Đây là ngôn ngữ cổ nhất, nhưng
được tiếp tục viết ra trong thế giới ngày nay.
Các nhà phát minh ra ngôn ngữ
viết đã vẽ các bức hình để diễn tả lời hay ý tưởng.
Các bức hình đơn giản đã được hợp
lại để tạo ra các tư tưởng phức tạp hơn.
Ví dụ:
Trong văn hóa Trung Hoa cổ đại,
anh cả là phát ngôn nhân cho gia đình. Đây có thể tại sao ký tự cho anh cả là
“mouth man” (người có miệng nói).
Chữ
Chữ “huynh” gồm có chữ “khẩu”—miệng để nói, và hai bàn chân ngụ ý: người. Người có cái miệng là huynh trưởng.
Chữ “huynh” gồm có chữ “khẩu”—miệng để nói, và hai bàn chân ngụ ý: người. Người có cái miệng là huynh trưởng.
Lịch sử quen thuộc và những việc
thông thường mỗi ngày đã được dùng để tạo ra chữ (lời) mà rất nhiều người có
thể nhớ.
Trước ông Phật, dân Trung Hoa đã
thờ lạy cùng Đức Chúa Trời được mô tả trong Kinh thánh. Bằng chứng nằm trong
các chữ Trung Hoa cổ đại:
-
Bắt đầu ngôn ngữ Trung Hoa 2500 T.C.
-
Ngũ Kinh của Kinh Thánh 1400 T.C.
-
Phật đản 600 T.C.
-
Chúa Jesus chết 30 S.C.
-
Ngày nay 2000 S.C.
Shang Di (Thượng Đế) là Đức Chúa
Trời của Trung Hoa, trước ông Phật. Ngài là Đức Chúa Trời Đấng Tạo hóa, và sinh
tế bằng động vật được dâng lên cho Ngài.
Trong suốt ba triều đại đầu tiên
của Trung Hoa: Hạ, Thương, Châu, dân Trung Hoa đã thờ phượng Shang Di. Sự thờ Phật đã đến Trung Hoa từ Ấn
độ trong khoảng năm 50 T.C. Đức Chúa Trời của Kinh Thánh đã được giới thiệu cho
Trung Hoa khi những người ngoại quốc đến từ Âu châu. Nhiều người ở Trung hoa
tin rằng kinh thánh là sách Tây phương. Họ tin Kinh thánh là chuyện thần thoại
và ngụ ngôn do người Tây phương viết ra. Họ nghĩ về Kinh Thánh như một sách của
người Anh quốc. Tuy nhiên, Kinh Thánh đã không được viết bằng Anh văn.
Kinh thánh được viết bằng tiếng
Hebrew và Greek. Những người viết đầu tiên của Kinh thánh xuất thân từ Ai cập
và Babylon (Iraq ngày nay).
-
năm sách đầu tiên của Kinh thánh được viết ra khoảng
1400 T.C, do Moses, con nuôi của Công chúa Ai cập.
-
Năm sách nầy tập chú vào khởi đầu của nước Israel.
-
11 chương đầu ghi chép lịch sử các nước nói chung
Làm thế nào dân Trung hoa cổ đại
đã biết cùng lịch sử mà đã được ghi chép trong kinh thánh? Chúng ta hãy coi các
câu chuyện trong Kinh thánh và một số chữ Trung Hoa truyền thống. Rồi từ bằng
chứng đó, bạn có thể quyết định cho chính mình hoặc sự liên kết là ngẫu hợp hay
do thiết kế:
- Làm thế nào các nước và các ngôn ngữ của chúng ta bị chia rẽ?
Sáng thế ký 11:1-9, “Vả, cả thiên
hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng. 2 Nhưng
khi ở Đông phương dời đi, người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a, rồi ở
tại đó. 3 Người nầy nói với người kia rằng:
Hè! Chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa. - Lúc đó, gạch thế cho đá, còn chai
thế cho hồ. - 4 Lại nói rằng: Nào! Chúng ta
hãy xây một cái thành và dựng lên một cái tháp, chót cao đến tận trời; ta hãy
lo làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp trên mặt đất. 5
Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống đặng xem cái thành và tháp của con cái
loài người xây nên. 6 Đức Giê-hô-va phán rằng:
Nầy, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một thứ tiếng; và kia kìa công việc chúng nó
đương khởi làm; bây giờ chẳng còn chi ngăn chúng nó làm các điều đã quyết định
được. 7 Thôi! Chúng ta hãy xuống, làm lộn xộn
tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với
người kia. 8 Rồi, từ đó Đức Giê-hô-va làm cho
loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ thôi công việc xây cất thành. 9 Bởi cớ đó đặt tên thành là Ba-bên , vì nơi đó
Đức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng nói của cả thế gian, và từ đây Ngài làm cho
loài người tản ra khắp trên mặt đất”.
- Các nước và các thứ tiếng đã bị
chia ra từ 5000 năm trước.
- Sự phân chia đã xảy ra 500 năm
trước khi ngôn ngữ viết cổ nhất của Trung Hoa được chế tạo.
- Các ngôn ngữ của dân chúng đã
bị chia ra.
- Dân chúng đã phân tán trên cả
trái đất.
- Địa điểm của tháp Babel (đôi khi gọi là Babylon, Iraq hiện đại).
--Nếu Kinh thánh là chân thật, mọi nước đều đã di trú hay di chuyển từ Babylon.
--Người Trung
hoa có thể đã di trú từ phía Tây đến Hoa lục.
--Di trú là di
chuyển từ một xứ sở hay một miền và định cư tại đất nước khác.
Di trú == đại + Sướt ( đi bộ) + Tây + dừng, chia rẽ
Di trú == đại + Sướt ( đi bộ) + Tây + dừng, chia rẽ
- Đức Chúa Trời đã sáng tạo:
Sáng thế ký
2:7, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí
vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh”.
Ký tự thay cho
“hơi thở hay miệng” cũng có thể giới thiệu cho các lời “con người hay nhân
vật”. Há không thích thú khi bên trong chữ “tạo” tìm thấy các chữ đại diện cho
một “người bằng đất sống động. Theo Kinh thánh người đầu tiên là một người bằng
đất sống động.
Theo ngôn ngữ
Trung Hoa, há không có thể từ 4500 năm trước đây, dân Trung Hoa cũng tin người
đầu tiên đã được sáng tạo từ bụi đất sao?
- Hồi ban đầu Đức Chúa Trời và con người đã có sự tương giao gần gũi. Điều nầy dẫn đến hạnh phúc chân thật.
God Một
Miệng=người Viên: vườn
- Hồi ban đầu Đức Chúa Trời đặt
con người trong một khu vườn đẹp đẽ hay địa đàng. Trong vườn nầy, Đức Chúa Trời
đã ban phước cho con người. Trong vườn, Đức Chúa Trời và con người đã vui hưởng
sự tương giao thân mật, nhưng một vài điều đã xảy ra hủy phá hạnh phúc của con
người và sự tương giao thân mật của anh ta với Đức Chúa Trời (Sáng thế ký
1:26--3:9)
- Sự tương giao bị mất:
-
Con người bất phục Đức Chúa Trời và phải rời khỏi khu
vườn.
-
Tội lỗi đứng giữa con người và Đức Chúa Trời.
-
Lỗi lầm của con người phân rẽ anh ta khỏi Đức Chúa
Trời.
- Một đứa trẻ tại Trung Hoa cổ đại có thể hỏi, “người đầu tiên xuất thân từ đâu?”.
-
Eden ở về phía Tây đối với Trung Hoa.
-
Eden ở về phía Đông đối với Moses.
-
Nơi nào có khu vườn mà trong đó người đầu tiên đã một
một lần sống tương giao với Đức Chúa Trời?
-
Chữ “Tây” (West) nầy từ Hoa văn trả lời câu hỏi trên cách
rõ ràng.
-
Đức Chúa Trời lập một khu vườn ở phía đông, tại Eden,
và đặt người mà Ngài đã tạo nên ở đó.
- Người đầu tiên cần một người nữ:
Kinh thánh chép
sau khi Đức Chúa Trời sáng tạo người nam và đặt anh trong vườn, Ngài bảo con
người đặt tên mọi động vật. sau khi thấy mọi con chim trên bầu trời và thú vật
của đồng ruộng, con người vẫn khao khátt có ai đó giống mình. Và Đức Chúa Trời
phán, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt;
ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó” (Sáng 2:18).
Chữ “Tây” nằm
trên chữ “nữ” gọi là “muốn”.
Tại sao các nhà
chế tạo chữ Trung Hoa chọn hai chữ “Tây”, chỉ phương hướng của vườn Eden và chữ
“người nữ” , để hiệp thành chữ “khao khát”. Điều đó không vô nghĩa, trừ khi
chúng ta nhớ rằng
Một người trong
khu vườn, ở phía tây là người đầu tiên, khao khát một người nữ.
Và Đức Chúa
Trời phán, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không
tốt; ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó” (Sáng 2:18).
Ban đầu Đức Chúa
Trời đã làm ra hai người. Họ là dân đầu tiên.
Chữ “nguyên”
gồm chữ “nhị”( hai) cộng với chữ người (hình hai bàn chân, thành chữ “nguyên”
(đầu tiên).
Ban đầu hai người
- Sự tương giao bị mất:
Sáng 2:8-9,
“Đoạn, Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập một cảnh vườn tại Ê-đen, ở về hướng Đông, và
đặt người mà Ngài vừa dựng nên ở đó. 9 Giê-hô-va
Đức Chúa Trời khiến đất mọc lên các thứ cây đẹp mắt, và trái thì ăn ngon; giữa
vườn lại có cây sự sống cùng cây biết điều thiện và điều ác”.
-Có bao nhiêu
cây đặc biệt giữa khu vườn? Hai cây= cây sự sống và cây tri thức thiện ác.
- Và Đức Chúa
Trời phán, “Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa
quả các thứ cây trong vườn; 17 nhưng về cây
biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ
chết”.
- Con người đã
được cấm ăn một trong hai cây. Nếu anh ta ăn trái cây cấm, cây kia cũng sẽ bị
cất khỏi anh ta luôn.
Hình hai cây
cộng hình Đức Chúa Trời ra chữ “cấm”.
- Người Nữ và trái cấm:
Sáng 3:1-5,
“Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn
là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời
há có phán dặn các ngươi không được phép ăn trái các cây trong vườn sao? 2 Người nữ đáp rằng: Chúng ta được ăn trái các cây
trong vườn, 3 song về phần trái của cây mọc
giữa vườn, Đức Chúa Trời có phán rằng: Hai ngươi chẳng nên ăn đến và cũng chẳng
nên đá động đến, e khi hai ngươi phải chết chăng. 4 Rắn
bèn nói với người nữ rằng: Hai ngươi chẳng chết đâu; 5 nhưng
Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mở ra,
sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác”.
Sáng 3:6-8,
“Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí
khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa. 7 Đoạn, mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình
lõa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân. 8 Lối
chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn
mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời”.
Ngẫu hợp hay do
thiết kế?
Há không thích
thú sao, khi 4500 năm trước, người Trung Hoa cổ đại kết hợp con quỉ với khu
vườn và hai cây lại với nhau?
- Hình phạt loài người:
Chữ “quả” –trái
-
Chữ “trần truồng” thứ nhất gồm hai chữ : “nhân (đứng)”
và “quả-trái “ hợp lại
-
Chữ “trần truồng” thứ ba gồm hai chữ “y”(quần áo) và
“quả-trái” hợp lại.
-
Sau khi ăn trái cấm, họ mặc quần áo để che sự lõa lồ
của mình.
- Người nữ lãnh hình phạt nào vì tội mình?
Sáng 3:6, 16,
“Người nữ thấy trái của cây đó bộ ăn ngon, lại đẹp mắt và quí vì để mở trí
khôn, bèn hái ăn, rồi trao cho chồng đứng gần mình, chồng cũng ăn nữa.-- Ngài
phán cùng người nữ rằng: Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén;
ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về
chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi”.
Đau đớn hai cây dưới người
- Người nam lãnh hình phạt nào vì tội mình?
Hình phạt người
nam lãnh là chịu nhiều chông gai và tật lê.
- Kẻ sát nhân đầu tiên:
Sáng. 4:1-8, “A-đam
ăn ở với Ê-va, là vợ mình; người thọ thai sanh Ca-in và nói rằng: Nhờ Đức
Giê-hô-va giúp đỡ, tôi mới sanh được một người. 2 Ê-va
lại sanh em Ca-in, là A-bên; A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in thì nghề làm
ruộng.
3 Vả, cách ít lâu, Ca-in dùng thổ sản làm của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va. 4 A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Đức Giê-hô-va đoái xem A-bên và nhận lễ vật của người; 5 nhưng chẳng đoái đến Ca-in và cũng chẳng nhận lễ vật của người; cho nên Ca-in giận lắm mà gằm nét mặt. 6 Đức Giê-hô-va phán hỏi Ca-in rằng: Cớ sao ngươi giận, và cớ sao nét mặt ngươi gằm xuống? 7 Nếu ngươi làm lành, há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươi lắm; nhưng ngươi phải quản trị nó.8 Ca-in thuật lại cùng A-bên là em mình. Vả, khi hai người đương ở ngoài đồng, thì Ca-in xông đến A-bên là em mình, và giết đi”.
3 Vả, cách ít lâu, Ca-in dùng thổ sản làm của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va. 4 A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Đức Giê-hô-va đoái xem A-bên và nhận lễ vật của người; 5 nhưng chẳng đoái đến Ca-in và cũng chẳng nhận lễ vật của người; cho nên Ca-in giận lắm mà gằm nét mặt. 6 Đức Giê-hô-va phán hỏi Ca-in rằng: Cớ sao ngươi giận, và cớ sao nét mặt ngươi gằm xuống? 7 Nếu ngươi làm lành, há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa, thèm ngươi lắm; nhưng ngươi phải quản trị nó.8 Ca-in thuật lại cùng A-bên là em mình. Vả, khi hai người đương ở ngoài đồng, thì Ca-in xông đến A-bên là em mình, và giết đi”.
- Người anh cả,
Cain, đã giết người em, Abel.
- Người anh cả
đầu tiên trong Kinh thánh, dữ tợn, bạo lực. Cả hai chữ “con cả” và “bạo lực”
đều phát âm là “shun”.
Sáng 4:15, “Đức
Giê-hô-va phán rằng: Bởi cớ ấy, nếu ai giết Ca-in, thì sẽ bị báo thù bảy lần.
Đức Giê-hô-va bèn đánh dấu trên mình Ca-in, hầu cho ai gặp Ca-in thì chẳng
giết”.
- Tội lỗi con người đã phân rẽ anh khỏi sự tương
giao với Đức Chúa Trời.
Nhưng Đức Chúa
Trời đã dự bị một con đường để mối liên hệ của con người với Ngài có thể được
phục hồi qua sinh tế Y như câu chuyện trong Kinh thánh, người Trung Hoa cổ đại
đã biết rằng sinh tế bằng chiên con đem lại sự công nghĩa và ân huệ của Đức
Chúa Trời. Sáng 4:4—Ngẫu hợp hay do thiết kế?
Công nghĩa- chiên con-ngã, tôi - bàn tay -con dao
Công nghĩa- chiên con-ngã, tôi - bàn tay -con dao
- Cơn nước lụt
Noah, vợ, ba
con trai và ba con dâu.
Sáng thế ký 6:11-18, “Thế gian bấy giờ đều
bại hoại trước mặt Đức Chúa Trời và đầy dẫy sự hung ác. 12
Nầy, Đức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy đều bại hoại, vì hết thảy
xác thịt làm cho đường mình trên đất phải bại hoại. 13 Đức
Chúa Trời bèn phán cùng Nô-ê rằng: Kỳ cuối cùng của mọi xác thịt đã đưa đến
trước mặt ta; vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy, ta sẽ
diệt trừ họ cùng đất. 14 Ngươi hãy đóng một chiếc
tàu bằng cây gô-phe , đóng có từng phòng, rồi trét chai bề trong cùng
bề ngoài. 15 Vậy, hãy làm theo thế nầy: Bề
dài tàu ba trăm thước, bề ngang năm mươi thước, bề cao ba mươi thước. 16 Trên tàu ngươi sẽ làm một cửa sổ, bề cao một
thước, và chừa một cửa bên hông; ngươi sẽ làm một từng dưới, một từng giữa và
một từng trên. 17 Còn ta đây, ta sẽ dẫn nước
lụt khắp trên mặt đất, đặng tuyệt diệt các xác thịt có sanh khí ở dưới trời;
hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ chết hết. 18 Nhưng
ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của ngươi,
đều hãy vào tàu.”
Theo câu chuyện trong Kinh thánh,
có bao nhiêu người ở trong thuyền (tàu).—tám.
Sáng. 6:5-8; 7:7, “Đức Giê-hô-va
thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng
họ chỉ là xấu luôn; 6 thì tự trách đã dựng nên
loài người trên mặt đất, và buồn rầu trong lòng. 7 Đức
Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng nên,
từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta tự
trách đã dựng nên các loài đó. Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va.- Vì
cớ nước lụt, nên Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai và các dâu mình”.
Đây là chữ Trung Hoa cổ cho chiếc
thuyền.
Chữ dành cho thuyền lớn đi trên
đại dương là gì?
Tại sao các nhà
phát minh chữ Trung Hoa cổ đại đã chọn ba chữ nầy?
Sau nước lụt,
toàn thể dân cư nhân loại là gì? Noah, vợ ông, ba con trai và ba cô dâu- Tám
người.
Lụt -nước -toàn thể -cùng-trái đất - 8 người
Chữ “nước lụt”
được cấu tạo bằng sự kết hợp các chữ:
-
Nước
-
Toàn thể (đó là 8+hiệp nhất+ trái đất).
Làm sao những người Trung Hoa cổ
đại đã biết được những điều nầy? Họ không có Kinh Thánh.
Hãy nhớ rằng, lịch sử quen thuộc
và những việc thông thường mỗi ngày đã được dùng để tạo ra chữ (lời) mà rất
nhiều người có thể nhớ.
Các câu chuyện đã được truyền lại
bởi lời truyền khẩu từ 8 người mà đã là toàn thể dân số địa cầu sau nước lụt.
Kết luận:
Căn cứ vào bằng chứng chúng ta
tin những người phát minh chữ Trung Hoa đã biết Đức Chúa Trời của Kinh thánh.
Chúng ta tin họ đã truyền lịch sử
cho mọi nước mà đã được ghi chép chung chung trong Kinh Thánh.
Nguồn: