện ra thi hành chức vụ trong 3 năm 6 tháng. Thông thường một vị vua trần gian phải ngồi trên ngai cao, phải đứng trên bục cao để ra tuyên ngôn, để nói chuyện hay hiệu triệu quốc dân của mình.

Tân Vương Giê-su Christ cũng ngồi hoặc đứng trên núi cao khi Ngài hiệu triệu hay dạy dỗ quốc dân của nước trời. Chỉ có phúc âm Ma-thi-ơ chép Chúa Giê-su ở trên núi 8 lần, ba phúc âm kia không có. Mời ACE xem:

--4: 8- “Ma quỉ lại đem Ngài lên trên núi rất cao, chỉ cho Ngài các nước

thế gian cùng sự vinh hoa các nước ấy”

--5: 1-3 “Vả, Đức Jêsus thấy quần chúng, bèn lên núi. Khi  Ngài đã ngồi thì môn đồ đến cùng Ngài. Ngài  bèn mở miệng mà dạy họ rằng: "Phước cho kẻ có lòng nghèo khó….”

--14:23, “Xong rồi, Ngài lánh riêng lên núi mà cầu nguyện. Tối lại,Ngài

vẫn ở đó một mình”.

--15: 29, 30 “Vả, Đức Jêsus đi khỏi đó, đến gần biển Ga-li-lê, rồi lên núi mà ngồi.  Quần chúng đông kéo đến Ngài, đem theo những kẻ què, mù, câm, tàn tật và nhiều kẻ đau khác, gieo dưới chân Đức Jêsus, thì Ngài chữa họ lành”

--17:1, 2 “Sau sáu ngày Đức Jêsus đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng là em người, lánh riêng lên núi cao. Ngài biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng như ánh sáng”.

--24: 3, “Ngài đương ngồi trên núi Ô-li-ve, môn đồ tới riêng cùng Ngài mà thưa rằng: "Xin nói cho chúng tôi biết lúc nào sẽ có những điều ấy, và có điềm gì chỉ về sự hiện đến của Ngài và sự chung kết đời nầy?"

--26: 30, 31 “Khi đã hát thi ca rồi, Đức Jêsus và môn đồ bèn đi ra đến núi Ô-li-ve.  Bấy giờ Ngài phán cùng môn đồ rằng: "Đêm nay hết thảy các ngươi đều sẽ vấp phạm vì cớ ta; vì có chép rằng: 'Ta sẽ đánh kẻ chăn, thì bầy chiên sẽ tan tác”.

--28: 16- 19 “Vả,mười một môn đồ bèn đi qua Ga-li-lê, đến núi mà Đức Jêsus đã hẹn.  Khi thấy Ngài thì họ thờ lạy Ngài; nhưng có vài kẻ hồ nghi.  Jêsus đến phán cùng họ rằng: "Hết cả quyền bính trên trời dưới đất đã giao cho ta.  Vậy, hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ ta, làm phép báp têm cho họ nhơn danh Cha, Con, và Thánh Linh,”

 Một trong những ý tưởng trung tâm của sách Ma-thi-ơ là nước thiên đàng, nên sứ đồ Ma-thi-ơ cố ý tìm những sự kiện khi Chúa Giê-su ở trên núi, đến 8 lần. Số 7 là sự trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong chuyển động của Ngài trong thời đại nầy, số 8 là sự khởi đầu mới--- là thiết lập nước trời cho Tân vương Giê-su Christ.

 

MA-THI-Ơ CÓ ĐẾM TIỀN THUẾ?

Ma-thi-ơ là tên tuổi theo tiếng La mã cho Lê-vi, một người Ga-li-lê, là một nhân viện thu thuế tại phòng thuế vụ của chính quyền La mã tại Ca-bê-na-um. Đây là thủ phủ của xứ Ga-li-lê, và là kinh đô của vua chư hầu Hê-rốt, đang cai trị đất Ga-li-lê.

Mathio 9:1, 9 chép, “Đức Jêsus xuống thuyền qua biển, đến thành của mình- Đức Jêsus từ đó đi qua, thấy một người tên là Ma-thi-ơ ngồi tại sở thâu thuế, thì bảo người rằng: "Hãy theo ta." Người đứng dậy mà theo Ngài”.

Theo Giăng 4, Luca 8:1-2, tôi tin ông bà Chu-xa—Gian-nơ, quan gia tể của vua Hê-rốt, có dâng cho Chúa một căn nhà tại Ca-bê -na-um, để Chúa và 5, 6 môn đồ nghỉ ngơi (lúc đó Mathio chưa theo Chúa), khi Ngài giảng đạo khắp xứ Ga-li-lê một thời gian ngắn.

 Từ ngôi nhà riêng của mình, Chúa  chủ ý đi  ngang phòng thuế vụ Ca-bê-na-u, và kêu gọi thành công Mathio theo Ngài.

 Mathio chỉ là một nhân viên của ngành thuế vụ. Tôi không dám chắc Mathio ở dưới quyền lãnh đạo của quan trưởng thuế vụ Xa chê, ở Giê ri cô, thị trấn cửa ngỏ vào Jerusalem (Lu- ca 19:1-2).

 Có lẽ bổn phận Mathio là lo kiểm điểm tiền thu thuế mỗi ngày. Chắc chắc ông có thói quen phân loại các loại tiền lớn nhỏ. Tiền 1 đơ ni ên hay 5, 10 đơ ni ê, ông đều để riêng ra. Tôi nói như vậy vì tôi thấy Mathio khi chép sách phúc âm của mình, ông đã phân loại các dữ liệu liên quan đời sống của Chúa ra từng ô, từng hộp, từng ngăn khác nhau cách có thứ tự. Thí dụ chương 8 và 9, ông gộp một loạt 10 phép lạ của Nhà Vua Giê-su Christ.

 Tôi đã khám phá 5 cột mốc ghi dấu 5 loạt hồ sơ, 5 ngăn mà ông Mathio gom góp các lời dạy dỗ của Chúa Giê-su vào 5 cái ô đó.

 Sách Mác ít chép về những lời dạy dỗ của Chúa, vì Mác theo tâm lí của người La mã thích làm hơn là nói dài dòng. Lu ca viết sách phúc âm mình theo văn hóa ưa chuộng triết lý của người Hi lạp, nên Lu ca ghi nhiều lời dạy dỗ dài của Chúa, nhiều câu chuyện hơn các sách khác. Còn Giăng, Giăng  chép theo cách—trước hết ông kể lại một phép lạ (sign, dấu hiệu) của Chúa xong, Giăng mới ghi lại những bài dạy dỗ rất dài của Chúa ứng theo phép lạ đó. Còn ông Mathio thì gom góp được 5 ô, chứa toàn là những lời dạy dỗ rặt ròng của Chúa:

 Đây cũng là một cái nhìn, một cái chìa khóa, một dàn bài ngắn, để mở sách Mathio  cho các bạn:

1/. Math.7:28, “Khi Đức Jêsus vừa phán những lời ấy xong, quần chúng đều kinh ngạc về sự dạy dỗ của Ngài”—ngụ ý các chương Mathio 5, 6, 7 phía trước đã được đóng gói trước  câu 7: 28 rồi.

2/.Math. 11:1, “Khi Đức Jêsus đã truyền bảo mười hai môn đồ rồi, bèn lìa khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng trong các thành của chúng”- Chương 10 phía trước đã vô ngăn kéo thứ hai của Mathio rồi đó bạn.

3/.Math. 13:53, “Khi Đức Jêsus phán các thí dụ ấy xong, thì lìa khỏi đó,  đến quê hương, rồi dạy dỗ trong nhà hội,…”. Cả chương 13 ghi 7 ẩn dụ về nước trời được Mathio gom lại phía trước câu Kinh thánh nầy, bạn có thấy không?.

4/.Math. 19:1, “Khi Đức Jêsus phán các lời ấy xong, thì lìa Ga-li-lê, đến bờ cõi Giu-đê bên kia Giô-đanh”. Cả chương 18 là công khó Mathio gom lại   những lòi dạy dỗ của Chúa Giê-su.

5/. Math. 26:1,2, “Vả, khi Jêsus đã dạy mọi lời ấy xong, thì phán cùng môn đồ rằng: "Các ngươi biết rằng còn hai ngày nữa thì đến lễ Vượt-qua, và Con người sẽ bị nộp để đóng đinh trên thập tự giá".

 Các chương quan trọng 24, 25,  có lẽ đã được Chúa dạy dỗ nhiều cơ hội khác nhau, nhưng  nhân viên thuế vụ cũ, quen đếm tiền, đã gom góp lại thành một chùm ngay phía trước câu 26:1,2 nầy.

 ACE để ý sứ đồ Mathio đã phân bố 5 ô góp nhặt các lời dạy dỗ của Chúa, làm khung sườn cho toàn bộ sách phúc âm về nước trời của mình. Trong một vương quốc, thì những bài diễn văn, huấn thị của Nhà Vua phải được  lưu giữ trong kho tàng. Mong các bạn sẽ thấy được dàn bài  sách Mathio, theo kỷ năng của sứ đồ Mathio, khi ông được thần cảm mà đã viết nên một phúc âm bất hủ như vầy. Ngợi khen Chúa.

Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2021

NGÔI SAO MAI-

Khải Huyền 22:16), “Ta là Cội gốc và Hậu tự của Đa-vít, là Sao Mai sáng chói” -

Ai muốn ngắm sao mai thì phải dậy sớm. Nếu không, có thể khi mặt trời đã sáng đến mức không còn nhìn thấy được ngôi sao ban mai. Sao Kim (Venus) là ngôi sao hôm và là ngôi sao buổi sáng, cùng một vì sao. Nó quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo nhỏ hơn quỹ đạo trái đất. Sao Kim đôi khi đi trước mặt trời và chúng ta có thể nhận ra nó như một ngôi sao sáng rực rỡ báo trước ngày mới.

Chúa Giê-su mô tả chính mình trong sách Khải Huyền là "ngôi sao mai sáng chói" báo trước mặt trời mọc. Ngài nhắc nhở chúng ta về sự trở lại của Ngài đối với hội thánh, trước sự tái lâm của Ngài với tư cách là “mặt trời công bình” (Malachi 4: 2). Tiếp sau sự biến hóa và cất lên của các tín đồ đắc thắng, Chúa Jêsus sẽ giáng xuống một sự phán xét khủng khiếp trên trái đất để thiết lập vương quốc của Ngài và với tư cách là "mặt trời của sự công bình", mang lại sự chữa lành thực sự cho dân chúng trong vương quốc của Ngài (Mathio 25: 31-40). Sau đó, "ngày" mới bắt đầu.

Bây giờ chúng ta đang sống trong bóng đêm- trong thế giới này, đó là bóng tối về mọi mặt. Thế giới này là một nơi tối tăm bẩn thỉu, nơi tội lỗi đã hoành hành. Thế nhân không muốn biết bất cứ điều gì về Đức Chúa Trời, họ bị tối tăm và tiếp cận sự phán xét sắp tới. Nhưng để có được định hướng trong thời kỳ tăm tối này, chúng ta cần ánh sáng chỉ đường cho chúng ta một cách đáng tin cậy. Sứ đồ Phi-e-rơ nói về điều đó:

“Chúng ta lại có lời tiên tri càng chắc chắn hơn, là lời anh em đáng nên để ý đến, như ngọn đèn soi sáng trong nơi tối tăm (hoang vu, bẩn thỉu, và vì những thứ bẩn thỉu không sáng sủa: nơi u ám, tối tăm), cho đến chừng rạng đông và sao mai mọc lên trong lòng anh em”(2 Phi 1:19).

Lời tiên tri giống như ngọn đèn trong nơi tối tăm. Khi chúng ta nghiên cứu và học hỏi những lời tiên tri trong Kinh Thánh và thực sự nắm lấy chúng bằng lời cầu nguyện, thì chúng sẽ cho chúng ta sự định hướng và chỉ cho chúng ta thấy thế giới đang đi theo con đường nào và mọi thứ đang diễn ra ở đâu. Các lời tiên tri nói về sự phán xét và những điều khác, về việc Chúa đến trị vì làm Vua trong vương quốc của Ngài.

Bằng cách nghiên cứu Lời Ngài và những lời tiên tri, Đức Chúa Trời cũng muốn làm cho "ngôi sao ban mai" mọc lên trong lòng chúng ta. Điều này xảy ra khi trong lòng bạn và tôi có niềm mong đợi về sự cất lên và sự tái lâm của Chúa Giê-xu cho Hội thánh, mong đợi đó được đánh thức một lần nữa và được sống động trở lại. Sau đó, chúng ta chờ đợi Ngài trong tấm lòng của chúng ta trước khi Ngài thực sự xuất hiện như một ngôi sao ban mai để đưa chúng ta đến với chính Ngài.

“Ngôi sao mai” cũng được nhắc đến trong lá thư gửi hội thánh Thi-a-ti-rơ (Khải. 2:28). Đó là phần thưởng cho người đắc thắng-- các tín đồ của hội thánh ở Thi-a-ti-rơ cũng sẽ có mặt khi Chúa đến vì hội thánh chung, và  chỉ những người đắc thắng sẽ được cât lên trước khi các sự đoán phạt bắt đầu đổ xuống trái đất.

Bạn đã nghĩ rằng Chúa Jêsus có thể tái lâm vào ngày hôm nay chưa? Sao mai đã mọc trong tấm lòng của  bạn rồi hay bạn vẫn còn ngủ mê? Hãy dành thời gian của bạn và nghiên cứu những lời tiên tri trong Lời Chúa.

NỖI LÂM NGUY VÀ ĐE DỌA ĐỐI VỚi DÂN CHÚA NGÀY NAY-

Khải 1:20, “Đây là sự mầu nhiệm về bảy ngôi sao mà con thấy trong tay phải Ta, và bảy chân đèn bằng vàng: Bảy ngôi sao là các sứ giả của bảy Hội Thánh, còn bảy chân đèn là bảy Hội Thánh.”

Vì điều gì mà Giáo hội đã được dấy lên? Tôi không tin rằng ban đầu Chúa nghĩ đến việc có một Giáo hội tổng quát, và sau đó có một Giáo hội đặc biệt bên trong; một số lượng tín nhân lớn lao tổng quát, và sau đó là có một tập thể được gọi là 'những kẻ đắc thắng' ở giữa. Điều đó chưa bao giờ là thiết kế của Đức Chúa Trời. Đó là cái mà chúng ta có thể gọi là tình trạng khẩn cấp của mọi sự đã phát sinh ra, và là điều cần thiết là vì có sự thất bại chung. Đối với tôi, dường như từ 'những người đắc thắng' đã hàm ý rằng có sự thất bại ở đâu đó. Mục đích của Chúa dành cho tất cả Giáo hội của Ngài, như một chiếc bình - tuy nhiên có thể mục đích đó chỉ được thực hiện trong một số ít người-- là phải duy trì chứng cớ về một sự sống đã chiến thắng sự chết và sẽ chiến thắng sự chết cho đến cùng. Đó là một vấn đề về sự sống.

Chúa Jêsus được tạo thành Nhân Chứng vĩ đại trên nền tảng quyền năng của Đức Chúa Trời, mà đã được thực hiện trong Ngài khi Ngài từ kẻ chết sống lại. Hãy nhớ rằng chứng cớ của Chúa Giê-su luôn luôn liên quan đến việc Ngài đã sống lại từ kẻ chết; nghĩa là Ngài sống bởi một quyền năng đã chinh phục sự chết. Ngài là Sự Sống trên lập trường đó, trên cơ sở đó, theo ý nghĩa đó, và những người mà Tân Ước chấp nhận làm nhân chứng cho Chúa Giê-su, không phải là những người nói sự thật về Ngài, nhưng là nhân chứng về sự phục sinh của Ngài - tất nhiên, theo cách thuộc linh - làm chứng cho Đấng Christ đã sống lại.

Chứng cớ của Tân Ước về Chúa Giê-su, là Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết và Ngài còn sống mãi mãi. Đó là thể yếu của chứng cớ. Vì vậy, toàn bộ vấn đề tự giải quyết thành một vấn đề của chứng cớ trong cuộc sống, một bằng chứng về sự sống. Ngay từ đầu, không phải là một bằng chứng của giáo lý, mà là một chứng cớ của sự sống. Có phải ngọn lửa bùng cháy lúc ban đầu, chứng kiến ​​Chúa Giêsu sống và đắc thắng khải hoàn, ngay cả trên bối cảnh đen tối chết chóc của thế giới này tại Đồi Sọ không? Đó là câu hỏi dành cho dân Chúa; câu hỏi cho cuộc sống của bạn và cho tôi, và cho mọi dụng cụ tập thể của Chúa hôm nay.

Khi tiếp tục, chúng ta sẽ thấy rất nhiều điều đó có nghĩa là gì. Hiện tại, chúng ta chỉ đơn giản là tập trung suy nghĩ của mình vào vấn đề này. Tôi không nghi ngờ gì trong lòng mình về vấn đề của thời đại chúng ta là gì. Tôi tin tưởng rằng trong vấn đề này, chúng ta có thể tuyên bố đúng là mình thuộc về bộ tộc Y-sa-ca, tôi có thể nói như vậy,  là chúng ta biết thời gian nào cho Israel phải làm việc.“Trong con cháu Y-sa-ca, có hai trăm nhà lãnh đạo am hiểu thời cơ và biết điều gì dân Y-sơ-ra-ên phải làm“ (1 Sử kí 12:32).

Tôi không có chút nghi ngờ nào, nhưng vấn đề của thời đại chúng ta, của thì giờ này trong lịch sử Giáo hội, hơn bao giờ hết, là vấn đề sự sống và sự chết theo nghĩa thuộc linh. Có phải bạn đang càng ngày càng cảm thấy sự khủng khiếp khi sự sống của bạn bị khô cạn, sự cạn kiệt sức sống của bạn, sự cạn kiệt năng lượng của bạn, có lẽ đặc biệt là liên quan đến việc cầu nguyện sử bạn không? Há chẳng phải điều đó không đúng, khi nó thường đòi hỏi một nỗ lực tối cao để bạn có thể cầu nguyện, và để vượt qua khi bạn đã bắt đầu cầu nguyện sao? Bạn cần tiếp thêm năng lượng từ một nguồn khác với nguồn năng lượng tự nhiên của chính bạn trong vấn đề này, và điều đó ngày càng như vậy. Có một điều gì kỳ lạ, sâu thẳm, khủng khiếp, làm khô cạn sinh lực, là sinh lực trí óc và thể chất cũng như thuộc linh. Những người thuộc linh, ít nhất, biết đôi điều gì đó về điều nầy. Và nằm phía sau điều đó là sự xung đột cuối cùng của thời đại này, giữa Chúa và sa-tan. Đó là vấn đề thuộc linh về sự sống và sự chết.

Chúa sẽ nói với chúng ta điều gì đó về điều nầy vào lúc này, và chúng ta phải hướng đôi mắt của mình theo cách suy nghĩ của Chúa đến vấn đề lớn đang bị lâm nguy và đe dọa đối với dân của Ngài. Tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ biết rằng Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận thức được điều đó và không chỉ cảnh báo chúng ta về những nguy cơ của nó, mà Ngài còn hết lòng giúp đỡ chúng ta và cho chúng ta thấy những gì đứng về phía chúng ta trong trận chiến.

 T. Austin-Sparks

BÀN THỜ BẸT-GĂM

 Khải Huyền 2.13, “Ta biết nơi ngươi ở, tức là chỗ có ngôi của Sa-tan; ngươi giữ vững danh ta, không chối lời ta, đến nỗi trong những ngày mà An-ti-ba, là chứng nhân của ta, kẻ trung tín của ta, đã bị giết giữa các ngươi, là nơi Sa-tan ở, thì cũng không chối”.

Trong bức thư gửi cho Bẹt-găm, có nhắc đến ngai vàng của Satan tại đó. Một số nhà giải thích Kinh thánh đã coi ngai vàng này với bàn thờ Bẹt-găm cụ thể, khổng lồ có vào thời ấy như ngang nhau, nơi được dành riêng cho các vị thần của thế giới ngoại đạo. Sứ đồ Giăng ngụ ý bàn thờ thờ các thần nghĩa đen tại Bẹt găm là ngôi của sa-tan tại đó.

Ngày nay, bàn thờ Bẹt-găm này, đã được dựng lại một phần, ở Berlin, Đức quốc. Tất nhiên, đó là về vấn đề bảo tồn văn hóa. Tuy nhiên, bàn thờ ngoại giáo lớn nhất trên thế giới khá phù hợp với thành phố Berlin này - và nhiều thành phố khác cũng có như vậy. Hầu hết các thành phố trên thế giới đều có bàn thờ thờ vị thần nào đó, thì đó là ngôi của Sa-tan trong thành phố đó.

Tại thời điểm này của chúng ta,  khi mọi người thích bơi lội theo dòng đời do sa-tan thống trị, chúng ta nên lấy một ví dụ từ An-ti-ba, một nhân chứng trung thành ở Bẹt-găm để làm gương mẫu. Khi được dịch ra, thì tên của anh ấy có nghĩa là: "Chống lại mọi thứ".

“Ta biết nơi ngươi ở, tức là chỗ có ngôi của Sa-tan; ngươi giữ vững danh ta, không chối lời ta, đến nỗi trong những ngày mà An-ti-ba, là chứng nhân của ta, kẻ trung tín của ta, đã bị giết giữa các ngươi, là nơi Sa-tan ở, thì cũng không chối." (Khải. 2:13)

MA-NA GIẤU KÍN-

Khải huyền 2.17, “Kẻ đắc thắng, ta sẽ cho ma-na giấu kín, cũng sẽ cho người một viên đá trắng, trên đó có viết tên mới, ngoài kẻ nhận được chẳng ai biết đến”.

Những người chiến thắng trong hội thánh Bẹt-găm được hứa rằng Chúa sẽ ban cho họ ma-na giấu kín (Khải Huyền 2:17). Bạn hiểu gì với điều đó?

Rõ ràng điều này chỉ ra ma-na mà dân Israel đã ăn trong đồng vắng. Một ô -me (4 lít) ma-na này được cho vào một cái bình vàng. Chiếc lọ này được mang đến trước mặt Đức Chúa Trời và sau đó được đặt trong rương giao ước (Xuất. 16:33; Hê-bơ-rơ 9:4). Ở đó ma-na đã được che khuất khỏi mắt dân Y-sơ-ra-ên. Khi vào xứ Ca-na-an, họ không còn được cung cấp ma-na (Giô-suê 5:12); nhưng họ có ma-na trong lọ vàng để làm kỷ vật về thức ăn trong sa mạc.

Ma-na là hình ảnh của Chúa Jêsus. Như Đấng từ trời xuống đất và bây giờ là lương thực của chúng ta (Giăng 6: 48-51). Chúng ta nuôi dưỡng bằng chính Ngài trong thế giới nầy, như là sa mạc cho đức tin. Khi chúng ta đang ở trong vinh quang, chúng ta không còn có thể cảm nghiệm được Đấng Christ trong những hoàn cảnh của cuộc sống  thời khó khăn  trước kia,  hơn là chính Ngài đã ở trong vinh quang với chúng ta. Cuộc hành trình sa mạc kết thúc và ma-na dừng lại.

Nhưng Chúa sẽ ban nó cho những người chinh phục để họ vui mừng nhớ lại những gì Chúa đã dành cho họ khi họ còn ở dưới đây. Ngài ban ma-na ẩn giấu cho họ. Sẽ thế nào khi chúng ta có thể nhìn lại khoảng thời gian này bằng “đôi mắt của thiên đàng” và tận hưởng những gì Chúa đã dành cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh khó khăn- ngay cả hôm nay!

VIÊN ĐÁ TRẮNG-

Khải Huyền 2.17, “Kẻ đắc thắng, ta sẽ cho ma-na giấu kín, cũng sẽ cho người một viên đá trắng, trên đó có viết tên mới, ngoài kẻ nhận được chẳng ai biết đến.'

Trong lá thư gửi Bẹt-găm, người chiến thắng tình trạng hội thánh của mình được hứa rằng anh ta sẽ nhận được từ Chúa một viên đá trắng, trên đó có viết một cái tên mới mà không ai biết ngoài người tiếp nhận (Khải Huyền 2:17).

Đá trắng được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong đế quốc La mã tại thời điểm lúc đó. Trong các cuộc thi đấu thể thao, những người chiến thắng nhận được những viên đá trắng như sự công nhận; trước tòa án, sự vô tội của bị cáo đã được xác nhận bằng một viên đá trắng; Trong những bữa tiệc lớn, những vị khách danh dự cũng được tặng một viên đá trắng. Tóm lại: viên đá trắng là dấu hiệu sự nhìn nhận.

Ai chiến thắng sẽ được Chúa công nhận. Và không chỉ vậy. Sự công nhận cũng đã tương ứng với hành vi và lối cư xử của chúng ta trong đời sống - bởi vì sẽ có một cái tên mới trên “đá trắng”. Trong thánh kinh, tên thường có nghĩa là, một người nào đó được định tính chất bởi cái tên của người đó. Bạn đọc Kinh thánh sẽ thấy tên của một người nào đó sẽ phản chiếu tánh tình người đó. Thí dụ ông Lót, tên “Lót” có nghĩa là “nhuộm đen”, định tính chất cuộc đời của Lót, vì Lót đã bị tình trạng ô tội của Sô-đôm nhuộm vào.

Chúa sẽ ban cho những kẻ chinh phục một sự thừa nhận rất cá nhân và sự nhìn nhận thuộc riếng về cá nhân đó. Những kẻ chinh phục sẽ yêu thích “viên đá trăng” này và gìn giữ nó trong niềm danh dự biết dường nào!

Có lẽ đôi khi chúng ta giống như An-ti-ba (tên của người có nghĩa là “chống lại tất cả”), con người có lẽ khá đơn độc và không thể tin tưởng vào sự công nhận của người khác về anh (xem câu 13). Chúng ta sẽ làm gì nếu  bạn bè không nhìn nhận mình? Chúng ta có hài lòng vì chỉ có Chúa nhìn nhận chúng ta và Ngài sẽ cho chúng ta thấy điều này rất rõ ràng không?

MA-NA ẨN GIẤU VÀ VIÊN ĐÁ TRẮNG

Khải Huyền 2:17, ““Kẻ đắc thắng, Ta sẽ cho ma-na giấu kín, cũng sẽ cho người một viên đá trắng, trên đó có viết tên mới, ngoài kẻ nhận được chẳng ai biết đến'.

Câu Kinh Thánh trên là lời hứa về một phần thưởng rất lớn mà tất cả các thánh đồ sẽ vui mừng trong vinh quang sắp đến ở  trên trời. Ma-na tưởng nhớ đến Con Đức Chúa Trời đã từ trời xuống. Đó là "bánh hằng sống từ trời xuống" (Giăng 6:51). Đấng ấy đã biết tất cả hoàn cảnh của chúng ta trên trái đất, và chúng ta nuôi dưỡng chính mình bằng Đấng ấy khi chúng ta trãi bước qua thế giới này

Tuy nhiên, câu này hứa cho chúng ta về "ma-na giấu kín" khi chúng ta sẽ về ở trên trời. Trong cuộc hành trình băng qua sa mạc, con cái Israel đã ăn ma-na và thu thập nó để đáp ứng nhu cầu chính xác hàng ngày của họ, cũng như chúng ta nuôi mình bằng Đấng Christ mỗi ngày. Nhưng họ cũng đã đặt một lượng ma-na nhất định trong lọ vàng trước mặt Đức Giê-hô-va (Xuất hành 16:33; Hê-bơ-rơ 9: 4). Đây là một bức tranh về ký ức của tất cả những gì các Cơ Đốc nhân đã trải qua ở đây trên trái đất, giống với một phần nào đó của Con người đau khổ và khiêm nhường. Trên thiên đàng ký ức này sẽ nuôi dưỡng mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời.

Chúng ta sẽ chiêm ngưỡng vô số những người được cứu chuộc trên trời. Chúng ta có thể nghĩ rằng mỗi người chúng ta chỉ là một kẻ vô danh giữa đám đông quá lớn trên trời. Nhưng không! Kiến thức về cái tên mới được gắn trên viên đá trắng là một bí mật giữa người nhận và Đấng cứu chuộc của mình. Đối với mỗi cá nhân, nó làm chứng cho sự công nhận của Đấng Christ đối với mỗi người và vị trí của chúng ta với Ngài trong vinh quang- cũng giống như những tên yêu thương mà chúng ta đôi khi đặt riêng cho nhau trong gia đình của mình. Những tên như vậy được giữ trong vòng gia đình và không được sử dụng ở nơi công cộng. Sự thân mật và hiệp thông giống nhau sẽ tồn tại giữa mọi tín đồ và Chúa Giê-su trong ngày đó và còn đến đời đời.

NGAI BÁU VÀ ĐỀN THÁNH—

Khải. 4:2-3, “Tức thì tôi …đã thấy kìa, có một cái ngai đặt ở trên trời, và có một Đấng ngự trên đó.  Đấng ngự đó xem giống như bích ngọc và hồng bửu thạch, có cái mống bao quanh ngai coi giống như lục bửu thạch”.

Khải. 11:19; 15:5-, “Đền thờ của Đức Chúa Trời ở trên trời bèn mở ra, trong đền thờ thấy có hòm giao ước của Ngài;….-- Sau việc ấy, tôi đã thấy đền thờ của nhà trại chứng cớ ở trên trời mở ra”

-

Kìa xem Khải Thị có hai phần,

Ngai báu và đền thánh rất cân.

Cái mống, ngai cao mặt đất sạch,

Cái hòm, điện thánh cõi trời tuân.

Trên ngai Thánh Phụ lo cai quản,

Trong điện Chúa Trời tỏa sáng trưng.

Ngai báu đưa ta vô điện thánh,

Cuối cùng ngai, điện thánh hòa chung.

 MK- 2021-

MỘT HƯỚNG NHÌN VÀO SÁCH KHẢI HUYỀN-

Chúa đã khải thị cho chúng ta hai ba dàn bài, nhờ đó chúng ta sẽ phần nào quán triệt được các khải tượng, các hình ảnh tượng trưng cộng với các hình ảnh nghĩa đen đan xen nhau, trong Khải Huyền. Hôm nay tôi chỉ dẫn  ACE một hướng nhìn khác vào sách Khải Huyền:

 Có hai cái trục chi phối toàn bộ các sự kiện trong Khải Huyền là Cái Ngai Và Đền Thánh.

1/ Ngai Báu: 4:2-3

“Tức thì tôi …đã thấy kìa, có một cái ngai đặt ở trên trời, và có một Đấng ngự trên đó.  Đấng ngự đó xem giống như bích ngọc và hồng bửu thạch, có cái mống bao quanh ngai coi giống như lục bửu thạch”.

Đức Chúa Trời, Đấng Thống Lĩnh, vẫn ngồi trên ngai báu hằng hữu từ cõi đời đời quá khứ đến cõi đời đời tương lai. Chương 5 Khải huyền nói Chúa Giê-su là Chiên Con, bị giết, sống lại, thăng thiên, lên ngồi chung với Đức Chúa Trời.  Không phải hai Đấng ngồi song song trên ngai, mà Đức Chúa Cha ở trong Chúa Giê-su ngự trên ngai báu kể từ khi Chúa Giê-su thăng thiên. ACE nhớ tôi nói là nhân tánh của Chúa Giê-su nha.

 Sau khi đăng quang Chúa Giê su bắt đầu mở 7 ấn, 7 kèn, kiểm soát dòng lịch sử nhân loại từ năm 30 đầu Công nguyên đến hết 1000 năm bình an, khi đó Ngài giao quyền lại cho Đức Chúa Trời.—1 Cor. 15:24-25-

 Có nghĩa là Chúa Giê-su ngồi trên ngai báu 3000 năm, nay còn ít năm nữa sẽ vào nước 1000 năm. Ngài đã và đang thi hành quyền cai trị phán xét khi tuần tra 7 chân đèn, khi đã và đang đoán phạt thế giới ngoại đạo nầy.

 Tóm lại ngai báu trong Khải huyền thi hành quyền uy hướng về thế giới bên ngoài, về Giáo hội. Các sự cai trị đó của Chúa được các chương 6 đến cuối chương 20 của Khải Huyền miêu tả.

Về phương diện khác, ngai cai trị nầy là ngai ân điển đối với chúng ta, Heb 4:16, nhưng nó là ngai đoán phạt đối với tình hình thế giới hiện nay

2/Đền Thánh: 11:19; 15:5-

“Đền thờ của Đức Chúa Trời ở trên trời bèn mở ra, trong đền thờ thấy có hòm giao ước của Ngài;….-- Sau việc ấy, tôi đã thấy đền thờ của nhà trại chứng cớ ở trên trời mở ra”.

Trong nguyên ngữ Hi-lạp hai chữ “đền thờ” ở đây là naos, nghĩa là nơi chí thánh, là chính thành thánh Jerusalem mới, không phải thiên đàng, tượng trưng cho toàn bộ Giáo Hội trong cõi đời đời tương lai.

Đúng ra sách Khải huyền chấm dứt tại 11:19, vì lúc đó cõi đời đời đã mở ra và 11:15 nói mọi sự đã xong rồi, để mở màn cho nước ngàn năm. Nhưng nếu chép sách Khải Huyền như vậy, chúng ta không thể hiểu nổi, nên Chúa lại cho Giăng xem thêm nhiều tập Video khác nữa, với mục đích chi tiết hóa, hay phụ đính cho giại đoạn hệ trong của tuần lễ thứ 70 trong lời tiên tri của Đa-ni-ên 9, tức là 7 năm sau cùng.

Nên Chúa chi tiết các phần khó hiểu là các chương 12 về con rồng và người phụ nữ có con trai, về hai con thú trong chương 13, mùa gặt trong chương 14…nước ngàn năm, lễ cưới Chiên Con các chương 19, 20, thành thánh (naos) trong chương 21, là cõi đời đời trong chương 22.

 Chúa cai trị trên ngai trên lịch sử loài người. Ngai có cái mống bao quanh, nghĩa là Ngài không bao giờ dứt tình, không triệt tiêu nhân loại bao giờ. Trong đền thờ có hòm giao ước, ngụ ý Chúa thực hiện thành tựu  mọi điều tích cực để đưa cả hội thánh vào cõi đời đời theo giao ước không thay đổi của Ngài. Chúa ngồi trên ngai báu, nhưng sẽ thưòng trú, an nghỉ với dân Ngài trong điện thánh. Khải 22:1 nói cái ngai được đem vào điện thánh mà điện thánh là thành thánh, không phải thiên đàng..

 Ngai báu không còn là ngai đoán phạt nhưng là ngai đời đời ban cấp nước hằng sống và  trái cây sự sống cho tín nhân đến đời đời (Khải 22:1-4).

 Nếu ACE đã thấy và hiểu được Ngai báu và Đền thánh, hai cái trục của sách Khải Huyền, thì ACE sẽ hiếu thấu cái nhân của sách tiên tri nầy vậy.Phước cho kẻ đọc cùng kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ những điều đã chép ở trong đó; vì thì giờ đã gần rồi”

 MK. August 8, 2021

SỰ TRUY TÌM CỦA ĐÔI MẮT NHƯ NGỌN LỬA-

Khải huyền 1: 1-20; 2: 1.

Bằng một lời giới thiệu ngắn gọn, chúng ta hãy tập trung sự chú ý của mình vào những gì chúng ta cảm thấy là mối quan tâm của Chúa đối với dân của Ngài vào lúc này.

Trong chương thứ hai và thứ ba của Sách Khải Huyền, chúng ta có cuộc khảo sát của Chúa về bảy hội thánh. Khi đôi mắt như ngọn lửa nhìn vào trạng thái thuộc linh bên trong và phơi bày tình trạng - phân tích, mổ xẻ, tách biệt, đặt trên hai mặt ghi nợ và vay tín dụng, đồng thời hình thành và đưa ra phán quyết cuối cùng -- chúng ta thấy một điều liên quan đến tất cả. Có thể có sự khác biệt cụ thể trong chúng; các khía cạnh có thể khác nhau; các yếu tố có thể rất khác nhau: tuy nhiên, khi tất cả đã được khảo sát và tập hợp lại với nhau, thì chỉ có một sự thật, cụ thể là, sự hiện diện hay vắng mặt của điều đó, theo quan điểm của Chúa, tạo nên sự biện minh trong việc tiếp tục sự giao thác trọn vẹn của Chúa đối với bất cứ thứ gì tuyên bố đại diện cho Ngài. Vấn đề đối với mỗi hội thánh này là liệu dưới sự cho phép của Chúa, họ có thể tiếp tục là nhân chứng thực sự hay không, và liệu họ có thể tiếp tục với tư cách thực sự làm đại diện cho Ngài hay không.

Chúa đã đưa ra ra trước mặt trước Ngài - chúng ta sẽ nói, đã có họ trong tay Ngài - và đang xác định xem Ngài có thể nắm giữ họ nữa hay không hay liệu Ngài sẽ phải bỏ họ đi; liệu Ngài có phải "dời chân đèn ra khỏi vị trí của nó" (Khải Huyền 2: 5), hoặc liệu nó có thể tuân theo sự phê duyệt hoàn toàn của Ngài hay không.

Vì vậy, câu hỏi rõ ràng là một câu hỏi tiếp tục liên quan đến mục đích đã định của Chúa hay việc đánh mất vị trí của nó. Chúng ta đã thấy những thiên thể, sao băng, xẹt qua bầu trời vào ban đêm, đến từ xa, trở nên rực rỡ, dường như khi chúng đến gần hơn, lóe sáng trên đường đi, và sau đó biến mất hoàn toàn khỏi tầm nhìn trong bóng tối của màn đêm. Dưới đây là những "ngôi sao" (Khải. 1:20) được mang lại bởi những nghị quyết vĩnh viễn của Đức Chúa Trời, lóe sáng sự vinh hiển của ân điển Ngài, một số trong số họ không còn thực hiện những nghị quyết đó nữa.

Câu hỏi liên quan đến mọi công cụ được Đức Chúa Trời dấy lên liên quan đến mục đích của Ngài là: Ngài có thể tiếp tục với nó bao xa? Rõ ràng là có những điều không biện minh cho Ngài trong việc hoàn toàn ủng hộ một số công cụ mà Ngài đã dấy lên và sử dụng hồi ban đầu. Những lá thư này làm cho những điều đó trở nên rõ ràng.

Trước hết, việc Đức Chúa Trời ban đầu dấy lên một công cụ, rằng nó đến từ Ngài và ban đầu là công việc của Ngài, không biện minh cho việc Ngài cầm giữ nó vô thời hạn. Điều đó đã được sáng tỏ. Chúng ta nên xem xét nghiêm túc thực tế rằng, bởi vì Đức Chúa Trời đã dấy lên một sự vật, điều đó không có nghĩa là Ngài nhất thiết phải giữ cho sự vật đó đúng đắn một cách vô điều kiện, nghĩa là, bất kể trạng thái hoặc đặc tính của nó lúc cuối cùng hay trong quá trình của thời gian.

Hơn nữa, thực tế là một công cụ đã có một lịch sử tuyệt vời về sự sùng kính đối với Ngài và vào một thời điểm nào đó, đã là một biểu hiện rất thực tế và đầy đủ về ân điển và quyền năng của Ngài, không tự giải quyết vấn đề thỉnh cầu Ngài, và Ngài không coi chính Ngài có bất kỳ nghĩa vụ nào để bảo quản nó vô thời hạn. Nhưng chúng ta phải nhấn mạnh vấn đề còn hơn nữa. Bởi vì tại bất kỳ thời điểm nào, nhiều điều đáng khen ngợi phải được nhìn thấy trong một dụng cụ, mà chính Chúa có thể ca ngợi - và có thể không có một vài điều như vậy - tuy nhiên, bản ghi (Khải . 2-3) này cho thấy rằng ngay cả họ cũng không biện minh cho Đức Chúa Trời trong việc giữ gìn nó trong nguyên trạng; ngay cả sự hiện diện của những điều tương đối tốt như vậy cũng không có nghĩa là Ngài có thể không bao giờ cân nhắc việc đưa chúng ra khỏi vị trí ban đầu của chúng, hoặc rằng Ngài bị ràng buộc không làm như vậy. Có nhiều thứ vẫn tiếp tục tồn tại và phục vụ một mục đích, nhưng đã mất đi vị trí trong giá trị ban đầu của chúng đối với Chúa.

Đó là một sự sàng lọc rất kỹ lưỡng đối với tất cả mọi thứ. Người ta có thể nghĩ rằng nếu Đức Chúa Trời dấy lên một sự vật, nếu điều đó đến từ chính tay Ngài ngay từ đầu; nếu Đức Chúa Trời đã sử dụng nó và ban phước cho nó; nếu nó đã cho thấy những đặc điểm và đặc điểm của ân điển và tình yêu của Ngài; nếu công cụ đó vẫn còn trong nó nhiều điều đáng khen ngợi mà Đức Chúa Trời, nhìn với đôi mắt của Ngài như một ngọn lửa, có thể chấp nhận, chắc chắn điều đó đã đủ để tranh luận cho sự tiếp tục của nó trong sự sung mãn của phước lành của Ngài không? Bạn hiểu rằng chúng ta đang nói về các công cụ. Chúng tôi không nói về các con người. Chúng ta không giải quyết vấn đề về sự cứu rỗi, nhưng với vấn đề về ơn gọi, về nhiệm mạng.

Vậy thì điều gì biện minh cho Chúa trong việc bảo tồn và tiếp tục với bất kỳ công cụ nào như vậy? Chúng ta phải nhìn xem điều gì đã thúc đẩy Ngài khi Ngài tạo dựng nó, điều gì ở trong tâm trí và trong trái tim của Ngài. Chúng ta sẽ tìm thấy tất cả những gì chúng ta cần biết từ chính mô tả về chính công cụ đó.

Trong đoạn văn (Khải 2:- 3: mà chúng tôi đã đề cập đến nó được gọi là chân đèn -"bảy chân đèn vàng". Hiểu biết của chúng ta về Lời Kinh Thánh cho chúng ta nhiều ánh sáng về ý nghĩa của điều đó, và đặc biệt là Cựu Ước, sẽ giúp chúng ta ngay lập tức, vì đó là chân đền trong Đền Tạm, hay chân đèn bằng vàng cho Xa-cha-ri (Xa-cha-ri 4: 2), chúng ta biết rằng trong cả hai trường hợp đều có biểu hiện sống động của năng lực Thánh Linh.

Nắm lấy tất cả các chân đèn bằng vàng. Chúng ta nhớ hình dáng của nó, với bảy cái bát và bảy cái ống bằng vàng; và dầu chảy ra từ những cây ô-liu còn sống qua đường ống dẫn vào bát, để cung cấp nguồn ánh sáng. Đó là một minh họa rất đầy đủ, rất toàn diện, và nó là một cái gì đó đang sống động. Ở một đầu có một nguồn hoặc suối phun nước sống. Nhà tiên tri không nói rằng có những bồn chứa, bể chứa, một số thùng chứa dầu ô-liu do con người tạo ra, mà là những cây sống động, và dầu được đổ ra liên tục, mãi mãi tươi mới, ấm áp từ động mạch của cơ cấu sinh động đó, như nó vốn có – đổ vào chân đèn đang cháy, với ánh sáng ổn định, bất diệt, ánh sáng không thay đổi, không tắt, được duy trì ở mức tối đa liên tục.

T. A. Sparks-

NGAI BÁU VÀ ĐỀN THÁNH—

Khải. 4:2-3, “Tức thì tôi …đã thấy kìa, có một cái ngai đặt ở trên trời, và có một Đấng ngự trên đó.  Đấng ngự đó xem giống như bích ngọc và hồng bửu thạch, có cái mống bao quanh ngai coi giống như lục bửu thạch”.

Khải. 11:19; 15:5-, “Đền thờ của Đức Chúa Trời ở trên trời bèn mở ra, trong đền thờ thấy có hòm giao ước của Ngài;….-- Sau việc ấy, tôi đã thấy đền thờ của nhà trại chứng cớ ở trên trời mở ra”

-

Kìa xem Khải Thị có hai phần,

Ngai báu và đền thánh rất cân.

Cái mống, ngai cao tan sạch đất,

Cái hòm, điện thánh cõi trời tuân.

Trên ngai Thánh Phụ lo cai quản,

Trong điện Chúa Trời tỏa sáng trưng.

Ngai báu đưa ta vô điện thánh,

Cuối cùng ngai, điện thánh hòa chung.

 MK- 2021-

Phước Lành Cho Người Đắc thắng-- Gia Tăng Danh Dự-

Khải huyền 2: và 3:-

Trong mỗi thư tín (Khải Huyền 2 và 3), chúng ta tìm thấy một lời hứa với người chiến thắng phù hợp với hoàn cảnh được mô tả trong các thư tín. Dường như có một sự gia tăng nhất định trong những lời hứa cá nhân này (cụ thể là về danh dự, sự nổi bật của người chinh phục).

1). “Kẻ đắc thắng, Ta sẽ cho ăn trái cây sự sống ở trong Lạc viên (địa đàng) của Đức Chúa Trời” (Kh 2,7)

Ê-phê-sô--Trong thư gửi Ê-phê-sô, người đắc thắng được hứa rằng anh ta có thể tận hưởng cây sự sống. Người chiến thắng được phép tận hưởng những gì cuộc sống mới cần đến.

2). “Khá trung tín cho đến chết, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mão miện của sự sống. Ai có tai, hãy nghe điều Thánh Linh phán cùng các Hội thánh. Kẻ đắc thắng hẳn chẳng bị hại bởi lần chết thứ hai” (Khải 2:10.11)

Si-miệc-nơ: - Không trực tiếp trong lời hứa của những người đắc thắng (chỉ chứa một “phước lành tiêu cực”), nhưng liên kết trực tiếp với nó: các tín hữu được hứa ban mão miện của sự sống. Có một chiếc mão miện là một vinh dự lớn hơn là được ăn từ cây sự sống.

3).“Ai có tai, hãy nghe điều Thánh Linh phán cùng các Hội thánh. Kẻ đắc thắng, Ta sẽ cho ma-na giấu kín, cũng sẽ cho người một viên đá trắng, trên đó có viết tên mới, ngoài kẻ nhận được chẳng ai biết đến” (Khải. 2:17)

Bẹt-găm:-- Ở đây bạn không chỉ có thể vui hưởng từ cây sự sống, mà người chiến thắng còn được phục vụ ma-na ẩn giấu. Còn viên đá trắng có một sự liên hệ riêng tư với Chúa, trong khi mão miện của sự sống, chẳng hạn, là giống nhau đối với tất cả mọi người.

4).Kẻ đắc thắng và giữ công việc Ta đến cùng, Ta sẽ ban cho quyền  bính trên các dân, người sẽ chăn họ bằng cây gậy sắt, đập tan họ như khí mạnh của thợ gốm, cũng như ta đã nhận nơi Cha Ta vậy. Ta sẽ cho người ngôi sao mai'. (Khải. 2:26-28)

Thi-a-ti-rơ:- Phần công khai bây giờ đã được đề cập –còn ma-na được ẩn giấu, nhưng không phải là quy tắc trong vương quốc. Và ở đây, một điều lớn lao được trao cho người chiến thắng: ngôi sao mai, tức là chính Đấng Christ là Đấng sẽ đến và niềm hạnh phúc cho người có trái tim được kết nối với ngôi sao đó. Người thấy sao mai là người được cất lên trước khi antichrist làm vua, trước khi đại bộ phận hội thánh chỉ thấy mặt trời về sau.

5) “Kẻ đắc thắng sẽ được mặc áo trắng như vậy, Ta hẳn chẳng xoá tên người khỏi sách sự sống, nhưng Ta sẽ thừa nhận tên người trước mặt Cha ta, cùng  trước mặt các thiên sứ Ngài” (Khải. 3:7)

Sạt-đe:-- Những người đắc thắng ở đây không tiếp nhận được gì cả, điều gì đó đã xảy ra với chính con người họ rồi: Họ sẽ mặc áo trắng. Và họ được phép nghe đọc đến tên riêng của họ - Đấng Christ tuyên xưng họ trước mặt Chúa Cha và các thiên thần.

6).“Kẻ đắc thắng, Ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ Đức Chúa Trời Ta, và người không còn ra khỏi đó nữa; Ta cũng sẽ lấy danh Đức Chúa Trời Ta, và danh của thành Đức Chúa Trời Ta, là Giê-ru-sa-lem mới ở trên trời, từ Đức Chúa Trời Ta mà xuống, cùng danh mới của Ta, mà viết trên người” (Khải. 3:12).

Phi-la-đen-phi:-- Một điều gì đó sẽ xảy ra một lần nữa với những kẻ chinh phục, nhưng họ không “chỉ” mặc áo dài, mà chính họ được làm thành một cột trụ của đền thánh vĩnh cửu. Tên của người ấy được biết đến trước mặt Đức Chúa Trời (như trường hợp ở Sạt-đe) là lớn lao rồi, nhưng được mang tên của Đức Chúa Trời, v.v. thậm chí còn vinh dự hơn nữa.

7). “Kẻ đắc thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai Ta, như Ta đã đắc thắng và ngồi với Cha Ta trên ngai của Ngài” (Khải. 3: 21)

Lao-đi-xê: --Những người đắc thắng sẽ được phép ngồi trên ngai vàng của mình chung với Chúa. Đó không phải là sự công nhận và vinh dự lớn nhất của công chúng đối người người chiến