Định luật là một điều gì đó cứ xảy ra, cứ
lặp đi lặp lại không ngừng, và không thay đổi trong kết quả. Thí dụ tung chiếc
khăn tay lên không nó sẽ rơi xuống, dù ở Paris
hay Saigon , kết quả cũng luôn luôn giống nhau.
Đó là luật hấp dẫn của trái đất—trọng lực mà ông Newton đã khám phá.
Các định luật chi phối vũ trụ là những
nguyên tắc do Đức Chúa Trời cài đặt sẵn, nhân loại không có thể sáng chế ra
chúng, nhưng chỉ cần khám phá, phát hiện và biết chúng là gì. Những ai sống
trái ngược các định luật nầy sẽ bị thiệt hại, đôi lúc phải bỏ mạng.
Thánh Kinh có 66 sách, được hình thành trong
vòng 1600 năm. Khi hà hơi, cảm thúc, soi sáng cho 40 tác giả viết ra nó, Đức
Chúa Trời đã cài đặt các định luật để giải thích Kinh Thánh. Dân của Chúa không
thể sáng chế ra các định luật nầy, họ chỉ có thể tìm cách phát hiện chúng để
làm phương tiện giải nghĩa Kinh Thánh cách đúng đắn.
Các định luật nầy là các nguyên lý cấu tạo
Kinh Thánh, là các nguyên tắc cố định để nhờ đó chúng ta giải thích Kinh Thánh.
Những ai không sử dụng những định luật nầy, hoặc dùng những nguyên tắc sai lầm,
họ sẽ rơi vào tình trạng tối tăm thuộc linh, cực đoan hay tà giáo khi phân giải
Lời Đức Chúa Trời.
Trải lịch sử 2000 năm của Hội thánh, các tôi
tớ Chúa đã tìm ra khá nhiều định luật để giải nghĩa Kinh thánh. Trong bài viết ngắn
ngủi nầy, tôi chỉ ghi lại một số định luật giải kinh căn bản mà cá nhân tôi đã sử
dụng và cho là quan trọng nhất:
1.Luật
Về Lần Xuất Hiện Lần Đầu Tiên:
Ông Benjamin Wills Newton, bạn đồng công
đồng thời với John Nelson Darby đã tìm ra luật về lần xuất hiện đầu tiên trong
Kinh thánh vào đầu thế kỷ 19. Bất cứ từ ngữ, hay sự kiện nào xuất hiện lần đầu
tiên trong Kinh thánh đều là nguyên tắc giải nghĩa cho từ ngữ, sự kiện đó khi
chúng xuất hiện về sau.
Thí dụ Sáng thế ký 2:3, Đức Chúa Trời “thánh
hoá” ngày sa-bát. Từ ngữ “thánh hoá” xuất hiện lần đầu tiên tại đây, có nghĩa
là: “biệt riêng ra thánh, đặt làm thánh”. Những sự kiện xuất hiện lần đầu tiên
kèm với một nhân vật nào đó đều có ý nghĩa như Sáng thế ký chép La-ban thấy
khoanh vàng, Lót thèm thuồng nhìn cánh đồng Sô-đôm, cho nên nhiều tôi tớ Chúa
nói Sáng thế ký là mảnh đất gieo hạt giống lẽ thật cho cả bộ Kinh thánh. Nếu
anh em có làm nghề nông, trồng lúa nước, anh em sẽ biết đám mạ là gì. Sáng thế
ký như là đám mạ gieo mọi lẽ thật cho cả Kinh thánh, và Ma-thi-ơ là đám mạ phụ.
Anh em có thể tìm được manh nha hầu hết các lẽ thật của Kinh thánh trong hai
đám mạ đó. Giống như việc người ta nhổ mạ trong đám mạ và đem cấy trên cả diện
tích đất ruộng mình.
Thí dụ Sáng 2:22 chép sự xây dựng (to build)
ám chỉ sự xây dựng Hội thánh, sự ra đi của Nô-ê và Lót ám chỉ sự cất lên sớm và
cất lên trễ của tín đồ đắc thắng và tín đồ xác thịt.
2. Luật Văn Phạm:
Nói về luật văn
phạm là bàn luận về giống, về số nhiều nhiều hay số ít của danh từ, về các thì
của động từ, về số lần xuất hiện của từ ngữ nào đó bao nhiêu lần, và tại sao từ
ngữ nào đó xuất hiện tại một sách nào đó… Dân Chúa quá cẩu thả khi không chú ý chữ
“tội lỗi” số nhiều (sins) và “tội lỗi” số ít (sin) trong sách Rô-ma có ý nghĩa
gì. Các danh từ số nhiều như “vinh quang” (glories) ở 1 Phi-e-rơ 1:11, các con
sông (rivers) ở Giăng 7:38, chìa khoá (keys) ở Khải thị 1:18, đều có ý nghĩa mà
dân Chúa thường bỏ sót. Người chủ quan sẽ không thấy rõ là Khải Thị 8: chép về
phần biển thứ ba biến ra huyết chứ không phải một phần ba các biển bị tai vạ
đó. Người nào hiểu được các thì của hai động từ ở 1Giăng 2:1 và 3:9 sẽ dễ hiểu
hai câu Kinh thánh khó giải nghĩa nầy.
Có bao giờ anh em tìm hiểu tại sao chữ “ăn
ở” (bước đi—to walk) xuất hiện 8 lần trong thơ Ê-phê-sô hơn các sách sách khác
không? Tại sao thơ Cô-lô-se thường chép về “sự khôn ngoan”, “sự thông biết” và
“tri thức”, còn Ga-la-ti lại thường chép về “ân điển” và “luật pháp”? Ai hiểu
được các lý do đó thì đã nắm được luật văn phạm góp phần giải kinh các sách đó
rồi.
3. Luật Về Hình Bóng Học:
Hình bóng là cái bóng của cái hình, là cái
ảnh của hình thật. Chân dung chúng ta mà máy chụp hình chụp ra, thì người Bắc
gọi là ảnh, người Trung gọi là bóng và người Nam gọi là hình. Cựu ước là cuốn
sách hình và Tân ước là lời minh hoạ, lời thuyết minh cho các bức ảnh đó.
Đây là một định luật quan trọng để giải
nghĩa Kinh thánh xác đáng. Có rất nhiều hình, ảnh, bóng trong lịch sử Israel ,
như các của lễ, đền tạm, đền thờ. Luật pháp về lễ nghi…v..v mà thực tại, sự
thực của các hình ảnh đó là Đấng Christ, là Đức Thánh Linh, là Hội thánh, và là
sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Cô-lô-se 2:16-17 chép “Vậy nên, chớ để ai xét
đoán anh em về đồ ăn đồ uống, hoặc ngày lễ hoặc ngày trăng non, hoặc ngày sa
bát. Ấy
đều là bóng của những sự sẽ đến, còn thể thì là Đấng Christ”. Tôi đã bàn luận về hình bóng học cách khá đầy
đủ trong link dưới đây:
4. Luật Về Lời Tiên Tri:
Sách 1 Cô-rinh-tô 10:32 phân định cả nhân loại
được chia làm ba loại người: - người Do-thái, người Hi-lạp và Hội thánh. Người
Do- thái là dân Israel ,
người Hi lạp đại diện các dân tộc ngoại bang. Cho nên các lời tiên tri trong
toàn bộ Kinh thánh phải được giải nghĩa và áp dụng cho đúng ba đối tượng trên. Phao-lô
khuyên phải “phân giải lời của lẽ thật cách ngay thẳng”. Tiếng Anh câu nầy là,“
cutting straight the word of the truth”. (2 Tim. 2;15 Bản RcV)
Tôi nói như vậy vì tôi thấy nhiều người
cượng giải thí dụ về chiên và dê ở Ma-thi-ơ 25:31-46 cho Hội Thánh. Thực ra lời
tiên tri đó dự ngôn về các dân tộc ngoại bang còn sống sót sau cơn đại nạn.
Người thợ mộc phải xẻ gỗ thật ngay ngắn,
đúng theo mực thuớc, không sai lệch được, thì chúng ta cũng phải phân giải lời
Chúa ngay thẳng như vậy. Lời tiên tri nào của hội thánh, của Israel hay của người ngoại, ta phải
nói rõ cách đúng đắn. Ma-thi-ơ 25:1-31 dự ngôn về Israel, 24:32-25:30 nói về
Hội thánh, và 25:31-46 là luận về dân
ngoại bang. Phần nhiều lời tiên tri trong các sách Cựu ước đều liên quan đến
dân Israel .
Chúng ta phải phân biệt cách thẳng thắn lời tiên tri nào thuộc về dân Israel,
thuộc về Hội Thánh và thuộc về các dân ngoại bang thì sự phân giải kinh Thánh
của chúng ta mới chính xác.
Mời anh em tham khảo bài viết của tôi về ba
hệ thống lời tiên tri trong Kinh Thánh trong link sau đây:
5. Luật Về Lời Bạc Và Lời Vàng:
Dù Kinh thánh có chép lời của loài người như
gần hết sách Gióp, các sách lịch sử…v..v.., nhưng cả Kinh thánh đều là Lời Đức
Chúa Trời. Kinh thánh Cựu ước có nhiều chương là lời từ miệng Đức Chúa Trời
phán ra, và Tân ước có nhiều chương là lời nói của Chúa Jesus, còn đa phần Kinh
thánh chép lời của loài người nói. Nhưng Đức Thánh Linh hà hơi, cảm thúc, mặc
khải, cai trị cho các người chép, do đó lời chép lại được hà hơi đó trở thành
bộ Kinh thánh hiện tại. Đó là Lời Đức Chúa Trời chân xác. Các tạp chất, các lời
của Sa-tan, của loài người cũng được Chúa cảm thúc khi được ghi chép lại cách chính
xác. Kết quả sự chép lại là Kinh Thánh, là Lời Đức Chúa Trời.
Dù cả Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời, nhưng
chúng ta phải phân biệt lời bạc và lời vàng trong Kinh thánh. Cả hai lời bạc và
lời vàng cũng đều là Lời Đức Chúa Trời. Nhưng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, dầu
là lời trọng yếu, mà không phải là chủ đề chính của Kinh thánh. Những tư tưởng
trung tâm của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh như mục đích đời đời, nghị quyết
thần thượng, kế hoạch của Đức Chúa Trời, sự sống và sự xây dựng, thành thánh
Jerusalem mới là lời vàng của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh, còn các điều phụ
thuộc như sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, lịch sử dân Israel đều là lời bạc của
Đức Chúa Trời. Khi giải kinh, chúng ta phải phân biệt đâu là ý chỉ nguyên thuỷ,
tiền định của Đức Chúa Trời có từ trước các thời đại, và đâu là ý chỉ cho phép
của Đức Chúa Trời kể từ khi Lucifer sa
ngã.
Thí dụ 1: 2 Ti-mô-thế 1:9 chép, “Ấy là Đấng
đã cứu chúng ta, đã gọi chúng ta bởi ơn kêu gọi thánh, chẳng phải theo công
việc của chúng ta, bèn là theo chỉ định (mục đích) và ân điển của Ngài, là ân
điển đã ban cho chúng ta trong Christ Jêsus từ trước muôn đời”. Chúa đã kêu gọi
chúng ta bởi mục đích và bởi ân điển của Ngài. Lời vàng là sự kêu gọi theo mục
đích đời đời. Còn sự kêu gọi theo ân điển cứu rỗi là lời bạc.
Thí dụ 2: Ê-phê-sô 5:23, “Vì chồng là đầu vợ,
cũng như Đấng Christ là đầu Hội thánh, chính Ngài cũng là Cứu Chúa của Thân Thể”.
Đầu hội Thánh là lời vàng. Cứu Chúa của Thân thể là lời bạc.
Thí dụ 3: các ý tưởng của các Thi thiên 2,
8, 16, 22, 23, 24, 45, 68, 72, 110…là lời vàng vì chúng luận về Đấng Christ.
Các ý tưởng của các Thi thiên 10, 11,12, 13, 14, 15…là lời bạc vì chúng bàn về
các quan niệm của người kỉnh kiền Cựu ước, về cây tri thức thiện ác….
Cuối cùng anh em sẽ khám phá rằng Kinh thánh
chép nhiều về lời bạc mà ít chép về lời vàng. Lời vàng nói về bản thể Đức Chúa
Trời, thân vị Ngài, những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, còn lời bạc nói về
công tác và đường lối của Ngài.
6. Luật Về Sự Khác Biệt Giữa Cựu Ước Và Tân
Ước
Định luật nầy rất quan hệ khi giải nghĩa
Kinh Thánh. Nhiều tín đồ không phân biệt Cựu ước và Tân ước. Nhiều người chủ
trương loại bỏ Cựu Ước, người khác ứng dụng cả Cựu ước theo nghĩa đen. Đó là lý
do tại sao họ còn tuân giữ ngày sa-bát, kiêng cử thịt cá và chỉ ăn trái cây. Có
kẻ đi quá đà là giữ lễ Vượt qua và phép cắt bì.
Ban đầu Đức Chúa Trời ban ân điển cho
Áp-ra-ham. Sau đó 430 năm, Ngài ban luật pháp cho dân Israel . Luật
pháp canh giữ Israel
suốt 1500 năm, để vạch trần bản chất ô tội của họ, để họ nhìn nhận mình là tội
nhân. Khi nhận mình là bất lực, không tuân giữ luật pháp nỗi, họ sẽ tiếp nhận
Chúa Jesus là ân điển.
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời ban cho
các điều răn, điều luật về luân lý, đạo đức. Dân chúng thời đó thất bại, không
thể tuân hành, nên Ngài cũng ban cho họ các điều luật về lễ nghi, về các của
lễ, để nhờ đó họ bù đắp, được cứu rỗi khỏi các sai phạm đối với các qui luật
đạo đức kia và được phép đến cùng Đức Chúa Trời. Khi Đấng Christ đến, Ngài làm ứng nghiệm, thay thế và bãi bỏ các
điều luật lễ nghi, người tin Chúa chỉ cần tiếp nhận Chúa Jesus để sống cuộc đời
cao hơn luật đạo đức Cựu Ước.
Đó là vài lời tóm tắt về sự khác biệt giữa
Cựu Ước và Tân Ước. Người giải kinh phải nắm giữ các điểm nòng cốt đó khi giải
nghĩa Kinh thánh, nếu không người ấy sẽ rơi vào mê hồn trận của Cựu ước và sự
tối tăm không lối thoát.
Mời anh em xem thêm điều nầy ở link:
7. Luật về Chủ Đề Chính Của Kinh Thánh--Đấng
Christ và Hội Thánh
Một định luật sâu xa khác là chúng ta phải
giảng giải Kinh Thánh với chủ đề chính là “Đấng Christ và Hội Thánh”.
Ngay cả hai chương đầu của sách Sáng thế Ký
nên được giải thích theo luật chủ đạo nầy. Trong Sáng thế Ký 1:26, chúng ta
thấy Đấng Christ là hình ảnh của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã sáng tạo con
người theo hình ảnh của Ngài trong Sáng thế Ký 1:26, và trong Tân Ước, Cô-lô-se
1:15 bảo chúng ta mang hình ảnh của Đấng Christ. Trong Sáng thế Ký 2: 9 chúng
ta thấy cây sự sống liên quan đến Đấng Christ. A-đam cũng là biểu hiệu của Đấng
Christ, là Đầu tất cả mọi loài thọ tạo của Đức Chúa Trời. Hình ảnh của Đức Chúa
Trời ở bên ngoài, và sự sống của Đức Chúa Trời ở bên trong. Nếu anh em giải
nghĩa phần nầy với Đấng Christ, anh em đang đi đường đúng đắn. Với vợ của A-đam,
chúng ta thấy Hội thánh (Sáng. 2:21-25).
Hai chương đầu của Kinh thánh cho chúng ta thấy Đấng Christ với Hội Thánh.
Hai chương đầu chi phối toàn bộ Kinh Thánh.
Sau hai chương nầy, con người sa ngã, đó là câu chuyện khác. Rồi chủ đề chính
của Kinh thánh xuất hiện trong hai chương tổng kết của Kinh Thánh—Khải thị
21-22. Bốn chương ở phần khởi đầu và phần kết luận của toàn bộ Kinh thánh tương
xứng với nhau. Tất cả đều nói về Đấng Christ và Hội thánh. Sáng thế ký 1-2 nói
về A-đam và Ê-va, Khải thị 21-22 nói về
Chiên Con và Thành thánh, tất cả đều làm biểu hiệu cho Đấng Christ và Hội thánh.
Cũng vậy toàn bộ Kinh thánh giữa bốn chương nầy nên được giải thích theo định luật
chủ đề chính--Đấng Christ và Hội thánh. Mặc dù có nhiều điều tiêu cực xảy ra,
nhưng theo cách gián tiếp, chúng đều có liên quan Đấng Christ và Hội thánh.
Tôi có bài thơ trình bày Đấng Christ và Hội
thánh trong phần lớn bộ Kinh thánh Tân Cựu Ước như sau:
Nàng là ai, mà xiêm y lộng
lẫy,
Ngồi
lạc đà từ Pha đan đi lên,
Trang
điểm ngọc ngà, vẻ đẹp tăng thêm,
Gặp tân
lang khi hoàng hôn buông xuống?
Rê-be-ca, người Y-sác suy tưởng,
Cưới
đem vào ở nhà trại mẹ mình,
Nàng là
hội thánh dân ngoại tái sinh,
Được
vào dự phần giao ước Do-thái.
Nàng là ai, gốc gác từ dân ngoại,
Kết
duyên lành Giô-sép, vị quyền uy,
Ách-nát
ra khỏi thế giới thần kỳ,
Là hội
thánh được kêu gọi tỏ rõ.
Nàng là ai, sống giữa đồng hoang khổ,
Vợ
Môi-se, ấy chính Sê-phô-ra,
Hội
thánh giữa trần gian phải trải qua,
Nhưng
Chúa bảo vệ nàng và nuôi nấng.
Nàng là ai, mà cuộc đời phá sản,
Sánh
duyên người có quyền thế chuộc mua,
Chuyện
tình Bô-ô - Ru-tơ thuở xưa,
Huyền
nhiệm lớn--Christ và hội thánh.
Ốt-ni-ên cưới vợ bằng trận đánh,
Là
Ạc-sa, dường hội thánh biết xin,
Cùng
Chúa thừa kế sản nghiệp thuôc linh,
Ấy
chính là Đức Chúa Trời tam nhất.
A-bi-ga-in, nữ lưu đẹp nhất,
Kết
duyên cùng vua Đa-vít cao sang,
Cùng
chồng dấn thân vào chốn chiến tràng,
Tượng
trưng hội thánh theo Christ chiến đấu,
Su-la-mít mà quân vương yêu dấu,
Chính
là hội thánh từng bước đổi thay,
Từ ngựa
giỏi đến thành thánh ngay nay,
Tất cả
nhờ Chúa dày công tạo tác.
Nàng là ai mà Chúa tìm kiếm nhất?
Là hội
thánh vinh hiển không vết tì,
Là Thân
Thể của Đấng Christ quyền uy,
Là Cô
Dâu đẹp xinh ngày lễ cưới-
Đáng chúc tạ Đức Chúa Trời vô đối,
Vinh
quang danh Chúa đến ngàn muôn đời.
Bài
thơ nầy cho chúng ta thấy Đấng Christ và Hội
thánh là chủ đề chính của cả bộ Kinh thánh. Chúng ta cũng nên áp dụng luật về
chủ đề chính--Đấng Christ và Hội thánh
khi giải nghĩa các sách Nhã Ca, Ô-sê, Thi Thiên 45, Ê-sai 54, Mathiơ 9,
Giăng 3:…v..v..Chúng ta sẽ có nhiều ánh sáng và sự sống khi giải kinh.
Kết luận:
Lu-ca đã ghi lại
câu chuyện Chúa Jesus giải nghĩa Kinh thánh rất sống động cho hai môn đồ đi về làng
Em-ma-út trong 24:25-27 như sau, “Jêsus bèn phán
rằng: “Hỡi kẻ ngu dại, có lòng chậm tin mọi lời các tiên tri đã nói! Há chẳng cần cho Đấng Christ phải chịu những
nỗi khổ ấy, rồi vào vinh hiển Ngài sao? Đoạn, Ngài bắt đầu từ Môi-se đến các
tiên tri mà giải nghĩa cho họ những điều chỉ về Ngài trong cả Kinh thánh”. Chúa
là tác giả Kinh thánh nên khả năng giải kinh của Ngài rất siêu phàm. Khoảng
đường từ Jerusalem
đến Em-ma-út dài chừng 12 cây số. Con người bình thuờng đi bộ một giờ chừng 4
cây số. Nên ít nhất Chúa cũng dùng hai giờ đồng hồ giải nghĩa những điều chép
về Ngài trong Cựu ước cho họ.
Lời giải kinh theo đúng chủ đề chính của
Kinh thánh đem lại ánh sáng, sự nóng cháy, sự sống mới mẻ trong lòng, đến nỗi
hai môn đồ nầy bỏ dở bữa ăn tối và trở lại Jerusalem ngay để thuật lại sự việc
cho 11 sứ đồ và các môn đồ khác biết. Chúa lại hiện ra cho 11 sứ đồ và hai môn
đồ đó. Ngài mở tâm trí cho họ hiểu Kinh Thánh. Anh em nghĩ rằng hai môn đồ đó
có thuật lại nội dung bài giải kinh của Chúa cho các sứ đồ và môn đồ ở Jerusalem nghe chăng?
Tôi tin rằng nếu anh em giải nghĩa Kinh
thánh theo 7 định luật trên đây, anh em sẽ lãnh hội nhiều sự sống và ánh sáng
thần thượng. Nguyện Chúa mở tâm trí chúng ta và giúp chúng ta sở đắc luật giải
kinh thuần chính, thuộc linh hầu đem lại phước hạnh vô vàn cho Hội Thánh ngày
nay. Amen.
Minh Khải—06-01-2014