Câu Hỏi Số
1:
1.I Giăng 3:9,
“Ai sanh bởi Đức Chúa Trời, thì chẳng phạm tội, vì hột giống của Đức Chúa Trời
ở trong người, và người không thể phạm tội được, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời”
-Thưa Mục sư:
“Theo câu kinh thánh trên đây tuyên bố, con cái của Chúa chẳng phạm tội. Nhưng
theo kinh nghiệm bản thân và nhìn thấy đời sống nhiều tín đồ khác, mà tôi cảm
nhận chúng tôi đều là con cái chân thật của Đức Chúa Trời, mà tại sao chúng tôi
có phạm tội? Như vậy chúng tôi là Cơ Đốc nhân giả mạo hay tại làm sao mà chúng
tôi còn phạm tội?”.
-Mục sư đáp:
Theo nguyên văn Kinh thánh Tân ước Hi lạp, 1Giăng 3:9 chép, “Mọi người đã được
Đức Chúa Trời sinh ra không thực hành tội lỗi, vì cớ hạt giống của Đức Chúa
Trời ở trong người, và người không thể tự phạm tội, vì cớ người đã được Đức
Chúa Trời sinh ra”.
Tiếng Hi lạp là:
9 Πᾶς ὁ
γεγεννημένος ἐκ τοῦ θεοῦ ἁμαρτίαν οὐ
ποιεῖ, ὅτι
σπέρμα αὐτοῦ ἐν
αὐτῷ
μένει, καὶ
οὐ δύναται
ἁμαρτάνειν,
ὅτι ἐκ
τοῦ θεοῦ
γεγέννηται.
ποιεῖ: he/she/it is doing (practicing) - present
active 3rd singular--οὐ δύναται: he/she/it is not able (can not) -
present middle deponent 3rd singular--ἁμαρτάνειν: to sin - infinitive active sigular.
“Những ai đã
được sanh bởi DCT rồi thì không cứ thực hành/duy trì việc làm tội lỗi
bởi vì hạt giống của Ngài (Đức Chúa Trời) đang ở trong người, và người không
thể giữ việc phạm tội/ không có khả năng cứ lặp lại việc phạm tội vì người
đã được sanh bởi Đức Chúa Trời”. (Tạm dịch sát theo nguyên văn Hi lạp).
Thì present
nghĩa là keep doing/practicing something, middle deponent form thì ở dạng
middle nhưng ý nghĩa là active. Middle: là subject does an action with
self-interesting (chủ ngữ thực thi hành động mà hành động đó chủ ngữ đồng tham
dự vào/hoặc hành động phản hồi lại chủ ngữ)
Ví dụ: Judah tự
treo cổ mình. Động từ treo cổ là theo thể middle (ngụ ý tự treo cổ) chứ không
chỉ đơn thuần là treo cổ.
Thứ nhất, thành
ngữ “thực hành tội lỗi” là “is not
practicing sin” ( hay “is not doing sin”). Động từ “làm” (thực hành) tại đây ở
thì hiện tại, miêu tả hành động theo thói quen, liên tiếp xảy ra. Không thực
hành phạm tội không có nghĩa chúng ta không phạm tội trong những hành động theo
các cơ hội, nhưng chúng ta không sống trong tội lỗi.
Thứ hai, thành
ngữ “người không thể tự phạm tội” là động từ thì hiện tại, thể middle, ngụ ý
bản thân không thể sống trong tội lỗi theo thói quen.
Một tín đồ đã
được tái sinh, thỉnh thoảng có thể té ngã vào tội lỗi từng cơ hội, nhưng sự
sống đời đời như hạt giống thần thượng trong bản chất tái sinh của anh sẽ không
cho phép anh sống trong tội lỗi. Điều nầy tương tợ như con chiên: nó có thể bị
rơi xuống bùn, nhưng sự sống tinh sạch của nó không cho phép nó cứ lưu trú và
lăn lóc trong vũng bùn cách thoải mái như con heo.
1 Giăng 2:1
cũng nói thêm, “Hỡi con cái bé mọn ta, ta viết cho các con những điều nầy, hầu
cho các con có thể không phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu
thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Đấng công bình”. Câu
“có thể không phạm tội” và câu “nếu có ai có phạm tội” chỉ tỏ rằng các tín đồ
đã được tái sinh, những người có sự sống thần thượng, họ vẫn có thể phạm tội
từng lúc nếu họ không sống bằng sự sống thần thượng và cư ngụ trong sự tương
giao của sự sống ấy. Theo văn phạm Hi lạp, cụm từ “nếu có ai phạm tội” viết theo
thì Aorist subjunctive, bày tỏ một hành động đơn độc, có xảy ra cách dứt khoát,
không phải là một hành động theo thói quen hay tiếp diễn. Cụm từ nầy có thể
dịch là “có thể có phạm tội”.
Tóm lại, người
tín đồ có thể có phạm tội từng cơ hội, nhưng không có khả năng miệt mài, vui
sống trong tội lỗi cách thoái mái được. Còn ai miệt mài trong tội lỗi, người đó
là Cơ Đốc nhân giả mạo.
Câu Hỏi Số
2:
Ga-la-ti 5:19-21, “Vả, các việc làm của xác
thịt là rõ ràng lắm: Ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, thờ hình tượng, phù
phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, ganh gổ,
say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy. Tôi nói trước cho anh em,
như tôi đã nói rồi: Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng nước Đức
Chúa Trời”.
--Hỏi, “theo
tôi nghĩ, một miếng đất không thể trồng hai loại hạt giống. Nên có phải những
người vi phạm các việc làm như gian dâm, ô uế, luông tuồng..v..v.. như các câu
Kinh thánh nầy miêu tả là những người tín đồ giả mạo hay không, nên họ sẽ không
được vào nước của Đức Chúa Trời? Tôi có nghe một đầy tớ Chúa giải nghĩa như
vậy, nên tôi lo sợ cho sự cứu rỗi chắc chắc của mình lắm, vì thỉnh thoảng tôi
còn lầm lỗi như trên”.
Đáp, “Như tôi
đã nói trong 1 Giăng 3:9 trên đây, người tín đồ được tái sinh rồi, thỉnh thoảng
có thể phạm tội. Hành động phạm tội xảy ra cách dứt khoát, không phải là hành
động kéo dài thành tập quán.
Sự cứu rỗi của
người tín đồ là quà tặng của Đức Chúa Trời, không bao giờ bị bãi bỏ hay tiêu
mất (Giăng 10:28-29).
Xác thịt là sự
hoà lẫn của sự sống Sa-tan trong thân thể con người. Xác thịt là thân thể hư
hoại của người tín đồ. Xác thịt là sự biểu hiện của A-dam cũ. Sự sống của A-dam
cũ được biểu hiện cách thực tiễn trong xác thịt, và trong các công việc của xác
thịt, như những điều được tiết lộ trong các câu ở sách Ga-la-ti 19-21 trên đây,
là các phương diện khác nhau của một sự biểu hiện xác thịt, của một thân thể
đồi bại.
“Hưởng nước Đức
Chúa Trời” ám chỉ sự vui hưởng vương quốc sắp đến như là phần thưởng cho các
tín đồ đắc thắng. Nó không giống như sự cứu rỗi của người tín đồ, mà là phần
thưởng cộng thêm vào sự cứu rỗi miễn phí.
Người tín đồ
xác thịt, biểu lộ các công việc xác thịt trên đây, có thể mất nước ngàn năm, không
được vào nứơc ấy, nhưng vẫn còn được sự cứu rỗi đời đời.
Minh Khải