Thứ Sáu, 17 tháng 12, 2021

CHÚA ƠI, NẾU PHẢI LÀ NGÀI?-

Phi-e-rơ thưa rằng: “Lạy Chúa, nếu phải là Chúa, xin khiến con đi trên mặt nước đến với Chúa" (Math. 14: 28)

Có nhiều lời dạy dỗ trong lời thỉnh cầu này của Phi-e-rơ trong những lúc có sóng gió trong cuộc đời chúng ta.
"Lạy Chúa, nếu phải là Chúa ..." - Lạy Chúa, xin giúp con nhìn thấy Ngài trong hoàn cảnh và trong những gì phía hoàn cảnh. Nếu chính Ngài là người khiến tình hình trở nên như vậy, thì điều đó chỉ có thể là vì lợi ích của con.
"... vậy hãy (khiến) ra lệnh cho con ..." - Chỉ cho con thấy nơi nào vẫn còn là sự bướng bỉnh và sự bất tuân trong cuộc sống của con và giúp con hoàn toàn phục tùng ý muốn của Chúa.
Xin Chúa phán: "... hãy lại đây ..." - Hãy để tình trạng khó khăn mà con thấy mình phải sống trong đó để phục vụ đưa con đến gần với Ngài hơn.
"... Trên mặt nước" - Cộng đồng của Chúa có thể mang lại cho con sự bình yên và yên tĩnh, ngay cả khi tình hình của con không thay đổi chút nào. Con muốn tin cậy vào Ngài ở giữa những con sóng gió và để Ngài nâng con lên trên những hoàn cảnh mà con có thể sẽ chìm xuống nếu không có Chúa, Chúa ơi.
-
So Sánh Việc Cho 5.000 Và 4.000 Người Ăn Bánh-
Ma-thi-ơ 14: 13-21; Ma-thi-ơ 15: 32-39
Câu trên nói việc cho 5.000 người ăn, và câu dưới nói việc cho ăn 4.000 người ăn- Có 7 cặp so sánh như sau:
1A. Lòng từ bi của Chúa đánh thức khi thấy dân chúng đông vầy không người chăn dắt. Ngài dạy họ và chữa lành bệnh tật cho họ. Câu hỏi về nguồn cung cấp thực phẩm phát sinh vào cuối ngày.
-1B.Lòng từ bi của Chúa đánh thức sau khi phục vụ và chữa bệnh trong 3 ngày và nhìn thấy sự mệt mỏi và đói khát của đám đông.
-
2A. Các môn đệ chủ động đề nghị Chúa giải tán đám đông vì đã gần tối rồi.
-2B.Chúa thu hút sự chú ý của các môn đồ đến tình trạng của dân chúng và khoảng cách đường xa vời mà một số người khi còn đi về nhà của họ.
-
3A. Chúa yêu cầu các môn đồ cung cấp thức ăn cho đám đông, nhưng họ từ chối vì tốn kém và khó mua.
3B.Các môn đồ không tỏ lòng từ bi và đề cập đến những khó khăn của họ liên quan đến việc mua thức ăn trong sa mạc.
-
4A- Có 5 cái bánh lúa mạch và 2 con cá được mang đến cho Chúa. 4B-- Có 7 cái bánh và một vài con cá nhỏ được mang đến cho Chúa-
-
5A. Đám đông là 5.000 đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. 5B-Dân số là 4.000 nam giới, không kể phụ nữ và trẻ em.'
-
6A- Sau khi cho ăn, 12 giỏ tay chứa đầy bánh lúa mạch vụn được thu thập. Sau bữa ăn, 7 giỏ lớn chứa đầy vụn bánh mì vụn được thu thập.
-
7A- Sau khi hóa bánh Chúa sai các môn đồ đi băng qua hồ. 7B- Sau khi hóa bánh Chúa băng qua hồ với các môn đệ.

VẬN CHUYỂN KHÔNG ĐÚNG HÀNH TRÌNH-


Ma-thi-ơ 14:24, "Lúc bấy giờ, thuyền đã ra giữa biển, bị sóng vỗ mạnh vì gió ngược"
Du thuyền đang trên đường đến Alaska, Hoa kỳ. Thuyền trưởng báo rằng một cơn bão đang chờ đợi con tàu. Khi con tàu đang lắc lư mạnh, hành khách liền gửi một lời khiếu nại đến thuyền trưởng. “Tại sao anh lại lái con tàu vào cơn bão? Có thể anh đã không chờ đợi? ”Câu trả lời là:“ Bình tĩnh, con tàu này đã được đóng với chủ tâm là chịu đựng nổi bão.tố”
Bạn đã gặp phải một cơn bão? Một lần bị đưa lên và một lần bị nhận xuống? Con tàu cuộc đời của bạn có đang trên đà lắc lư không? Sau đó, hãy nhớ rằng: con tàu này đã được xây dựng với chủ tâm chịu đựng bão tố. Bạn không thể thất bại. Giữ bình tĩnh. Mọi thứ đều nằm trong bàn tay hoa tiêu tốt lành và mạnh mẽ của Chúa. Ngài biết trước những gì đang đợi bạn trên hành trình của bạn.

-
Sao Con Lại Nghi Ngờ?
Ma-thi-ơ 14: 28-33, "Tức thì, Đức Chúa Jêsus đưa tay nắm lấy Phi-e-rơ và nói rằng: “Con thật ít đức tin, sao con lại nghi ngờ?”
Trong hoàn cảnh này, chúng ta thấy đức tin của Phiero thể hiện: “Lạy Chúa, nếu là Chúa, xin truyền lệnh cho con đến với Chúa trên mặt nước” (Math. 14,28). Và Phi-e-rơ thực sự ra khỏi thuyền theo lời đơn giản của Chúa. Quyết định của Phiero không thể không hợp lý hơn. Bởi vì dù biển lặng hay có sóng gió thì một người cũng không thể đi trên mặt nước. Nhưng ông đã nghe lời Chúa. Nếu người đứng trên mặt nước nói "Hãy đến", thì người kia cũng phải đi đứng như vậy được. “Với con người thì điều này là không thể, nhưng với Đức Chúa Trời thì mọi sự đều có thể. "(Math 19:26)
Điều đó sẽ mang lại cho chúng ta sự an toàn và bình yên tuyệt vời: Đối với chúng ta, các nhiệm vụ có thể quá lớn hoặc các vấn đề quá khó khăn. Nhưng Chúa của chúng ta kêu gọi chúng ta và theo lời của Người, mọi thứ phải xảy ra như Người đã nói. Chẳng phải Ngài, Đấng Tạo Hóa và là Đấng Nâng Đở vạn vật, là Người giao cho chúng ta một nhiệm vụ hoặc chỉ cho chúng ta một con đường nhất định và kêu gọi chúng ta: “Hãy mạnh mẽ và can đảm” (Giô-suê 1: 6) và “Đừng sợ, Ta ở cùng con! “(Theo Ê-sai 43: 1,2)? Người đã có mọi thẩm quyền trên trời cũng như dưới đất (Math 28:18)?
Khi còn ở trên thuyền, Phi-e-rơ đã có đủ can đảm để tin tưởng thực hiện bước đi này của đức tin. Nhưng một lúc sau, anh ta nhìn vào gió và sóng và bắt đầu chìm. Rồi dũng khí tin tưởng của anh ở đâu? Chúng ta không thường xuyên cảm thấy mình như vậy sao? Vừa rồi chúng ta đã thể hiện sự can đảm để tin tưởng và đã đặt một bước tin tưởng vào lời phán “Hãy đến” của Chúa và bây giờ tất cả niềm tin và sự can đảm đều mất. Trong quá khứ, chúng ta thường xuyên phải bị Chúa đặt câu hỏi: “Tại sao con lại nghi ngờ? “Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra can đảm từ tình huống chung với Phiero:
1. “Tuy nhiên, ngay lập tức, Chúa Giêsu đã đưa tay ra và nắm lấy anh ta” (câu 31). Chúa đứng rất gần ông, gần đến nỗi Ngài có thể “ngay lập tức” ( tức thì ) nắm lấy tay ông (Thi 145:18).
2. Chúa nắm lấy tay Phi-e-rơ, chứ không phải ngược lại. Ngay cả khi chúng ta không còn khả năng làm điều này nữa, bị hoàn cảnh choáng ngợp, thì Ngài vẫn ban cho sức mạnh cần thiết mà chúng ta không có.. Chúa ta không đủ sưc nắm lấp Chúa bao giờ.
3. Phiero bắt đầu chìm, nhưng anh ấy không chìm. Đức Chúa Trời sẽ không để chúng ta bị cám dỗ vượt quá khả năng của chúng ta và sẽ tạo ra một lối thoát để chúng ta có thể chịu đựng chúng (1 Cor. 10:13).

Ai Cập - Mích-ra-im và Cham -

Thánh vịnh 36:10; Giăng 8:1

Tên được sử dụng trong Cựu ước cho đất nước Ai Cập là Mích-ra-im (xem Sáng thế ký 50:11). Theo Sáng thế ký 10: 6, Mích-ra-im là con trai của Cham. Đó là lý do tại sao Ai Cập còn được gọi là xứ Cham trong Thi thiên 105: 23.
Mích-ra-im có nghĩa là "sọc đôi". Điều này chỉ ra rằng vùng đất của Ai Cập bằng hai dải đất hẹp ở hai bên sông Nile. Được bao quanh bởi sa mạc, Ai Cập có được sự tồn tại là nhờ dòng sông này. Theo nghĩa bóng, chúng ta có thể thấy trong đó thế giới được định tính chất bởi sự chết. Nếu Đấng Nâng Đỡ của mọi người rút đi dòng nhân từ của Ngài trong chốc lát, thì "tất cả xác thịt sẽ hư mất toàn bộ, và loài người sẽ trở về cát bụi" (Gióp 34:15). Người ta cũng có thể nói: thế giới được định tính chất bởi sự vắng mặt của sự sống.
Cham có nghĩa là "đen" hoặc "cháy nắng". Theo nghĩa bóng, chúng ta có thể thấy bóng tối của thế giới trong đó. Nó cho thấy chính nó trong sự thiếu hiểu biết về Đức Chúa Trời và về tình trạng của chính mình. Người ta cũng có thể nói: thế giới được định tính chất bởi sự vắng mặt của ánh sáng.
Bất cứ ai tìm kiếm sự sống đích thực và ánh sáng đích thực sẽ không bao giờ tìm kiếm bất cứ điều gì trên thế giới. Nhưng Kinh Thánh nói về Đức Chúa Trời: “Vì Ngài là nguồn sự sống, trong sự soi sáng của Ngài, chúng tôi sẽ thấy sự sáng” (Thi 36:10). Và Chúa Jêsus nói về chính mình: “Ta là sự sáng thế giới; ai theo Ta, sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống ”(Giăng 8,12).
Hai tai vạ cuối cùng ở Ai Cập cho thấy bóng tối và sự chết là dấu ấn những ngôi nhà của người Ai Cập. Và ánh sáng và sự sống đã đánh dấu những ngôi nhà nơi con cừu bị giết thịt được biết đến.
 
 
 

 
 

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

Không Có Gì Mới Cả - Mọi Thứ Đều Mới

Truyền đạo 1: 9:10, "Điều chi đã có, ấy là điều sẽ có; điều gì đã làm, ấy là điều sẽ làm nữa; chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời. Nếu có một vật chi mà người ta nói rằng: Hãy xem, cái nầy mới, vật ấy thật đã có rồi trong các thời đời trước ta"

Khải Huyền 21: 1,5, Đoạn, tôi đã thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã qua rồi, biển cũng không còn nữa--Đấng ngự trên ngai phán rằng: “Nầy, ta làm mới lại mọi sự,”
Máy nghe nhạc MP3, thiết bị định vị, đầu đĩa DVD - chúng ta sử dụng nhiều thứ mà cách đây vài năm chúng ta hoàn toàn không biết đến. Và một cái gì đó mới luôn xuất hiện trên thị trường.
Nhưng “nhà truyền đạo” viết: Không có gì mới dưới ánh mặt trời. Nếu có một điều về cái mà người ta nói, 'Kìa, cái này mới!' Nó đã có từ lâu trong thời đại trước chúng ta (Truyền đạo 1: 9:10).
Có phải chúng ta đã không có rất nhiều "điều mới" trong tay hay sao? Làm sao Sa-lô-môn thông minh có thể nói rằng không có gì mới? Tất nhiên, Sa-lô-môn không nói về thành tựu kỹ thuật, mà là nói về các nguyên tắc đạo đức đằng sau mọi thứ.
Con người không thay đổi trong nhiều thiên niên kỷ. Anh ấy suy nghĩ, làm việc và phát minh. Không có gì con là bí mật khi anh thường bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi phương trình hành động của mình (xem Sáng thế ký 4: 17-26). Vì vậy, nếu bạn có một cái gì đó mới về mặt kỹ thuật, nhưng nó không có gì mới về mặt đạo đức: Mọi người chỉ muốn làm cho cuộc sống dễ chịu hơn và tươi đẹp hơn.
Trong nhiều thiên niên kỷ, mọi thứ về cơ bản vẫn giống nhau: Đức Chúa Trời giống nhau về sự thánh thiện và ân điển, ma quỷ giống nhau về sự gian ác và con người chúng ta cũng không thay đổi. Đó là lý do tại sao có vẻ đó là đường lối, phương pháp như có trên trái đất này.
Nhưng một ngày nào đó, mọi thứ thuộc về ma quỷ và mọi thứ thuộc về con người tội lỗi sẽ biến mất. Đức Chúa TRời làm cho mọi thứ trở nên mới mẻ (Khải 21:1.5)! Khi đó mọi thứ sẽ thay đổi sâu sắc. Mọi sự đó vì hạnh phúc vĩnh cửu của người được cứu chuộc!

BẢY MƯƠI TUẦN LỄ-

 Hôm nay chúng tôi muốn đề cập đến câu hỏi: Điều gì sẽ đến với nhân loại? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong Kinh Thánh, vì Kinh Thánh là lời của Đức Chúa Trời.

Có lẽ một số người chờ đợi để biết ngày nào là tận thế. Tuy nhiên, một ngày như vậy chúng ta không thể tính được, vì Kinh Thánh nói rằng chúng ta không thể biết Đấng Christ trở lại vào ngày nào và giờ nào (Ma-thi-ơ 24:36). Nhưng nó không có nghĩa là chúng ta không biết điều gì sẽ đến với chúng ta. Tuy không biết ngày và giờ, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết một số dấu hiệu để nhận biết thời đại này sẽ kết thúc khi nào và ra sao, cũng như khi nào Đấng Christ đến trái đất này lần thứ hai. Hôm nay chúng ta sẽ xem xét kỹ những dấu hiệu này.
Lần đến đầu tiên của Đấng Christ
"Đấng Christ" trong tiếng Do Thái (Hebrew) có nghĩa là Đấng Mê-si. Qua nhiều chỗ trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã hứa rằng Đấng này sẽ đến.Trước khi xem xét các điều tiên tri về lần đến thứ hai của Đấng Christ, chúng ta phải thấy rõ rằng tất cả những điều tiên tri về lần đến đầu tiên của Ngài đã được ứng nghiệm hoàn toàn. Việc Đấng Christ đến trái đất này cách đây khoảng 2000 năm đã được báo trước. Từ rất lâu trước khi Ngài đến, Kinh Thánh đã bày tỏ vô số những lời tiên tri mà Chúa Giê-su Christ phải thực hiện trọn vẹn. Xin nêu vài ví dụ ở dưới đây:
Trong sách tiên tri Đa-ni-ên (khoảng năm 600 trước CN), Kinh Thánh đã cho biết cụ thể về thời gian mà Đấng Christ đến lần đầu tiên. Đấng Christ đã tuân thủ chính xác thời gian này. Trong phần sau chúng ta sẽ xem xét điều này kỹ hơn.
Vào khoảng năm 700 trước CN, tiên tri Mi-chê đã cho biết Đấng Christ được sinh ra ở đâu, cụ thể là ở Bết-lê-hem. Lời tiên tri này cũng đã được ứng nghiệm.
Kinh Thánh có bao gồm nhiều chi tiết về gia phả của Đấng Christ. Nhiều thế kỷ trước khi Ngài sinh ra, Kinh Thánh đã cho biết trước ai sẽ là mẹ, là bà ngoại, bà cố,... của Chúa Giê-su. Tất cả đều đã xảy ra một cách chính xác.
Nhiều người biết chuyện Giu-đa phản bội Chúa Giê-su trước khi Ngài chịu đóng đinh. Nhưng vào khoảng năm 700 trước CN, Xa-cha-ri không những cho biết rằng Chúa Giê-su sẽ bị Giu-đa phản mà còn cho biết trước số tiền mà Giu-đa nhận để phản Đấng Christ là 30 nén bạc. Chi tiết này cũng đã được ứng nghiệm chính xác.
Kinh Thánh cũng có vô số chi tiết về việc Đấng Christ chịu chết trên thập tự giá. Khoảng 1000 năm trước CN, vua Đa-vít đã nói tiên tri rằng Đấng Christ sẽ chết như thế nào. Thậm chí ông còn nhắc đến chuyện áo quần của Đấng Christ lúc Ngài bị đóng đinh sẽ ra sao. Điều tiên tri này cũng đã được ứng nghiệm chính xác.
Nhiều tiên tri lớn đã làm chứng về việc Đấng Christ phục sinh từ những kẻ chết. Tiên tri Giô-na còn cho biết rằng Đấng Christ sẽ sống lại vào ngày thứ ba. Điều này đã xảy ra và đã được nhiều người xác nhận.
Như vậy, chúng ta thấy Đấng Christ đã làm ứng nghiệm hoàn toàn mọi điều tiên tri về lần đến đầu tiên của Ngài. Không có điều nào mà không xảy ra. Cũng như Ngài đã thực hiện chính xác mọi lời tiên tri này, Ngài cũng sẽ làm ứng nghiệm chính xác mọi lời tiên tri
về lần đến thứ hai. Những gì đã được mô tả trong Kinh Thánh sẽ phải xảy ra. Bây giờ chúng ta xem xét vài điều tiên tri kỹ hơn.
Nước Israel
"Nhưng hãy học bài học từ cây vả: Khi cành trở nên mềm, ra lá thì các ngươi biết mùa hè sắp đến. Cũng vậy, khi các ngươi thấy tất cả những điều nầy thì biết rằng nó đã đến gần, đang ở ngay trước cửa" (Ma-thi-ơ 24:32-33).
Ở đây, Chúa Giê-su nói đến tận thế đã gần đến, đang ở trước cửa. Ngài dùng hình ảnh cây vả. Trong Kinh Thánh, cây vả là hình ảnh ám chỉ nước Israel. Nhiều tiên tri như Ô-suê, Ê-sai, Giê-rê-mi đã dùng hình ảnh này để nói tiên tri về nước Israel. Như vậy trong đoạn trên, Chúa Giê-su cũng nói đến nước Israel: Khi cành của cây vả thức dậy sau khi ngủ đông (cành trở nên mềm) thì mùa hè sắp đến. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su ám chỉ điều gì? Ngài nói đến sự thay đổi nào? Vào năm 70 sau CN, Jerusalem bị quân của tướng La Mã là Titus phá hủy hoàn toàn, đến nỗi từ lúc đó trở đi nước Israel bị xóa sổ khỏi bản đồ thế giới. Hơn 1800 năm đã không có nước Israel nào trên trái đất. Chỉ vào năm 1948, quốc gia Israel mới được thành lập trở lại. Cây vả đã thức dậy sau khi ngủ đông và mọc lá mới. Như vậy chúng ta biết từ năm 1948, tận thế đã ở trước cửa. Nhưng Kinh Thánh cũng cho chúng ta các dấu hiệu khác để chúng ta biết mình đang ở thời gian nào và để chúng ta có thể chuẩn bị.
Jerusalem
Qua dụ ngôn về cây vả, Chúa Giê-su nói đến toàn bộ quốc gia Israel. Trong chương 21 của sách Phúc Âm Lu-ca, Ngài nói cụ thể hơn: Ở đây Ngài nói đến Jerusalem, thủ đô của nước Israel. Ngài nói: "... và Jerusalem sẽ bị giẫm đạp bởi dân ngoại, cho đến khi các thời kỳ của các dân ngoại được trọn" (Lu-ca 21:24). Có một thời kỳ mà Jerusalem đã bị giẫm đạp (bị thống trị) bởi các dân tộc khác. Trong khoảng thời gian đó, không phải người Do Thái mà các dân ngoại đã thống trị ở Jerusalem. Đầu tiên là dân La Mã, rồi đến các dân tộc khác. Sau khi quốc gia Israel được thành lập vào năm 1948, thì Đông Jerusalem vẫn còn bị "dân ngoại" kiểm soát, cụ thể là người Ả Rập. Chúa Giê-su gọi toàn bộ thời gian này là các thời kỳ của các dân ngoại. Các thời kỳ này kết thúc khi Jerusalem nằm ở dưới quyền của Israel. Điều này đã xảy ra vào năm 1967 trong Cuộc chiến tranh 6 ngày, khi Israel chinh phục được Đông Jerusalem về lại cho mình. Từ năm 1967, dân ngoại không còn quản lý Jerusalem nữa, như vậy các thời kỳ của các dân ngoại đã kết thúc. Lu-ca 21:24 đã được ứng nghiệm vào năm 1967. Tuy nhiên, Kinh Thánh còn cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết nữa.
Núi Đền
Núi Đền nằm ở Đông Jerusalem, hiện nay bị người Palestine kiểm soát. Người ta chỉ được tham quan núi này dưới sự giám sát chặt chẽ của họ. Chỉ có phần tây của Núi Đền, Bức tường Than Khóc, mới ở duới sự quản lý của người Israel. Tại sao Núi Đền lại quan trọng như thế? Thứ nhất, ở trên núi này, vua Sa-lô-môn đã xây ngôi đền đầu tiên cho Đức Chúa Trời vào khoảng năm 1000 trước CN. Thứ hai, đền thờ ở trên Núi Đền là nơi duy nhất mà Đức Chúa Trời đã chọn, để người Do Thái thờ Ngài và dâng của lễ. Khi người Do Thái ở thời Cựu Ước muốn dâng của lễ, họ phải đến Núi Đền và mang của lễ vào đền thờ. Họ không được phép dâng của lễ ở nơi khác. Người Do Thái phải thờ phượng ở đó ba lần trong năm. Vì lý do này mà cho đến ngày nay, Núi Đền vẫn là thánh địa có ý nghĩa quan trọng nhất của người Do Thái.
Nhưng Núi Đền không chỉ quan trọng đối với Do Thái Giáo, mà còn quan trọng đối với Hồi Giáo, tôn giáo của người Ả Rập. Đối với Hồi Giáo, Núi Đền là thánh địa quan trọng thứ ba, chỉ sau Mecca và Medina. Do đó hình thành mâu thuẫn chính của khu vực Trung Đông: Cả người Do Thái lẫn người Ả Rập đều muốn giành Đông Jerusalem cho mình trong Giải pháp hai nhà nước. Một bài viết trong ngày 30/09/2013 của báo điện tử IsraelHeute.com cho biết rằng "Người Palestine muốn tách phần đông của thủ đô, bao gồm phố cổ, Núi Đền và Bức tường Than Khóc để làm thủ đô của họ. Nhưng đa số người Israel đã phản đối điều này". Ở đây có thể thấy rõ trọng tâm của mâu thuẫn: người Do Thái lẫn người Ả Rập đều muốn giành Núi Đền cho mình. Vì thế, hòa bình thực sự ở Trung Đông chỉ đạt được khi mâu thuẫn này được giải quyết.
70 tuần lễ trong sách tiên tri Đa-ni-ên
Sách Đa-ni-ên của Kinh Thánh có một lời tiên tri quan trọng nói chính xác về mâu thuẫn này. Trong Ma-thi-ơ 24, chính Chúa Giê-su đã nhắc đến lời tiên tri đó khi Chúa nói rất tỉ mỉ về lần đến thứ hai của Đấng Mê-si. Ngài phán: "Khi các ngươi thấy điều gớm ghiếc hoang tàn ở Nơi Thánh, như lời tiên tri Đa-ni-ên đã nói (ai đọc phải hiểu)" (Ma-thi-ơ 24:15). Ở đây, Chúa Giê-su nhắc đến chương 9 của sách Đa-ni-ên, là chương mô tả về lần đến thứ nhất và thứ hai của Đấng Mê-si. Để hiểu rõ hơn về lần đến thứ hai của Ngài, chúng ta phải đọc lời tiên tri của Đa-ni-ên, như chính Chúa Giê-su đã phán:
"Có 70 tuần lễ định trên dân ngươi và thành thánh ngươi [...] Vậy ngươi hãy biết và hiểu rằng từ khi ra lệnh khôi phục và xây lại Jersusalem, cho đến Đấng chịu xức dầu, tức là vua, thì được 7 tuần lễ và 62 tuần lễ; thành đó sẽ được xây lại, có đường phố và chiến hào, ngay trong thời kỳ khó khăn. Sau 62 tuần lễ đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi, và Ngài sẽ không có gì cả. Dân của một vị thủ lãnh sắp đến sẽ hủy phá thành và nơi thánh; sự cuối cùng sẽ đến như nước lụt; cho đến cuối cùng là chiến tranh, và cảnh hoang tàn đã được ấn định" (Đa-ni-ên 9:24-26).
Để hiểu đúng đoạn này, chúng ta phải hiểu cách tính thời gian của tiên tri Đa-ni-ên. Khi Đa-ni-ên dùng từ "tuần lễ", ông không nói đến một tuần lễ với bảy ngày. mà ông nói đến "tuần lễ của năm". Một tuần lễ của năm gồm có 7 năm. Như vậy 70 tuần lễ đã được ấn định cho dân Israel có nghĩa là 70 x 7 = 490 năm.
Ngoài ra, Đa-ni-ên không dùng năm theo dương lịch, mà dùng "năm tiên tri". Một năm tiên tri có chính xác 360 ngày. Chính Kinh Thánh đã cho chúng ta biết điều này qua Đa-ni-ên 7:25, Khải Huyền 11:3, 12:6. Vì thế chúng ta có thể vẽ được trục thời gian như hình sau.
Hình 1: Trục thời gian theo Đa-ni-ên 9:24-27
Điểm bắt đầu của trục thời gian này là khi vua Ba Tư Át-ta-xét-xe ra sắc lệnh xây dựng lại Jerusalem vào ngày 05/03/444 trước CN, vì Jerusalem đã bị phá hủy hoàn toàn. Sau đó, bắt đầu 7 tuần lễ và 62 tuần lễ: bảy tuần lễ 😊 49 năm) để xây dựng xong Jerusalem, và 62 tuần sau đó 😊 434 năm), Đấng được xức dầu đến, Ngài cũng là vua. Đấng được xức dầu này là Giê-su Christ (Ma-thi-ơ 16:16). Từ sắc lệnh xây dựng lại Jerusalem của Át-ta-xét-xe cho đến lúc Giê-su Christ vào thành Jerusalem (Xa-cha-ri 9:9; Ma-thi-ơ 21:9) vào ngày 30/3/33 sau CN chính xác là 483 năm (năm tiên tri). Giê-su Christ đã giữ đúng thời gian biểu này chính xác, thật ấn tượng.
Đa-ni-ên đã cho chúng ta biết rằng sau 62 tuần, Đấng chịu xức dầu sẽ bị trừ đi. Điều này cũng đã được ứng nghiệm hoàn toàn, vì sau khi lên Jerusalem sáu ngày, Ngài đã chịu đóng đinh và chết trên thập tự giá.
Sau đó, Đa-ni-ên cho biết dân của một thủ lĩnh sẽ phá hủy thành Jerusalem hoàn toàn. Thủ lĩnh trong lời tiên tri này là tướng La Mã Titus. Cùng với quân đội của mình, hắn đã phá hủy và san bằng thành Jerusalem vào năm 70 sau CN.
7 năm cuối cùng
Rồi Đa-ni-ên viết tiếp trong câu 27: "Và bởi quyền lực, hắn sẽ lập một hiệp ước với nhiều người trong một tuần lễ. Và vào giữa tuần ấy, hắn sẽ hủy bỏ của lễ thiêu và của lễ thức ăn. Trong nơi thánh, sự gớm ghiếc hoang tàn được dựng lên, cho đến khi sự hủy diệt cuối cùng đã được ấn định giáng trên kẻ gây nên cảnh hoang tàn".
Giữa hai câu 26 và 27 là một bước nhảy vượt thời gian, vì thời kỳ của Tân Ước đã bị giấu kín đối với những tiên tri trong thời Cựu Ước (xem Ê-phê-sô 3:5). Câu 27 bắt đầu với một hiệp ước, hiệp ước này sẽ kéo dài trong một tuần lễ. Tuần lễ này (=7 năm) là tuần lễ cuối cùng, tuần lễ thứ 70 của lời tiên tri. Thế ngày nay chúng ta đang thời gian nào? Trục thời gian trong hình 1 cho thấy chúng ta đang ở gần tuần lễ cuối này. Khi nào tuần lễ này bắt đầu thì chúng tôi không thể nói được. Nhưng những dấu hiệu của thời đại và sự phát triển của chính trị thế giới ngày nay cho chúng ta biết rằng nó sẽ không còn kéo dài lâu nữa.
Đa-ni-ên 9:27 nói đến một hiệp ước được lập vào lúc bắt đầu bảy năm cuối. Những người tham gia hiệp ước ở đây là "nhiều người", cụ thể là người Do Thái và dân ngoại (người Ả Rập). Đa-ni-ên cho biết thời hạn của hiệp ước này là một tuần. Có nghĩa là sẽ có một hiệp ước kéo dài bảy năm giữa người Do Thái và người Ả Rập. Tại sao lại cần một hiệp ước như vậy? Trong các đoạn trước, chúng ta đã thấy rằng giữa người Do Thái và người Ả Rập có một mâu thuẫn lớn, đó là tương lai của Núi Đền. Vì vấn đề này ngày nay chưa được giải quyết nên cả khu vực Trung Đông có nhiều bạo động và chiến tranh. Những bạo động này sẽ có hồi kết: một ngày kia, một hiệp ước có thời hạn bảy năm sẽ được ký kết giữa người Do Thái và người Ả Rập. Hiệp ước này cho phép người Do Thái thờ phượng Đức Chúa Trời bằng cách dâng của lễ trên Núi Đền ở Jersusalem. Ngày nay, người Do Thái bị cấm thờ phượng như vậy ở trên Núi Đền, vì núi này đang bị người Palestine kiểm soát.
Đa-ni-ên nói tiếp: "Và vào giữa tuần ấy, hắn sẽ hủy bỏ của lễ thiêu và của lễ thức ăn". Như vậy, hiệp ước hòa bình sẽ bị hủy bỏ vào giữa thời hạn: 3,5 năm từ khi ký hiệp định sẽ có một người sẽ hủy bỏ việc thờ phượng và dâng của lễ của người Do Thái trên Núi Đền ở Jerusalem. Hiệp ước hòa bình sẽ được chia làm hai phần, mỗi phần kéo dài 3,5 năm. Hiệp ước hòa bình sẽ được ký với thời hạn bảy năm và sau 3,5 năm lại bị hủy bỏ. Sau đó, thời kỳ mà Kinh Thánh gọi là "Cơn đại nạn" (xem Ma-thi-ơ 24:21) sẽ bắt đầu. Cơn đại nạn sẽ đến trên toàn trái đất và sẽ kéo dài 3,5 năm. Chúng ta có thể tóm tắt các sự kiện ở trong hình 2. Vào năm 1948, nước Israel được thành lập. Vào năm 1967, Israel giành lại quyền làm chủ Jerusalem. Điều còn thiếu chính là sự thỏa hiệp giữa người Do Thái và người Ả Rập về Núi Đền. Theo Đa-ni-ên 9:27, hiệp ước hòa bình này phải thỏa hai điều kiện sau:
Cho phép người Do Thái dâng của lễ trên Núi Đền tại Jersusalem.
Có thời hạn 7 năm.
Vào giữa tuần lễ, nghĩa là sau 3,5 năm, hiệp ước này sẽ bị hủy bỏ và việc dâng của lễ của người Do Thái trên Núi Đền sẽ bị chấm dứt. Sau đó, cơn hoạn nạn lớn nhất mọi thời đại sẽ xảy ra trên trái đất. Sách Khải Huyền, sách cuối cùng của Kinh Thánh, mô tả chi tiết những gì sẽ xảy ra trong cơn đại nạn này (chương 9 và 16). Chúa Giê-su cho chúng ta biết rằng trong quá khứ lẫn trong tương lai của nhân loại cũng chưa từng có thời gian tồi tệ như vậy (Ma-thi-ơ 24:21).
Hình 2: Bảy năm cuối cùng
Vào cuối tuần lễ thứ 70, nghĩa là sau cơn đại nạn, Giê-su Christ sẽ trở lại trái đất này. Vào lúc đó, mọi mắt sẽ thấy Ngài và mọi người phải công nhận Ngài là Vua của các vua và là Chúa của các chúa.
Sự cất lên của người đắc thắng
Hôm nay chúng ta đang sống trong một thời kỳ cực kỳ nguy hiểm. Cả thế giới đang nỗ lực để có được hòa bình ở Trung Đông, hiệp ước hòa bình như vậy đang ở rất gần. Một điều chắc chắn là: Ngay khi hiệp ước hòa bình theo như Đa-ni-ên 9:27 được ký kết, thì bảy năm cuối cùng của thời đại này sẽ bắt đầu. Cuối bảy năm này, Giê-su Christ sẽ trở lại, mọi người có thể thấy được và Ngài sẽ là Vua trị vì trên toàn trái đất.
Tiên tri Xa-cha-ri đã nhắc đến sự trở lại của Đấng Christ: "Trong ngày đó, chân Ngài sẽ đứng trên núi Ô-liu, là núi đối diện Jerusalem về phía đông […] Bấy giờ CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi sẽ đến, tất cả các thánh sẽ ở với Ngài" (Xa-cha-ri 14:4-5). Vào cuối tuần lễ 70, Đấng Christ sẽ trở lại, đến trên núi Ô-liu ở phía đông Jerusalem. Tuy nhiên, ở đây Kinh Thánh không nói Giê-su Christ sẽ đến một mình, mà Xa-cha-ri cho biết rằng tất cả các thánh sẽ cùng trở lại với Ngài. Ai là các thánh này? Theo Lời Chúa, "các thánh" không phải là những người sau khi chết, vì lý do nào đó được "tôn thánh". Ở đây cũng không nói đến những người sùng đạo. Theo Kinh Thánh, các thánh là những người tín đồ chân thật và trung tín, những người quen biết Đức Chúa Trời hằng sống, biết ý muốn của Ngài, và làm theo. Kinh Thánh gọi những tín đồ như vậy là "người đắc thắng" (ví dụ Khải Huyền 2:7, 21:7).
Hình 3: Người đắc thắng được cất lên
Như vậy, nếu Giê-su Christ không đến một mình mà tất cả các thánh cùng đến với Ngài, thì câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để các thánh có thể đến với Đấng Christ. Ở đây, Lời Chúa bày tỏ cho chúng ta biết một phần thưởng đặc biệt, chỉ dành cho những tín đồ trung tín (người đắc thắng): Ngay trước cơn đại nạn, những người đắc thắng sẽ được cất lên đến trước Đức Chúa Trời. Qua đó, họ được giữ gìn khỏi sự kinh khiếp của cơn đại nạn và sẽ được thưởng thức một phần thưởng đặc biệt ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời (xem Khải Huyền 3:10). Trục thời gian trong hình 3 cho chúng ta thấy thời gian mà những người đắc thắng được cất lên và Đấng Christ trở lại. Sau 3,5 năm ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, những người đắc thắng sẽ trở lại cùng với Đấng Christ, và cùng với Đấng Christ thiết lập vương quốc trên trái đất này (vương quốc ngàn năm).
Không phải tất cả Cơ Đốc nhân sẽ được cất lên
Tuy nhiên, Kinh Thánh cho biết rằng không phải tất cả Cơ Đốc nhân sẽ được cất lên trước cơn đại nạn. Rất nhiều các tín đồ nghĩ rằng tất cả các Cơ Đốc nhân thật, những người thực sự được sinh lại, sẽ được dự phần vào sự cất lên. Nhận định này không đúng. Trái lại, Đức Chúa Trời chỉ lấy một phần nhỏ các Cơ Đốc nhân được sinh lại để mang đến Ngài. Chỉ những người đã chuẩn bị đúng thì mới được cất lên. Tất cả những Cơ Đốc nhân còn lại phải trải qua cơn đại nạn và gánh chịu cực hình của nó. Trong suốt cơn đại nạn, con rồng (Sa-tan) sẽ giao chiến với những người giữ điều răn của Đức Chúa Trời (người Do Thái) và "những người có lời chứng của Giê-su" (những Cơ Đốc nhân đã thực sự được sinh lại). Đa-ni-ên 7:25 cũng cho biết rằng Kẻ chống Đấng Christ sẽ thống trị trong cơn đại nạn và sẽ "làm hại các thánh của Đấng Tối Cao".
Kết luận
Điều gì sẽ đến với nhân loại? Điều gì sẽ đến với chúng ta cách cá nhân? Câu trả lời của câu hỏi này liên quan đến tình trạng của chúng ta hôm nay. Nếu chúng ta không tin Giê-su Christ và không ý thức tiếp nhận Ngài làm Đấng Cứu Rỗi của mình, chúng ta sẽ bị ném vào hồ lửa đời đời, bị xa cách mặt Đức Chúa Trời (Khải Huyền 20:15). Nếu chúng ta đã tin vào Con của Đức Chúa Trời, chúng ta phải đắc thắng, phải tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời và làm theo đó. Nếu không chúng ta dù là Cơ Đốc nhưng cũng phải gánh chịu sự kinh khiếp của cơn đại nạn cũng như sự trừng phạt của Đức Chúa Trời.Nếu chúng ta thuộc về những người đắc thắng, chúng ta phải cùng tiến lên với Đức Chúa Trời và nhận lãnh vương quốc Ngài nhiều hơn nữa. Nếu chúng ta trung tín đến cuối cùng, chúng ta sẽ nhận được một phần thưởng tuyệt vời, có một không hai của Ngài: Được cất lên đến núi Si-ôn thuộc trời và được bước vào vương quốc ngàn năm.
Những yêu cầu để vào vương quốc ngàn năm
Sự cứu rỗi đầu tiên của chúng ta là bởi ân điển chứ không phải bởi việc làm của chúng ta. Chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc tiếp nhận Chúa Giê-su nhờ đức tin của chúng ta. Tuy nhiên, sự cất lên và vương quốc ngàn năm thì khác hẳn: Kinh Thánh cho chúng ta thấy một số những yêu cầu mà chúng ta phải đáp ứng bằng cách cùng làm việc với ân điển. Sau đây là một số yêu cầu:
Làm theo ý muốn của Cha (Ma-thi-ơ 7:21-23; Lu-ca 6:46; Gia-cơ 1:22-25): Sau khi trở thành Cơ Đốc nhân, chúng ta muốn làm nhiều việc cho Đức Chúa Trời. Có lẽ chúng ta tích cực trong các công tác Cơ Đốc và truyền giảng, tham gia các hoạt động xã hội, hay hướng dẫn các buổi lễ thờ phượng. Chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ hài lòng, nhưng chúng ta không hỏi Ngài trước là ý muốn của Ngài là gì. Nếu chúng ta là những Cơ Đốc nhân như vậy, khi đứng trước tòa của Đấng Christ (2.Cô-rinh-tô 5:10), Ngài sẽ phán: "Ta chưa từng biết các ngươi; hãy lui ra khỏi Ta, hỡi kẻ làm điều vô luật pháp!" (Ma-thi-ơ 7:23).
Sống xứng đáng với vương quốc (1.Tê-sa-lô-ni-ca 2:12; 2.Phi-e-rơ 3:11-14): Đức Chúa Trời không chỉ quan tâm đến những việc chúng ta làm gì cho Ngài, mà Ngài còn xem cách sống của Cơ Đốc nhân chúng ta nữa. Đức Chúa Trời là thánh khiết, nên Ngài sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì ô uế hay không công bình trong chúng ta. Vì thế, chúng ta cần phải hướng cách sống của chúng ta theo chính Ngài và trở thành những người có "cuộc đời thánh khiết và sống theo bản tính Đức Chúa Trời" (2.Phi-e-rơ 3:11).
Sẵn sàng chịu khổ vì Đấng Christ và trải qua nhiều hoạn nạn (Rô-ma 8:17; 2.Ti-mô-thê 2:12; 1.Phi-e-rơ 4:13; Công Vụ. 14:22; Hê-bơ-rơ 10:32-35; Khải Huyền 2:10): Bản chất chúng ta là không dám chịu khổ. Nếu có đường tránh được đau khổ thì tất cả chúng ta đều chọn con đường này. Tuy nhiên nếu chúng ta hiến mình vì vương quốc Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ để ý rằng không thể vào vương quốc mà không có đau khổ. Nếu ai dự phần vào đau khổ của Đấng Christ vì vương quốc của Ngài, người đó sẽ vui mừng hân hoan khi Chúa trở lại!
Dùng sức mạnh để giành lấy vương quốc (Ma-thi-ơ 11:12): Kẻ thù của Đức Chúa Trời (Sa-tan) và mọi quyền và thế lực của hắn muốn ngăn chặn chúng ta bằng mọi giá để Cơ Đốc nhân chúng ta không thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời được. Do đó có một cuộc chiến: Xác thịt của chúng ta yếu đuối và bất lực, đời sống tâm hồn thì yêu thế giới và vô số điều làm chúng ta lạc hướng khỏi vương quốc. Vì thế, chúng ta phải quyết tâm dùng sức mạnh để giành lấy vương quốc về tay chúng ta!
Trở nên như những đứa trẻ (Ma-thi-ơ 18:3): Những đứa trẻ đơn giản, không phức tạp và khiêm nhường. Chúng không bị chồng chất những "gánh nặng cũ", hay tự hào như người lớn, là những người có nhiều lo lắng và suy tư. Chúng ta hảy bỏ mọi điều phức tạp và cũ kỹ, và hãy trở nên đơn sơ như những đứa trẻ.
Dùng vàng, bạc, đá quý để xây dựng Hội Thánh (1.Cô-rinh-tô 3:11-15): Đức Chúa Trời không muốn có nhiều Cơ Đốc nhân riêng lẻ, bị tản lạc khắp nơi, mà Ngài muốn xây dựng một Hội Thánh vinh hiển, không tì vết, thánh khiết, và không có khuyết điểm (Ê-phê-sô 5:27). Hội Thánh là cô dâu của Đấng Christ. Để chuẩn bị cho lễ cưới, cô dâu cần một chiếc váy cưới làm bằng vải gai mịn, trong trắng và tinh khiết. Ngày nay, chúng ta là Hội Thánh của Chúa cần chuẩn bị chiếc váy cưới này bằng những việc làm công bình của các thánh đồ (Khải Huyền 19:7-8; Ma-thi-ơ 22:11-14; Thi Thiên 45:13-14).
Là một người đắc thắng - đắc thắng sự sụp đổ của Cơ Đốc giáo (Khải Huyền 2:26-27; 3:4, 21; 21:7): Trong Khải Huyền 2 và 3, Đức Chúa Trời luôn kêu gọi "Người nào thắng...". Đáng tiếc là phần lớn dân của Đức Chhúa Trời không muốn thắng. Đa số Cơ Đốc nhân bị giam cầm ở Ba-by-lôn và không thể thắng được sự sụp đổ của nó. Vì thế Đức Chúa Trời yêu cầu dân Ngài rời khỏi Ba-by-lôn: "Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn!" (Khải Huyền 18:4).
Trung tín cho đến cuối cùng (2.Ti-mô-thê 4:7-8; Hê-bơ-rơ 10:36): Nhiều Cơ Đốc nhân có một khởi đầu tốt, có tình yêu nóng cháy cho Chúa. Nhưng theo thời gian, hoàn cảnh thay đổi. Họ gặp nhiều khó khăn, đau khổ, hay những lo lắng của cuộc sống. Lúc đó chúng ta vẫn trung tín hay chúng ta bỏ cuộc? Nếu chúng ta trung tín cho đến cuối cùng, vương miện của sự công bình đã dành sẵn cho chúng ta.
Chăm chỉ để đức tin trong chúng ta được phát triển (2.Phi-e-rơ 1:1-11; Hê-bơ-rơ 6:11-12): Đức Chúa Trời đã ban tặng cho tất cả tín đồ một đức tin quý giá như nhau. Nhưng sau khi đã nhận được đức tin này rồi, chúng ta phải tự hỏi mình xem đức tin trong chúng ta có lớn lên và phát triển không. Vì vậy, là Cơ Đốc nhân, chúng ta không được lười biếng, mà phải nuôi dưỡng đức tin mỗi ngày bằng sự sống của Chúa và bằng Thánh Linh. Chỉ như vậy, nhờ vào đức tin và sự kiên trì, chúng ta sẽ hưởng được lời hứa.
Giữ sự hiệp nhất thật (Ma-thi-ơ 12:25): Mặc dù Cơ Đốc nhân chúng ta có cùng sự sống của Đức Chúa Trời ở bên trong, nhưng chúng ta bị tản lạc trong vô số nhóm và hệ phái. Sự chia rẽ là một tội nghiêm trọng (Ga-la-ti 5:19-21). Vì thế chúng ta phải từ bỏ cái tôi của mình và giữ gìn sự hiệp một thật sự của Thánh Linh. Nếu chúng ta chấp nhận sự chia rẽ trong chúng ta, thì vương quốc Đức Chúa Trời không thể bền vững.
Giữ mình trong sạch và thánh khiết (1.Cô-rinh-tô 6:9-10; 15:50; Ga-la-ti 5:19-21): Nếu chúng ta sống theo xác thịt, chúng ta sẽ không thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời. Do đó chúng ta phải liên tục bỏ mọi sự ô uế và theo đuổi sự thánh khiết của Đức Chúa Trời (Hê-bơ-rơ 12:14).
Rèn luyện sự tự chủ (1.Cô-rinh-tô 9:24-27): Chúng ta không thể nào chiến đấu được nếu chúng ta không học để làm chủ bản thân. Ngay khi nhận ra xác thịt của mình nổi lên, muốn thống trị, chúng ta phải chống lại nó và lột bỏ nó liền. Qua đó, chúng ta cũng học cách để đối xử thân thể một cách nghiêm khắc để chúng ta không giảng cho người khác mà chính mình lại không đủ tiêu chuẩn để vào vương quốc.
Trưởng thành trong sự sống, trở thành trái đầu mùa (Ê-phê-sô 4:13-14; Hê-bơ-rơ 5:11-14; 6:1; Khải Huyền 14:1-5): Là Cơ Đốc nhân, chúng ta phải lớn lên trong sự sống thuộc linh. Nếu năm nay sang năm khác mà chúng ta vẫn như cũ, không có sự thay đổi, và không kinh nghiệm sự biến đổi thì chúng ta không được thừa hưởng vương quốc. Ngày nay chúng ta sống trong thời gian cuối cùng, ngay trước khi Đấng Christ trở lại. Nếu cho đến lúc đó, chúng ta không trưởng thành, chúng ta sẽ không được cất lên mà bị bỏ lại. Chúng ta hãy tận dụng thời gian còn lại để đạt đến sự trưởng thành trọn vẹn và trở thành trái đầu mùa, được cất lên núi Si-ôn thuộc trời!
Tobias Widmer
Bạc Sóng
5 người đã xem
Thích
Bình luận
Chia sẻ

ABRAHAM CÓ KỂ CHUYỆN CHO HAI CHÁU NỘI KHÔNG?


Sáng 21:5, “Vả, khi Y-sác ra đời, thì Áp-ra-ham đã được một trăm tuổi”
Sáng 25:26, “Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau; nên đặt tên là Gia-cốp Gia-cốp, chánh nghĩa là nắm gót; nhưng đời bấy giờ, tiếng nắm gót là thô-tục. Tiếng nghĩa bóng của Gia-cốp, nắm gót, là chiếm-vị bấy giờ vậy . Khi sanh hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi”.
Sáng 25:7, “Áp-ra-ham hưởng thọ được một trăm bảy mươi lăm tuổi;”.
So sánh mấy câu Kinh thánh trên đây chúng ta thấy khi ông nội là Abraham qua đời, thì con trai ông là Isaac được 75 tuổi, và hai cháu nội là Esau cùng Jacob đều được 15 tuổi.
Dù Kinh thánh không ghi chép ra, nhưng chúng ta tin rằng trong suốt 15 năm sống chung với hai cháu nội của mình, cụ tổ Abraham chắc chắn đã kể lại cho hai cháu các cuộc phiêu liêu, các thử thách mà cụ trải qua trong đời mình.
Solomon là nhà giáo dục có kinh nghiệm, ông khuyên chúng ta, “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó” (Châm 22:6).

Tóm Lược Niên Đại Học Sáng Thế Ký-

1. Hê-nóc:

Tên "Hê-nóc" có nghĩa "hiến dâng". Năm ông 65 tuổi sinh ra "Mê tu sê la". Mê-tu-sê la có nghĩa "Khi người nầy chết có một việc xảy ra".
Nhờ đồng đi với Chúa trong 300 năm, Hê-nóc có 2 lời tiên tri về hai lần tận thế:
--Ông Mê-tu-sê la sẽ chết vào năm nước lụt xảy ra. Nô ê chôn cất ông nội xong thì nước lụt xảy đến. Cụ Lê-méc, bố Nô ê, chết 5 năm trước khi nước lụt đến.
- Giu đe 1:14-15. Hê nóc đã nhìn vượt thời gian gần 6000 năm về sau và thấy ngày tận thế thứ hai là ngày Chúa Giê su tái lâm.
2. Nô ê:
Tên "Nô-ê" nghĩa là "an nghỉ". Ông nhận được sự khải thị đóng tàu dài 135 mét, khởi sự đóng tàu vào năm ông 480 tuổi (Sáng 6: 3). Ông là thầy giảng đạo sự công bình suốt 120 năm đó.- 2 Phiero 2: 5. Hai mưới năm sau, khi ông 500 tuổi, ông sanh ba con trai, Sem, Cham, Gia phết. Chúng nó phụ giúp ông trong công việc đại sự nầy trong suốt gần 120 năm. Ông bà nội, cha mẹ và 3 con trai, ba nàng dâu đã phụ giúp Nô-ê hoàn thành chiếc tàu cứu sanh- Heb 11: 7
Góc tối đời sống của Nô-ê. Sau nước lụt, Nô ê còn sống 350 năm nữa. Đến khi Ca-an-an con của Cham khôn lớn, có lẽ 20 hay 50 tuổi gì đó, hắn âm mưu cùng bố Cham, pha rượu độc cho ông nội mình uống, để ông lõa thể mà hạ bệ thẩm quyền làm Đầu nhân loại của Nô-ê- Habacuc 2:15 và Ô-sê 12: 8. Tên Ca na an có nghĩa "người buôn bán". Vì chữ "người buôn bán?" trong Ô sê 12:8 có nghĩa đen là "Ca-na-an".
Xem Sáng thế ký 9: 24-25 và 10: 6-12, thì Nim-rốt gọi Ca-na-an là chú ruột. Sau khi hạ bệ thẩm quyền của Nô-ê, Đầu của nhân loại mới xong, Cham và Ca-na-an giúp Nim rốt nắm quyền cai trị cả nhân loại thời đó. Vì Nim-rốt là thợ săn anh hùng thời kỳ đó, một con người kiệt xuất, lập ra vương quốc Ba-by-lôn đầu tiên và xây dựng tháp Ba-bên.
😚 A-đam, Nô-ê , Y sác sống nhàn hạ và hưởng thụ:
A-đam sống 308 năm với Hê-nóc. Trong khi Hê-nóc sinh động trong đời sống thuộc linh, đồng đi với Chúa, thì A đam sống 308 năm trong tình trạng mất tương ứng với Chúa.
Tháp Ba bên tan rả và phân chia loài người ra các thứ tiếng vào năm 101 sau nước lụt. Lúc đó Nô ê còn sống, nhưng sau vụ tai tiếng, lời nói của ông không còn ai nghe nữa, nên con cháu ông đã xây tháp Ba-bên chống đối và nổi loạn với Chúa. Nô ê sống 300 năm cuối đời để làm gì? Ôi trường thọ thêm 300 năm trong sự hư không!
Nghiên cứu niên đại học trong Sáng thế ký, anh em sẽ thấy sau khi con mình là Gia cốp ra đi về quê mẹ cưới vợ, Y sác còn sống 43 năm trong cuộc sống ham mê ăn món thích khẩu. Sau khoảng 22 năm xa cách, Gia cốp với 13 con trai và gái , là 13 đứa cháu nội của Y sác chung với bầy gia súc đông đảo đã về lại Hếp rôn và gặp lại cha mẹ. Người ta suy diễn là bà Rê be ca chết trước khi Gia cốp trở về, điều nầy không có bằng chứng.
Gia cốp phải ngã thịt để nuôi cha mẹ già và đại gia đình của mình trong khoảng 20 năm, nên trước khi xuống Ai cập, đàn gia sức còn lại rất ít. Y sác đã chứng kiến ngày đau thương của Gia cốp khóc lóc thảm thiết vì tưởng lầm con yêu dấu là Giô sép đã chết.
-4-Cuộc đời Áp-ra-ham.
Ông Mê-tu sê la đồng sống với A-đam 243 năm và với Sem 98 năm.Ông đã truyền cho đoàn hậu tấn. Nô ê sống chung với Áp ra ham 57 năm, còn Sem sống chung với Áp ra ham đến 207 năm.
Sáng 11: 26, 32 nói rằng Khi Tha rê dẫn Áp ra ham đi theo tiếng gọi của Chúa, Tha rê đã chết tại Cha ran. Vì Công vụ 7:2 nói Chúa vinh hiển hiện ra cùng Áp ra ham tại U rơ. Thế mà sau khi Tha rê chết, Áp ra ham vào xứ Ca na an thì Sáng 12: 4 nói Áp ra ham mới 75 tuổi. Còn theo Sáng 11:26, 32 thì Áp-ra ham phải 135 tuổi. Sư sai sót đến 60 năm. Như vậy sau khi Tha rê chết , Áp ra ham 75 tuổi trong Chúa và là 135 tuổi đời, Sau khi được Chúa kêu gọi, ông đã sống ở trạm trung chuyển Cha ran 75 năm, và sống tại U rơ 60 năm lúc chưa tin Chúa.
Sáng thế ký 21:5 nói ông sinh ra Y sác vào năm ông 100 tuổi thuộc linh. Khi hai con của Y sác là Êsau và Gia cốp ra đời thì Áp ra ham được 160 tuổi thuộc linh, mà Sáng 25: 7 nói Áp ra ham qua đời , hưởng thọ 175 tuổi thuộc linh. Như vậy Áp ra ham, với tư cách ông nội, ông chắc chắn đã kể chuyện đời xưa về cuộc đời của mình cho hai cháu nội nghe, mà nghe xong, Êsau vẫn không ham thích Chúa.
-5-Gia cốp và Giô sép:
Khi hai cha con gặp nhau thì Gia cốp 130 tuổi, thì Giô sép mấy tuổi? Sáng thế kí 41:46 nói Giô sép lên làm thủ tướng Ai cập năm 30 tuổi. Bảy năm được mùa xong, hai năm sau Gia cốp mới gặp Giô sép. Năm đó Giô sép 39 tuổi. Lấy con số 130 trừ đi 39, chúng ta ra con số 91, là tuổi của Gia cốp khi Giô sép ra đời, xem Sáng 30: 25. Đó là lúc Gia cốp mãn hạn 14 năm ở đợ nhà La ban, là cậu ruột và cũng là bố vơ. lấy 91 khấu trừ đi 14, chúng ta có con số 77, là tuổi của chàng trai Gia cốp được cha mình là Y sác sai về quê ngoại để cưới vợ. Lấy con số 130, tuổi Gia cốp khi đến Ai cập trừ đi 77, chúng ta có con số 53 năm, đó là thời gian ông được Chúa luyện lọc trong lò luyện kim La ban 20 năm, và trong tay con cái 33 năm. Sau 53 năm được Chúa xử lý ông được Kinh thánh gọi tên mới là Israel (vương tử của Đức Chúa Trời)-- Sáng 43; 6, 8; 46:1; 47:27. Anh em muốn được trưởng thành thuộc linh thì phải chịu học trong trường xử lý của Chúa ít ra cũng 50 năm.
- 6- Tháp Ba-bên tan rả.
Đọc Sáng thế ký 10:25; 11: 10-18, chúng ta sẽ có con số 101 năm, là năm Bê léc được sinh ra. "Bê-léc" nghĩa là "phân chia", vì khi ông ra đời tháp Ba bên tan rả, và loài người phân chia ra làm nhiều thứ tiếng, nhiều dân tộc và phân tán trên khắp địa cầu.
Trong Hán tự, có chữ Phân. Chữ nầy gồm có hai chữ, chưc nằm trên là Bát, nghĩa là tám, và chữ nằm dưới là Đao, con dao. Con dao đâm vào số tám, vì 8 người trong tàu Nô ê , là nguồn gốc của nhân loại mới sau nước lụt. Con đao đã gây ra sự phân tán tại tháp Ba bên.
MK. 13-12-2021

Ngọc Trai Hoặc Đá Quý-


Ma-thi-ơ 13: 45-46, "“Nước Thiên Đàng cũng ví như một thương gia đi tìm ngọc trai quý. Khi tìm được viên ngọc quý giá, liền đi bán hết gia tài để mua viên ngọc ấy"
Chúa Giê-su đã từng kể câu chuyện ngụ ngôn ấn tượng về một thương gia đang tìm kiếm những viên ngọc trai đẹp và người đã bán tất cả những gì mình có để cuối cùng có được một viên ngọc trai vô cùng quý giá. Người lái buôn là hình ảnh của Chúa Giê-su và viên ngọc trai là hình ảnh của hội chúng.

Đáng chú ý là Chúa đã sử dụng một viên ngọc trai như một hình ảnh trong dụ ngôn, chứ không phải là một viên đá quý. Chắc chắn có một lý do cho điều này: Đá quý được tách và cắt để chúng có thể tỏa sáng vẻ đẹp của chúng. Không ai tách một viên ngọc trai. Nó chỉ đẹp như một đơn vị. Và vì vậy viên ngọc trai là một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của một hội thánh gồm tất cả những tín đồ chân chính hiệp lại, không thể chia cắt..
Chúng ta có nghĩ đủ về giá trị và sự hiệp nhất của Hội thánh Đức Chúa Trời không?

RAO GIẢNG PHÚC ÂM-

“Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, dạy dỗ trong các hội đường, truyền giảng Phúc Âm Nước Thiên Đàng và chữa lành tất cả bệnh tật trong dân chúng” (Math. 4:23)-

Một vấn đề thường xuyên xảy ra giữa các Cơ đốc nhân là duy trì sự cân bằng thích hợp giữa truyền giáo và tham gia xã hội. Các nhà truyền giáo thường bị chỉ trích vì quá quan tâm đến linh hồn của con người và không quan tâm đủ với thể xác của họ. Nói cách khác, họ không dành đủ thời gian cho người đói ăn, mặc quần áo cho người rách rưới, chữa bệnh cho người bệnh và giáo dục người mù chữ.
Nói bất cứ điều gì chống lại bất kỳ chức vụ nào trong số các chức vụ này sẽ giống như chỉ trích tình mẫu tử. Chúa Giê-su chắc chắn quan tâm đến nhu cầu thể chất của con người, và Ngài dạy các môn đồ của Ngài cũng phải quan tâm. Trong lịch sử, những Cơ Đốc nhân luôn đứng trước những nguyên nhân từ bi thương xót.
Nhưng cũng như trong rất nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống, đó là một câu hỏi về các ưu tiên. Cái nào quan trọng hơn, thời gian hay cõi vĩnh cửu? Được đánh giá trên cơ sở này, Tin Mừng là điều chính yếu. Chúa Giê-xu diễn đạt nội dung này khi Ngài nói, “Đây là công việc của Đức Chúa Trời, mà các ngươi tin…” Giáo lý, lẽ thật có trước sự tham gia của xã hội.
Một số vấn đề xã hội cấp bách nhất của con người là kết quả của tôn giáo sai lầm. Ví dụ, có những người chết vì đói nhưng không giết một con bò vì họ tin rằng một người họ hàng có thể đầu thai trong con bò. Khi các quốc gia khác gửi những chuyến hàng khổng lồ ngũ cốc, lũ chuột ăn nhiều hơn dân chúng, vì không ai giết được lũ chuột. Những người này bị tôn giáo sai lầm cùm chân và Đấng Christ là câu trả lời cho các vấn đề của họ.
Khi cố gắng đạt được sự cân bằng thích hợp giữa việc truyền giảng và phục vụ xã hội, luôn có nguy cơ trở nên bận rộn với “cà phê và bánh rán” đến nỗi Tin Mừng bị bó chặt. Lịch sử của các tổ chức Cơ đốc giáo chứa đầy những ví dụ như vậy, nơi điều tốt đã trở thành kẻ thù của điều tốt nhất.
Một số hình thức tham gia xã hội là đáng nghi ngờ nếu không nói là hoàn toàn “bị ra ngoài”. Cơ Đốc nhân không bao giờ được tham gia vào các nỗ lực cách mạng nhằm lật đổ chính quyền. Người ta nghi ngờ rằng anh ta nên dùng đến các quy trình chính trị để giải quyết những bất công xã hội. Cả Chúa và các sứ đồ đều không làm vậy. Có thể đạt được nhiều điều hơn qua việc truyền bá Phúc Âm hơn là nhờ luật pháp.
Cơ Đốc nhân từ bỏ tất cả để theo Chúa Giê-su, người nên bán tất cả để cho người nghèo, người mở rộng tấm lòng và túi tiền của mình mỗi khi thấy một trường hợp cần thiết đích thực, thì không cần phải cắn rứt lương tâm trước xã hội vô tình.

CHÚA HÓA BÁNH NUÔI 5000 NGÀN NGƯỜI-

"Khi đến nơi, Ngài thấy một đám đông đang chờ. Ngài cảm thương họ và chữa lành những kẻ đau. Chiều xuống, các môn đệ đến thưa với Ngài, “Chỗ nầy hẻo lánh và cũng đã xế chiều rồi nên xin thầy cho họ về để họ đi vào các làng mạc gần đây mua thức ăn.” Nhưng Chúa Giê-xu đáp, “Họ không cần phải đi đâu cả. Các con phải cho họ ăn.” Họ thưa, “Chúng con chỉ có năm ổ bánh và hai con cá thôi.”Ngài bảo, “Mang bánh và cá lại đây cho ta.” Rồi Ngài bảo dân chúng ngồi xuống trên cỏ. Ngài cầm năm ổ bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn Thượng Đế, xong chia bánh ra trao cho các môn đệ để phát cho dân chúng. Ai nấy ăn no nê. Sau đó các môn đệ lượm lại được mười hai giỏ thức ăn thừa. Nếu không tính đàn bà và trẻ con thì có khoảng năm ngàn đàn ông ăn bữa ấy" (Mathio 14:14-20).

Cũng xin lưu ý ở đây, rằng Chúa mong đợi tìm thấy mười hai môn đồ của Ngài có khả năng trở thành công cụ cho các hành động ban phước và quyền năng của Ngài, điều hành các phước lành của vương quốc theo quyền năng riêng của Ngài. Ngài nói: “chính các người hãy cho họ ăn”. Điều này áp dụng cho phước hạnh của vương quốc của Chúa, và cho các môn đồ của Chúa Giê-su, mười hai người, với tư cách là những người cấp dưỡng của vương quốc. Đây cũng là một nguyên tắc hết sức quan trọng liên quan đến hiệu quả của đức tin đối với mọi sự can thiệp của Đức Chúa Trời trong ân điển.
Niềm tin phải có thể sử dụng sức mạnh để can thiệp như vậy, để tạo ra những công việc phù hợp với quyền lực đó, theo thứ tự của thời kỳ phân phát vương quốc và trí thông minh mà nó có được. Chúng ta sẽ tìm lại nguyên tắc này ở những nơi khác được phát triển đầy đủ hơn.
Các môn đồ muốn cho đoàn dân ra về mà không biết cách sử dụng quyền năng của Đấng Christ. Đáng lẽ ra, họ có thể tận dụng điều đó thay mặt cho Y-sơ-ra-ên, tùy theo sự vinh hiển của Ngài là Đấng ở giữa họ.
Ngày nay, chúng ta đang đối diện quần chúng đang đói lời Đức Chúa Trời trong Kinh thánh, thì chúng ta kah1 hiểu rằng chính chúng ta phải chohọ ăn no nê.

CHÚA ĐI BỘ TRÊN MẶT BIỂN-

Mathio 14 :22-36-

"Sau khi Chúa bước vào thuyền thì gió lặng. 33 Những người trong thuyền đến bái lạy Ngài mà rằng, “Thầy thật đúng là Con Thượng Đế!”. Sau khi băng qua hồ, họ cập bờ ở thành Ghê-nê-xa-rết. Khi dân chúng ở đó nhận ra Chúa Giê-xu, liền báo cho mọi người quanh vùng biết là Chúa Giê-xu đã tới cho nên người ta mang các bệnh nhân đến với Ngài. Họ chỉ xin được rờ ven áo Ngài thôi. Ai rờ đều được lành cả"
Nếu bây giờ Chúa chứng tỏ với sự kiên nhẫn tuyệt đối bằng hành động của Ngài rằng Ngài là Đấng có thể ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên đang ở giữa các môn đồ Ngài, thì Ngài không ít làm chứng về việc Ngài xa cách dân tộc đó do họ không tin. Ngài khiến các môn đồ của Ngài xuống thuyền một mình vượt biển; và, cho đoàn dân ra vè, ngụ ý từ bỏ cả dân Israel như xảy ra vào cuối chương 13 của sách Mathio. Ngài đi lên một ngọn núi cách xa để cầu nguyện; trong khi con thuyền chở các môn đệ đang tung tăng trên sóng biển với một cơn gió ngược: một bức tranh sống động về điều đó đã diễn ra, trong hội thánh ngày nay.
Quả thật, Đức Chúa Trời đã sai dân Ngài một mình vượt qua biển bão tố của thế giới, gặp phải sự chống đối mà họ khó có thể phấn đấu được. Trong khi đó Chúa Giêsu cầu nguyện một mình trên cao. Ngài đã đuổi dân Do Thái ra về, những người đã vây quanh Ngài muốn lợi dụng Ngài theo xác thịt, trong suốt thời kỳ Ngài hiện diện ở đây bên dưới. Sự ra đi của các môn đồ, ngoài đặc điểm chung, còn đặt ra trước mắt chúng ta một hình ảnh dân sót của người Do Thái một cách đặc biệt.
Riêng Phi-e-rơ, khi bước ra khỏi thuyền, đi xa hơn vị trí của dân sót này. Ông đại diện cho đức tin đó, từ bỏ chỗ ở tiên nghi trên thuyền, đi ra ngoài để gặp Chúa Giê-xu, Đấng đã bày tỏ chính Ngài cho dân sót, và Phi e rơ bước đi trên biển — một phó thác táo bạo, nhưng dựa trên lời của Chúa Giê-xu, “Hãy đến”. Tuy nhiên, hãy lưu ý ở đây rằng bước đi này không có nền tảng nào khác hơn là, “Nếu phải là Chúa” có nghĩa là chính Chúa Giê-xu. Không có chỗ dựa, không có khả năng bước đi, nếu Chúa bị mất dấu. Tất cả đều phụ thuộc vào Ngài.
Có một phương tiện đã biết trong thuyền; không có gì ngoài đức tin, trông cậy vào Chúa Giêsu, để đi trên mặt nước. Con người, với tư cách là một con người đơn thuần, chìm xuống bởi chính sự thật của gió bão đang có ở đó. Không gì có thể tự bền vững ngoại trừ đức tin đến từ Chúa Giê-xu sức mạnh ở trong Ngài, và do đó bắt chước Ngài. Nhưng thật ngọt ngào khi noi gương Ngài; và một người sau đó ở gần Ngài hơn, giống như Ngài hơn. Đây là vị trí thực sự của hội chúng trái ngược với dân sót trong tính cách bình thường của họ.
Chúa Giêsu đi trên mặt nước cũng như trên mặt đất vững chắc. Ngài là người đã tạo ra các yếu tố như chúng có thể loại bỏ các phẩm chất của chúng theo niềm vui của Ngài. Ngài cho phép những cơn bão nổi lên để thử thách đức tin của chúng ta. Ngài đi trên sóng gió cũng như trên bình lặng. Hơn nữa, cơn bão không tạo ra sự khác biệt. Còn Phi e rơ chìm trong nước thì làm như vậy trong lúc bình lặng cũng như trong cơn bão, và Đấng có thể bước đi trên mặt nước sẽ làm như vậy trong cơn bão cũng như trong bình lặng — nghĩa là trừ khi hoàn cảnh được xét đến và như vậy. đức tin thất bại, và Chúa bị lãng quên.
Thông thường, hoàn cảnh khiến chúng ta quên mất Ngài, nơi đức tin phải giúp chúng ta vượt qua hoàn cảnh bằng cách bước đi bởi đức tin nơi Ngài là Đấng trên tất cả. Tuy nhiên, chúc tụng Chúa! Người bước đi trong quyền năng của chính Người đi trên mặt nước, Đấng có ở đó để nâng đỡ đức tin và những bước đi dao động của người môn đệ đáng thương; và bằng mọi giá, đức tin đã đưa Phi-e-rơ đến gần Chúa Giê-xu đến nỗi bàn tay dang rộng của Ngài có thể nâng đỡ ông. Lỗi của Phi-e-rơ là ông đã nhìn vào những con sóng, vào cơn bão (xét cho cùng, chẳng liên quan gì đến nó), thay vì nhìn vào Chúa Giê-su, Đấng không hề thay đổi, và đang bước đi trên chính những con sóng đó, như đức tin của ông. đã quan sát trước đó. Vẫn tiếng kêu đau khổ của anh ta đã làm cho quyền năng của Chúa Giê-xu hoạt động, như lẽ ra đức tin của anh ta phải làm; chỉ có điều bây giờ là sự xấu hổ của anh ta, thay vì được hưởng sự hiệp thông và bước đi như Chúa.
Chúa Giêsu đã vào thuyền, gió ngừng. Ngay cả khi Chúa Giê-xu trở lại với phần dân sót của dân Ngài trong thế giới này cũng vậy. Sau đó, Ngài cũng sẽ được tôn thờ như Con Đức Chúa Trời bởi tất cả những người trong thuyến, với phần dân sót của Y-sơ-ra-ên. Trong Ghê-nê-xa-rét, Chúa Giê-xu lại thi hành quyền năng mà ở đây sau khi tái lâm, Ngài sẽ đuổi khỏi trái đất mọi điều ác mà Sa-tan đã mang vào. Vì khi Ngài trở lại, thế giới nầy sẽ nhận ra Ngài. Đó là một bức tranh đẹp về kết quả của sự từ chối của Đấng Christ, điều mà Phúc âm này đã cho chúng ta biết là đang diễn ra ở giữa đất nước Israel hiện nay.