Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

MỐI NGUY HIỂM KHi TÍN ĐỒ THỤ ĐỘNG




Vì các tín đồ quá thiếu hiểu biết, nên họ bị lừa dối bởi quyền lực của sự tối tăm và vô thức bị cho vào tròng bởi sự lừa dối của Satan. Họ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác và bởi đó bị quỷ ám. Chúng ta phải lưu ý đến trật tự trong vấn đề này vì nó rất trọng yếu: (1) tín đồ trở nên thiếu hiểu biết, (2) người ấy bị lừa dối, (3) người ấy trở nên thụ động, và (4) người ấy bị quỷ ám. Sự thiếu hiểu biết của tín đồ là nguyên nhân đầu tiên cho việc bị quỷ ám. Vì sự thiếu hiểu biết của tín đồ về nguyên tắc công tác của các ác linh và yêu cầu của Thánh Linh nên Satan có thể lừa dối người ấy. Nếu tín đồ biết lẽ thật, biết cách công tác với Đức Chúa Trời và biết các quy luật của công tác Đức Chúa Trời, người ấy sẽ không chấp nhận các lời nói dối của Satan. Khi bị các ác linh lừa dối, người ấy nghĩ rằng toàn bộ bản thể mình phải trở nên thụ động để Đức Chúa Trời sống và công tác qua mình. Cho nên, người ấy chấp nhận nhiều sự biểu lộ siêu nhiên của các ác linh và xem những điều đó là từ Đức Chúa Trời. Theo cách này người ấy càng bị lừa dối hơn và các ác linh có thể nhập vào người ấy.

(1)Khi một tín đồ nhường chỗ cho các ác linh, đó là một lời mời gọi cho các ác linh nhập vào người ấy. (2) Sau khi bước vào, chắc chắn chúng sẽ tự biểu lộ qua các hoạt động của chúng. (3) Nếu tín đồ hiểu sai các hoạt động này và không biết rằng những điều đó là ra từ ma quỷ, người ấy sẽ nhường thêm chỗ cho các ác linh vì người ấy đã tin vào các lời nói dối của chúng rồi. Đây là một chu kỳ tự lặp lại hết lần này đến lần khác. Theo cách này, tín đồ ngày càng bị quỷ ám sâu hơn. Chỉ cần tín đồ rơi vào trong sự thụ động, tức là sau khi người ấy nhường chỗ cho các ác linh, thì mối nguy hiểm không thể nào nói hết được.
Khi một tín đồ rơi vào trong sự thụ động và không đưa ra một sự lựa chọn trong mọi điều thuộc về mình, người ấy sẽ thụ động thuận phục mọi điều đến trên mình từ môi trường. Người ấy sẽ nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang đưa ra quyết định thay cho mình, trong môi trường cũng như trong những người liên hệ với mình và mình chỉ cần thuận phục cách thụ động thôi. Mọi điều xảy đến trên người ấy đều trở nên ý muốn và lệnh truyền của Đức Chúa Trời; người ấy im lặng chấp nhận chúng vì nghĩ rằng chúng là do Đức Chúa Trời ban cho. Sau một thời gian, người ấy nhận thấy rằng mình không thể đưa ra bất cứ quyết định nào về bất cứ điều gì trong đời sống mình. Người ấy không thể đưa ra quyết định về nhiều điều mình phải làm và không thể chủ động trong những vấn đề này. Người ấy sợ nói ra điều mình thích và do dự nói ra điều mình quyết định. Những người khác có thể lựa chọn, quyết định, khởi xướng và hành động; nhưng người ấy giống như rong biển trôi nổi trên mặt nước, tròng trành, phó mặc cho gió và sóng biển cuốn đi. Người ấy mong chờ ai đó đưa ra quyết định dùm mình hoặc các hoàn cảnh cung cấp cho mình một con  đường duy nhất để đi hầu cho người ấy không cần phải lựa chọn. Người ấy vui mừng để người khác ép mình làm một điều gì đó vì điều đó khiến người ấy khỏi phải lo lắng. Vì việc đưa ra lựa chọn rất khó khăn đối với người ấy nên người ấy thà bị môi trường ép buộc còn hơn tự do trong môi trường, vì điều này đòi hỏi phải có sự lựa chọn.
Sau khi trở nên thụ động như vậy, người ấy nhận thấy đưa ra một quyết định dù là nhỏ nhất đi nữa cũng là một gánh nặng. Người ấy liên tục tìm kiếm sự giúp đỡ khắp nơi và tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài để có thể đưa ra quyết định. Người ấy cảm thấy rất tiếc vì dường như mình không thể quản lý ngay cả những điều nhỏ nhặt trong nếp sống hằng ngày của mình. Người ấy gặp khó khăn trong việc hiểu điều người khác nói. Người ấy thấy khó ghi nhớ hay hồi tưởng lại bất cứ điều gì. Nếu phải đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ấy luống cuống không biết làm gì. Người ấy sợ ý tưởng phải bàn bạc về bất cứ vấn đề gì vì ý muốn thụ động của người ấy không thể gánh một trách nhiệm nặng nề như vậy. Ý muốn người ấy quá mỏng manh đến nỗi người ấy phải tiếp nhận sự giúp đỡ từ môi trường hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ con người. Nếu có một người luôn luôn giúp đỡ, người ấy sẽ cảm thấy anh ta đã cướp mất ý muốn của mình; tuy nhiên theo một ý nghĩa người ấy cũng vui thích khi có người đưa ra mọi quyết định dùm mình! Trong khi người ấy chờ đợi sự hỗ trợ của tác động bên ngoài, thì vô số thời gian bị phung phí. Chúng ta không nói rằng một tín đồ thụ động như vậy không thích công tác. Khi chỗi dậy, người ấy muốn làm một số điều hoặc cho rằng mình có thể làm một số điều. Nhưng khi người ấy phải bắt đầu công tác, sự khấy động dừng lại và người ấy cảm thấy sức lực của mình không thể tương xứng với nhu cầu. Nhiều công tác bắt đầu tốt nhưng kết thúc trong thất bại vì cớ sự thụ động của ý muốn.
Tình trạng thụ động này thật bất tiện biết bao! Trong suốt giai đoạn này, tín đồ phải ghi nhiều chú thích để nhắc nhở mình về nhiều điều. Người ấy phải nói lớn tiếng để giúp đỡ mình trong các ý tưởng và sử dụng hàng trăm “cái nạng” mà người ấy phát minh ra để hỗ trợ người ấy suốt cả ngày. Cuối cùng, người ấy nhận thấy các cảm xúc của mình dần dần trở nên tê liệt và người ấy vô thức hình thành nhiều ao ước và sở thích kỳ lạ. Khi nói với người khác, người ấy không dám nhìn vào mắt họ. Người ấy khom người khi bước đi. Người ấy hoặc là quá bận tâm đến các nhu cầu của thân thể mình hoặc đàn áp các nhu cầu của thân thể mình cách quá đáng. Khi làm bất cứ điều gì, người ấy cố gắng từ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng tâm trí, ý muốn, lập luận và khả năng suy tưởng của mình.
Trong sự thiếu hiểu biết, tín đồ thất bại trong việc nhận thức rằng các dấu hiệu bệnh tật này đến từ sự thụ động và việc bị quỷ ám. Người ấy nghĩ rằng đó là do sự yếu đuối tự nhiên của mình. Tín đồ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng có các triệu chứng này là do người ấy không có nhiều “ân tứ” như người khác, vì “sự thông minh” của người ấy khác với người khác hoặc vì “khả năng thiên nhiên” của người ấy kém hơn người khác. Người ấy không cảm thấy lo sợ khi mình trở nên như vậy. Người ấy không nhận thức rằng các triệu chứng này là các lời nói dối của ác linh, chủ đích là để lừa dối người ấy hơn nữa. Người ấy không dám công tác và không dám gánh vác bất cứ điều gì vì cho rằng mình có một sự dị ứng đối với công tác, bị yếu đuối về tinh thần, không có tài hùng biện và chậm suy nghĩ. Người ấy nghĩ rằng có lẽ mình đã làm việc quá sức trong quá khứ nên không đủ sức khỏe vật lý. Người ấy không bao giờ hỏi tại sao các tín đồ khác không như vậy. Tại sao những người thua kém mình về mặt ân tứ lại không như vậy? Tại sao trong quá khứ mình không như vậy? Người ấy nghĩ rằng những điều này là bẩm sinh, tự nhiên và thuộc về tâm tính, chứ không nhận thức rằng đó là công tác của các ác linh. Sự ngu dại này khiến cho các ác linh có được thêm lập trường và khiến các tín đồ chịu nhiều nỗi khổ hơn.
Các quyền bính của sự tối tăm biết tình trạng hiện tại của tín đồ. Chúng tạo ra nhiều khó khăn trong môi trường của tín đồ để quấy rầy người ấy dai dẳng. Một khi ý muốn của tín đồ trở nên thụ động và không thể công tác, các ác linh sẽ đặt người ấy vào trong một vị trí mà người ấy buộc phải sử dụng ý muốn của mình, để làm người ấy chán nản và khiến người ấy trở thành trò cười trước mặt người khác. Vào lúc này, tín đồ như con chim trong lồng, và các ác linh giống như những đứa trẻ hư hỏng, cứ chọc phá người ấy tùy thích. Chúng luôn luôn khấy động bão tố và quấy rầy tín đồ bằng nhiều điều. Tín đồ không có khả năng phản kháng và kháng cự chúng. Môi trường của người ấy trở nên tệ hơn và nếp sống người ấy trở nên vô nghĩa hơn. Mặc dù tín đồ có quyền bính để xử lý mọi sự nhưng người ấy giữ im lặng. Theo cách này, các quyền bính của sự tối tăm dần dần có được lợi thế và khiến tín đồ xoay từ tình trạng thiếu hiểu biết, bị lừa dối và thụ động đến tình trạng bị quỷ ám, bởi đó chịu thống khổ trong tay của ma quỷ. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là con cái Đức Chúa Trời vẫn không hề hay biết rằng các tình trạng này không thể đến từ Đức Chúa Trời. Thay vì vậy, họ chấp nhận chúng cách thụ động.
Khi một tín đồ thụ động tới mức này, người ấy vô thức nương dựa vào các ác linh để giúp đỡ mình. Chúng ta đã thấy thể nào tín đồ không thể có sức lực (trong chính mình) để đưa ra các quyết định và người ấy phải nương dựa vào các tác động bên ngoài để hỗ trợ mình. Nhiều lần, vì sự thống khổ bởi các ác linh gây ra (mà không nhận thức rằng sự thống khổ đó là từ các ác linh), một tín đồ mong chờ những tác động bên ngoài đã giúp đỡ mình từ trước đến nay sẽ lại đến viện trợ cho người ấy. Đây là lý do tại sao các ác linh muốn một tín đồ trở nên thụ động. Mọi quan năng không được dùng đến của tín đồ đều rơi vào tay ác linh . Nếu tín đồ cố gắng sử dụng các quan năng của mình trong tình trạng này, điều đó sẽ chỉ tạo cơ hội cho các ác linh biểu hiện chính chúng qua người ấy. Các ác linh rất vui sướng đưa ra các đề xuất cho người ấy. Vì con người tìm kiếm sự giúp đỡ từ chúng nên chúng sẽ không từ chối lời thỉnh cầu đó. Chúng sẽ thường xuyên tiêm các ý tưởng đã định trước vào trong tâm trí tín đồ, cho người ấy mọi loại khải tượng, chiêm bao, tiếng nói, ánh sáng, lửa và Kinh Thánh ra từ văn tự. Qua những điều này, chúng đưa ra các ý kiến và quyết định thay cho tín đồ. Tín đồ không nhận thức được tình trạng thật, người ấy xem những điều này thật sự là các sự khải thị của Đức Chúa Trời và phù hợp với ý muốn Đức Chúa Trời . Hơn nữa, những điều này không đòi hỏi người ấy đưa ra bất kỳ quyết định khó nhọc nào hay vận dụng bất kỳ quyết tâm nào. Kết quả là người ấy bước theo đó cách mù quáng. Các ác linh vui mừng giúp đỡ con người không suy nghĩ hoặc sử dụng ý muốn của mình nhưng bước đi cách ngu dại theo sự khải thị bên ngoài. Cho nên, chúng rất thường xuyên ban tặng tín đồ những điều lạ lùng
Đáng tiếc là trong sự thiếu hiểu biết về nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng người ấy thật sự đang thuận phục. Đức Chúa Trời, một tín đồ có thể bị lừa dối để nghĩ rằng ấy thật sự đang thuận phục Đức Chúa Trời. Nhiều lần như vậy, người ấy có thể (1) tin các ác linh, (2) nương dựa vào chúng, (3) vâng phục chúng, (4) dâng mình cho chúng, (5) nghe theo chúng, (6) cầu nguyện với chúng, (7) bị chúng dẫn dắt và hướng dẫn, (8) chấp nhận sứ điệp của chúng, (9) chấp nhận Kinh Thánh mà chúng đưa cho, (10) cùng công tác với chúng, (11) công tác vì chúng, (12) hỗ trợ chúng trong việc hoàn thành công tác và các niềm ao ước của lòng chúng, trong khi vẫn nghĩ rằng mình đang xoay qua Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời. Một điều phải lưu ý: “hễ anh em dâng mình làm nô lệ để vâng phục ai thì làm nô lệ của kẻ mình vâng phục” (Roma 6:16). Trên danh nghĩa, chúng ta có thể dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng nếu trong thực tế, chúng ta dâng mình cho các ác linh, chắc chắn chúng ta sẽ trở nên nô lệ của chúng. Dù chúng ta bị lừa dối, nhưng rõ ràng chúng ta đã dâng mình cho một thần giả dối. Vì vậy, chúng ta không có cách nào trốn tránh trách nhiệm. Tín đồ phải biết rằng nếu mình không thông công với Đức Chúa Trời theo tình trạng tương giao, nhưng lại thông công theo tình trạng quỷ ám, thì lời cầu nguyện của người ấy sẽ là lời cầu nguyện cho các ác linh, sự dâng mình của người ấy sẽ là sự dâng mình cho các ác linh và sự tin cậy của người ấy sẽ là tin cậy các ác linh. Trong lòng, người ấy nghĩ rằng mình đang thông công với Đức Chúa Trời và điều người ấy có được là đến từ Đức Chúa Trời, nhưng thực tế, người ấy đang thông công với các ác linh và chấp nhận “món quà” của chúng.
Chúng ta phải nhận thức các bước của diễn trình này. Vì các tín đồ tìm kiếm sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong cảm xúc và trong các kinh nghiệm khác (như chúng ta đã đề cập đến trong các phần Ba và Bảy) nên các ác linh lừa dối người ấy và cho người ấy điều giả mạo. Vì thiểu hiểu biết, người ấy mù quáng chấp nhận điều đó, nghĩ rằng đó là từ Đức Chúa Trời. Cho nên, người ấy tự đem mình vào trong sự thụ động. Khi tín đồ rơi vào trong sự thụ động, người ấy nghĩ rằng mình không cần chuyển động và Đức Chúa Trời sẽ chuyển động cho người ấy. Bởi vậy, người ấy không chuyển động. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời sẽ không chuyển động người ấy vì Ngài muốn người ấy chủ động hợp tác với Ngài. Đức Chúa Trời không muốn con người trở nên một cái máy vô cảm. Vì tín đồ thỏa đáp điều kiện để các ác linh công tác nên chúng dọn đến trên người ấy. Khi con người không chuyển động và Đức Chúa Trời không chuyển động, các ác linh sẽ dọn đến. Tín đồ phải biết rằng sau khi người ấy đã hiểu rõ ý muốn của Đức Chúa Trời trong trực giác của linh, thì toàn bản thể người ấy phải chỗi dậy để thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời cách chủ động, người ấy không được thụ động. Sau khi tín đồ bị quỷ ám, người ấy có thể thiếu hiểu biết về tình trạng thật của mình và xem mình là rất thuộc linh, có nhiều kinh nghiệm kỳ hiệu. Nhưng những ai được huấn luyện trong Chúa và sở hữu sự biện biệt thuộc linh đều biết rằng dù loại tín đồ này kinh nghiệm những điều kỳ diệu, nhưng người ấy có “nhân cách kép”. Nhân cách kép chính là dấu hiệu rõ ràng của việc bị quỷ ám.
NHÂN CÁCH KÉP
Nhân cách kép nghĩa là có hai nhân cách hoặc hai ông chủ bên trong một người. Điều này khác với người mới và người cũ mà chúng ta thường nói đến. Trong một người bị quỷ ám nghiêm trọng, chúng ta có thể thấy rõ đặc điểm của một “nhân cách kép”. Khi một người bị ám đến cực điểm, những người khác sẽ cảm thức rằng có một bộ não khác đang kiểm soát người ấy. Người ấy sẽ làm những  điều trái với bản chất của mình. Thân thể người ấy dường như bị một tác động bên ngoài chiếm hữu. Các dây thần kinh và cơ bắp của người ấy sẽ căng ra, co lại và run rẩy không theo chủ ý của người ấy. Miệng người ấy nói những lời mà người ấy không biết hoặc vừa mới biết, và giọng nói người ấy dường như thuộc về một người khác. Chúng ta có thể quan sát thấy được sự biểu lộ của ma quỷ đến và bước vào trong những người ngoại bị quỷ ám. Trước khi ma quỷ “đến”, người ấy yên lặng và bình thường, nhưng khi ma quỷ “đến”, người ấy lập tức thay đổi dáng điệu bình thường và hành động như một người điên. Từ điểm này, chúng ta có thể thấy một điều: khi một người bị quỷ ám, người ấy có một nhân cách kép. Ngoài thân vị của chính mình, còn có một người khác bên trong người ấy, sử dụng các quan năng khác nhau của hồn và thân thể. Khi các quỷ được biểu lộ, chúng hầu như tiếp quản mọi sự; mọi hoạt động đều thuộc về chúng và nhân cách riêng của người đó cũng không hoạt động nữa. Cho nên, sau khi các quỷ lìa khỏi, nhiều người không biết mình đã làm gì, nói gì hay biểu hiện gì khi có các quỷ ở đó. Lý do cho điều này là nhân cách của các quỷ hành động; nhân cách của chính người đó không tác nhiệm. Kết quả là nhân cách con người không biết hoặc hoàn toàn thiếu hiểu biết về những điều diễn ra trước đó
Tuy nhiên, “sự biểu lộ” của các quỷ đôi khi rất tao nhã. Các quỷ cũng thường khiến một người phát ngôn và hành động giống như một con người bình thường. Thật ra, nhân cách của các quỷ đang vận hành; nhân cách của con người đã ngừng hoạt động rồi. Trong loại biểu lộ này, chúng ta thường bị làm cho hiểu sai rằng đây là công tác của con người; chúng ta khó nhận thức được rằng đây là hoạt động của các quỷ. Chỉ khi nào các quỷ cư xử bất thường chúng ta mới có thể khám phá ra nhân cách kép trong một người
Khi các tín đồ bị quỷ ám, cũng có một nhân cách kép. Vì các mức độ bị ám khác nhau nên sự biểu lộ của nhân cách kép cũng khác nhau. Điều lạ lùng là ác ác linh kiểm soát mọi phần trong bản thể của những người bị lừa dối cách nghiêm trọng. Chúng khiến các tín đồ run rẩy, nóng lòng sốt ruột, và cho họ loại cảm giác kỳ lạ, quăng họ xuống đất, khiến họ nói những thứ tiếng lạ và đặt giọng nói chưa ai từng nghe vào trong tai họ và đặt khải tượng chưa ai từng nhìn thấy vào mắt họ. Đồng thời, các tín đồ này vẫn có thể rất bình an trong linh và có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Họ không biện biệt được và cho rằng vì họ có sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời nên các sự biểu lộ này chắc hẳn là ra từ Thánh Linh.
Họ không biết rằng: (1) Thánh Linh không bao giờ tiếp quản bất cứ phần nào của thân thể con người và dùng nó cho chính Ngài. Khi Paul nhìn thấy khải tượng, ông vẫn có thể kiểm soát chính mình và vẫn tự phát ngôn (Công 9:5). Khi Peter nhìn thấy khải tượng, tâm trí ông cũng sáng tỏ và ông có thể tự kiểm soát mình (10:9-17). Ngay cả khi John nhìn thấy khải tượng, ông cũng có thể kiểm soát chính mình. Đây là lý do tại sao ông có thể viết sách Khải Thị. Ban đầu, ông ngã xuống đất vì ông không thể chịu nổi ánh sáng của vinh hiển Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sau khi Chúa làm vững mạnh ông, ông đã chỗi dậy. Ông có thể nhớ những gì ông nhìn thấy. Điều này không giống như nhiều người ngày nay cứ khẳng định là mình đã bị Thánh Linh đánh ngã xuống đất mà không biết họ đang làm gì và họ đã kinh nghiệm được điều gì khi bị ngã xuống.
(2) Tín đồ có Thánh Linh cư trú trong linh mình, nhưng đồng thời thân thể người ấy vẫn bị các ác linh ám. Vì vậy, người ấy kinh nghiệm một nhân cách kép. Trong linh mình, người ấy có sự tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng các ác linh biểu lộ các công tác của chúng trong thân thể người ấy. Tín đồ đừng nghĩ rằng bất cứ điều gì đó ra từ Đức Chúa Trời chỉ vì mình đã có sự tương giao với Đức Chúa Trời trong linh. Người ấy phải nhận thức rằng vì đã được tái sanh, nên sự sống mới của người ấy luôn luôn có sự tương giao với Đức Chúa Trời. Có một điều chắc chắn: một nếp sống thật sự đầy dẫy Thánh Linh sẽ không bao giờ kinh nghiệm một nhân cách kép. Nhân cách kép chỉ tỏ rằng một người đang bị quỷ ám.
Với những ai ít bị lừa dối hơn thì nhân cách kép không rõ ràng như những người được đề cập ở trên. Đôi khi, một tín đồ có thể nhận thấy như có ai đó ở bên cạnh và bên ngoài mình đang nắm giữ các quan năng của mình. Nhiều ý tưởng không ra từ người ấy có thể ập đến dồn dập. Ý muốn người ấy dường như bị đồ đẫn, tê liệt, và không thể quyết định, lựa chọn hay quyết tâm. Khả năng suy tưởng và trí nhớ của người ấy dường như bị ai đó khóa chặt. Người ấy không thể ghi nhớ hay suy nghĩ về bất cứ điều gì. Lập luận của người ấy có phần bị lạnh cứng và người ấy không biết cách suy nghĩ hợp lý. Nhiều lời nói, hành vi và thái độ bất ngờ phát sinh ra mà ý muốn người ấy không hề cho phép và người ấy cũng nhận thấy mình không thể kiểm soát được ý muốn của mình. Đây là sự biểu lộ kín giấu của nhân cách kép.
Ý nghĩa của nhân cách kép là sự hiện hữu của hai thực thể độc lập, con người và nhân cách. Điều đó nghĩa là không cần vận dụng ý muốn để quyết định điều gì, hồn và thân thể, phần nào hoặc toàn bộ, cũng có thể bất ngờ tự chuyển động. Điều này nghĩa là bên ngoài ý muốn con người còn có một ý muốn khác, trực tiếp cai trị hồn và thân thể con người. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của các ác linh trong mình thêm vào ý muốn của mình. Một tín đồ bị quỷ ám là người có ý muốn của mình bị đàn áp và ý muốn của các ác linh cai trị trên người đó. Đây là nhân cách kép.
Khi một tín đồ có nhân cách kép, thì có hai loại quyền năng trong thân thể người ấy. Đôi khi Thánh Linh ban quyền năng của Ngài từ người bên trong của tín đồ, và đôi khi các ác linh điều khiển cho quyền năng của chúng đến từ người bên ngoài của tín đồ. Đôi khi Thánh Linh biểu hiện ân điển, sự chúc phước và ánh sáng của Ngài và đôi khi, các ác linh cũng phô bày công tác của chúng từ tín đồ là điều giả mạo công tác của Đức Chúa Trời. Chúng sẽ khiến người ấy nhìn thấy các khải tượng, cười cách hoang dại, ca hát lớn tiếng, khóc lóc buồn rầu hoặc cảm thấy một loại hạnh phúc đến lặng người dâng tràn khắp thân thể người ấy. Ngày nay có vô số công nhân có nhân cách kép này! Nhưng ít ai có thể biện biệt được các linh! Satan sẽ dùng loại người này để hoàn thành công tác của hắn. Vì nhiều điều họ làm là thuộc linh và của Đức Chúa Trời nên sau đó, các tín đồ sẽ bàn bạc rằng có điều ra từ Đức Chúa Trời giữa vòng những điều này và nói: “Chẳng phải những điều này rất tốt sao?” Các tín đồ quên rằng đây là công tác pha trộn của các ác linh.
Satan luôn luôn làm một công tác pha trộn. Nguyên tắc cho mọi công tác của hắn là gieo cỏ lùng giữa vòng lúa mì. Hắn không chỉ rao giảng các lời nói dối; hắn cũng rao giảng lẽ thật. Hắn dùng các lẽ thật để loan báo các lời nói dối. Hơn nữa, hắn sẵn lòng rao giảng các lẽ thật nhiều hơn các lời nói dối để âm mưu của hắn không bị vạch trần. Sau khi có được lập trường, hắn sẽ đảo ngược tỷ lệ ban đầu! Chúng ta có thể nhìn thấy sự pha trộn này trong nhiều buổi nhóm. Các tín đồ phải học cách biện biệt và chứng thực mọi điều này; nếu không, họ sẽ bị các công nhân có nhân cách kép tiêm nhiễm. Họ cũng sẽ rơi vào trong sự thụ động và bị quỷ ám.
(Nguồn: Người Thuộc Linh)