Có lẽ thơ Hê-bơ-rơ được viết ra khoảng năm 67 S.C. Sau 20 thế
kỷ, cuộc tranh luận về tác quyền của thơ Hê-bơ-rơ vẫn chưa ngã ngũ. Chúng ta
không thể xác quyết Phao-lô là tác giả thơ tín nầy, dù trong các ứng viên mà các
học giả đề nghị như A-bô-lô, Phi-líp, Bê-rít-sin, Lu-ca ….thì ông là người sáng
giá nhất, có nhiều tư cách nhất. Nhưng chúng ta không thể xác quyết ông là tác
giả thơ nầy. Có bảy sách trong Tân Ước mà giáo hội nghị Hội Thánh chậm phê chuẩn
là Lời Đức Chúa Trời, trong đó có thơ Hê-bơ-rơ. Những sách nầy là: Gia-cơ,
Hê-bơ-rơ, 2 và 3 Giăng, 2 Phi-e-rơ, Giu-đe và Khải-Thị của Giăng. Các sách nầy
được Giáo hội nghị năm 397 S.C. nhóm họp tại Carthage, Tunisia, Bắc Phi Châu,
công nhận là một phần của kinh điển Tân ước. Trong thơ Hê-bơ-rơ nầy có một điều
rất khó hiểu, tôi xin trình bày như sau:
Hê-bơ-rơ 4:9,11 “Vậy thì còn lại
một sự nghỉ ngơi sa-bát cho dân Đức Chúa Trời--Vậy, chúng ta phải gắng sức vào
sự yên nghỉ đó, hầu cho không có một người nào trong chúng ta theo gương kẻ
chẳng tin kia mà vấp ngã”.
Lẽ thật về sự an nghỉ sa-bát rất là rối rắm,
gây khó hiểu cho Cơ Đốc nhân hôm nay. Vì có đến vài ba sự an nghỉ
sa-bát.
1- Đây không phải là sự an nghỉ sa-bát mà giáo hội Cơ Đốc Phục
Lâm An Thất Nhật rao giảng. Sự an nghỉ sa-bát mà họ tin là sự an nghỉ vào ngày
thứ bảy mỗi tuần lễ hôm nay, y như sự tuân thủ ngày sa-bát trong thời Cựu Ước.
Sự dạy dỗ nầy đã lỗi thời đối với ánh sáng cập nhật của Tân-ước. Trong bốn sách
phúc âm có chép chừng 5 lần Chúa Jêsus cố ý bãi bỏ quy luật tuân giữ ngày sa-bát
trong Cựu- ước trong các chỗ như: Ma-thi-ơ 12:9-12; Mác 3:1-6; Lua-ca 13:10-17;
Giăng 5:5-18; 9:1-16.
2- Hê-bơ-rơ 3:9-11, 16-19, “Là nơi tổ phụ các ngươi
thử Ta, dò Ta, và thấy công việc Ta bốn mươi năm. Cho nên Ta chán phiền dòng dõi
nầy, và phán rằng: 'Trong lòng họ lầm lạc luôn, Chẳng từng biết đường lối Ta.'
Ta bèn thề trong thạnh nộ Ta rằng: 'Họ sẽ chẳng hề vào sự nghỉ ngơi của
Ta!'--Vậy, ai là kẻ nghe, rồi chọc tức? Há chẳng phải hết thảy những kẻ đã nhờ
Môi-se mà ra khỏi Ai-cập sao? Lại Ngài chán phiền ai trong bốn mươi năm? Há
chẳng phải những kẻ phạm tội, mà thây họ đã ngã trong đồng vắng sao? Ngài lại
thề với ai rằng không được vào sự nghỉ ngơi của Ngài? Há chẳng phải với những kẻ
không vâng phục sao?
Dường ấy, chúng ta thấy họ không thể vào đó được vì
cớ vô tín”
Phần Kinh thánh trên đây nói về sự an nghỉ trong miền đất tốt
lành, là mục tiêu của con cái Y-sơ-ra-ên mà đã được cứu chuộc và giải phóng ra
khỏi Ai-cập. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ nói: “Lại Ngài chán phiền ai trong bốn mươi
năm? Há chẳng phải những kẻ phạm tội, mà thây họ đã ngã trong đồng vắng sao?
Dường ấy, chúng ta thấy họ không thể vào đó được vì cớ vô tín” (Hê-bơ-rơ 3:17,
19).
Trong thế hệ thứ nhất, có trên 600 ngàn người nam trên 20 tuổi ra
khỏi Ai-cập vào buổi tối lễ Vượt-Qua đầu tiên. Nhưng chỉ có Ca-lép và Giô-suê
được vào đất hứa an nghỉ. Dân-số-ký 14: 28-35 cho chúng ta biết thêm phán quyết
của Đức Chúa Trời trên 600 ngàn người nầy như sau: “Hãy nói với dân chúng: Đức
Giê-hô-va nói rằng: Ta chỉ sự hằng sống ta mà thề, Ta sẽ đãi các ngươi tùy theo
lời Ta đã nghe các ngươi nói; những thây các ngươi sẽ ngã nằm trong đồng vắng
nầy. Các ngươi mà người Ta đã tu bộ, hết thảy bao nhiêu cũng vậy, từ hai mươi
tuổi sắp lên, là những kẻ đã lằm bằm cùng Ta, thì chẳng hề được vào xứ mà Ta đã
thề cho các ngươi ở, ngoại trừ Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê, và Giô-suê, con
trai của Nun. Nhưng Ta sẽ đem vào xứ những con trẻ của các ngươi mà các ngươi có
nói rằng: Chúng nó sẽ bị làm một miếng mồi; rồi chúng nó sẽ biết xứ các ngươi đã
chê bai. Còn những thây các ngươi sẽ ngã nằm trong đồng vắng nầy. Con cái các
ngươi sẽ chăn chiên nơi đồng vắng trong bốn mươi năm, và sẽ mang hình phạt vì
tội thông dâm của các ngươi, cho đến chừng nào thây của các ngươi đã ngã rạp hết
trong đồng vắng. Các ngươi đi do thám xứ bao nhiêu ngày, nghĩa là bốn mươi ngày,
thì các ngươi cũng sẽ mang hình phạt vì tội gian ác mình bấy nhiêu năm, nghĩa là
bốn mươi năm, một năm đền cho một ngày; bấy giờ các ngươi sẽ biết Ta đã xây khỏi
các ngươi. Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán: Ta sẽ làm điều nầy cho cả hội chúng hung
dữ nầy đã hiệp lại nghịch cùng Ta; chúng nó sẽ bị hao mòn và chết tại trong đồng
vắng nầy” (Bản Truyền Thống).
Khi tác giả thơ Hê-bơ rơ viết những lời trong
chương 3 và 4 nầy, án lệnh của Chúa đã được thi hành trên dân Y-sơ-ra-ên Cựu ước
xong rồi. Vậy ông viết chương 3 và 4 nầy, nhất là câu 4:9: “Vậy thì còn lại một
sự nghỉ ngơi sa-bát cho dân Đức Chúa Trời” với ngụ ý gì? Ông muốn cảnh cáo toàn
bộ Cơ Đốc nhân Do thái, cơ đốc nhân ngoại bang vào thời của ông. Họ có thể phạm
tội, vô tín, bất phục mà sẽ bị ngã chết trong đồng vắng tâm lý (thuộc hồn) không
được vào sự an nghỉ sa-bát trong vương quốc 1000 năm của Đấng Christ, và tôi tin
lời cảnh cáo mạnh mẽ nầy cũng được áp dụng cho chúng ta, là Cơ Đốc nhân từ các
dân tộc trên toàn thế giới ngày nay. Tôi có ngụ ý tín đồ nào còn sống trong thân
xác đây mà đã sa ngã trong hồn, làm mọi cho bản ngã, thì người đó vẫn còn được
cứu, nhưng sẽ bị hình phạt trong nơi khóc lóc và nghiến răng, chứ không được vào
Vương quốc Đấng Christ.
Theo Lời Chúa phán trong Dân-số ký 14 trên đây,
thế hệ thứ hai đều được vào đất hứa. Nhưng trong lập luận của tác giả Hê-bơ-rơ,
ông chỉ chú ý đến 600 ngàn người nam ra khỏi Ai-cập ( cũng ngầm ý 600 ngàn bà
vợ) là hình ảnh tiểu biểu mà ông muốn dùng để cảnh cáo Cơ Đốc nhân Tân ước coi
chừng không được vào vương quốc. Trong các chỗ khác Tân ước cũng chỉ nhấn mạnh
bức tranh ngã chết trong sa mạc của thế hệ thứ nhất. Thí dụ: 1 Cô-rinh-tô 10:5,
“Song phần nhiều trong vòng họ không đẹp lòng Đức Chúa Trời, nên đã ngã chết nơi
đồng vắng”.- Giu-đe câu 5, “Dầu anh em đã học những điều nầy rồi, tôi cũng muốn
nhắc lại cho anh em rằng, xưa kia Chúa giải cứu dân mình ra khỏi xứ Ê-díp-tô,
sau lại tiêu diệt những kẻ không tin”. Tại sao Phao-lô và Giu-đe nhắc lại tình
trạng ngã chết của dân ra khỏi Ai-cập, tất cả chỉ để cảnh cáo chúng ta hãy cẩn
thận kẻo sa ngã. Và theo lập luận của Phao-lô ở 1 Cô-rinh-tô 9:27, ông cũng “e
rằng sau khi tôi đã giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải bị bỏ chăng”. Theo
nghĩa đen chữ “ bị bỏ” ở đây là : disapproved, disqualified. Ông sợ rằng cuối
cùng ông bị Chúa loại bỏ tại toà án của Ngài, và ông không được vào vương quốc.
Cho nên trong Hê-bơ-rơ chương 4, tác giả chỉ nhấn mạnh hình ảnh những người ngã
chết mà thôi. Chỉ nên ứng dụng một vài phương diện của một hình ảnh thí dụ trong
Cựu ước mà thôi. A-đam là tiêu biểu của Đấng Christ, nhưng không thể áp dụng
phương diện A-đam phạm tội cho Ngài được, chỉ áp dụng những mặt tích cực mà
thôi. Thì ở đây cũng vậy.
Các bạn dám quả quyết rằng mình sẽ được vào sự
an nghỉ sa-bát trong vương quốc Đấng Christ nay mai không? Danh từ “sa-bát” có
nghĩa là “sự an nghỉ”. Tôi thấy có ba sự an nghỉ sa-bát dành cho con dân của
Chúa như sau:
a/ Sự an nghỉ trong tâm linh, trong tâm hồn và trong tấm
lòng khi chúng ta đến với Chúa Jêsus, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chúa của
mình. Chúa phán hứa, “Hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ
cho các con được an nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:28).
b/ Sự an nghỉ sa-bát trong
vương quốc thiên hi niên:-- Chúa và các sứ đồ miêu tả sự an nghỉ trong vương
quốc như sau: “Ta bảo cho các ngươi biết: Từ đông phương, tây phương sẽ có nhiều
người đến ngồi cùng bàn với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp trong vương quốc thiên
đàng”(Ma-thi-ơ 8:11). Trong bản Kinh thánh Hi-lạp văn song ngữ hay Anh văn như
bản King James, động từ “ngồi” ở đây là recline, có nghĩa là nằm dựa cách thoải
mái. Ma-thi-ơ 25:21 ghi: “Chủ nói với người rằng: 'Đầy tớ lương thiện trung tín
kia ơi, tốt lắm! Ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, Ta sẽ đặt ngươi trên việc
lớn; hãy vào sự vui mừng của chủ ngươi.” 2 Phi-e-rơ 1:11 ghi, “nhờ đó, con đường
vào vương quốc đời đời của Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ
được rộng mở cho anh em”.
Dự an nghỉ nầy trước hết dành cho người Do thái
chưa tin và Cơ Đốc nhân Do thái, vì Chúa nói,” Nhưng các con bổn quốc sẽ bị
liệng ra chốn tối tăm ở ngoài, tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng” (Ma-thi-ơ
8:12). Các con bổn quốc là dân Do thái nói chung. Những độc giả của thơ Hê-bơ-rơ
là Hội Thánh Do-thái đương thời với tác giả. Còn trong thơ Ga-la-ti do Phao lô
viết cho các Hội Thánh dân ngoại tại xứ Ga-la-ti, ông có nói, “Vả, các việc làm
của xác thịt là rõ ràng lắm: Ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, thờ hình tượng,
phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng,
ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy. Tôi nói trước cho
anh em, như tôi đã nói rồi: Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng
nước Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 5:19-21).
Tác giả thơ Hê-bơ-rơ kết luận
cách mạnh mẽ, “Vậy, chúng ta phải gắng sức vào sự yên nghỉ đó, hầu cho không có
một người nào trong chúng ta theo gương kẻ chẳng tin kia mà vấp ngã” (4:11). Vấp
ngã là ngã chết trong đời sống thuộc linh mà theo tác giả, đó là không được vào
vương quốc.
Các bạn đừng tưởng rằng việc vào nước 1000 năm của Đấng
Christ là việc đương nhiên và dễ dàng cho mọi người tin Chúa. Chỉ những tín đồ
đắc thắng như Ca-lép và Giô-suê mới được vào đó cách thảnh thơi. Đại đa số dân
Chúa bị quăng vào nơi khóc lóc và nghiến răng. Đó không phải là ngục luyện tội
hay hồ lửa. Thí dụ Ma-thi-ơ 25:30, “Còn tên đầy tớ vô ích kia, hãy ném nó ra chỗ
bóng tối bên ngoài, nơi đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng”, hoặc Lu-ca 12:45-47:
“Nhưng nếu đầy tớ ấy tự nhủ: ‘Chủ ta chưa về ngay đâu,’ nên bắt đầu đánh đập tôi
trai, tớ gái, rồi ăn uống say sưa. Chủ nó sẽ đến trong ngày nó không ngờ, trong
giờ nó không biết, sẽ trừng phạt nó nặng nề và cho nó đồng số phận với kẻ bất
trung. Đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng và không làm
theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nặng. Nhưng đầy tớ nào không biết ý chủ, mà làm việc
đáng phạt, thì sẽ bị đòn nhẹ. Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại
nhiều; và ai đã được giao cho nhiều hơn, thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”. Ma-thi-ơ
8:12 cũng chép,“Nhưng các con của vương quốc lại bị ném ra chỗ bóng tối bên
ngoài, nơi sẽ có than khóc và nghiến răng.” Theo tôi tin, đó là nơi sửa phạt kỷ
luật trong thời gian vương quốc 1000 năm, dành cho các đầy tớ bất trung của
Chúa. Chúa gọi họ là “đầy tớ” thì ngụ ý họ không phải là người vô
tín.
c/ Sự an nghỉ sa bát trong trời mới và mới: 1 Cô-rinh-tô
15:24-27 chép: “Đoạn, cuối cùng đến, là lúc Ngài sẽ giao nước lại cho Đức Chúa
Trời là Cha, sau khi Ngài đã bãi bỏ mọi chấp chánh, mọi quyền bính, và mọi thế
lực. Vì Ngài cần phải làm Vua cho đến chừng Đức Chúa Trời đem mọi thù nghịch để
dưới chân Ngài. Thù nghịch bị diệt trừ sau cùng là sự chết. Vì có chép:“Đức Chúa
Trời đã khiến muôn vật đều phục dưới chơn Ngài.” Mà đã nói rằng:“Muôn vật đều
phải phục Ngài,” thì rõ ràng phải trừ ra Đấng khiến muôn vật phục Ngài. Khi muôn
vật đã phục Ngài, thì bấy giờ chính Con cũng sẽ phục Đấng đã khiến muôn vật phục
mình, hầu cho Đức Chúa Trời làm mọi sự trong mọi sự”. Khải- thị 22:3-5 chép:
“Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa, nhưng ở trong thành có ngai của Đức Chúa Trời
và Chiên Con, các đầy tớ Ngài sẽ phụng sự Ngài, được thấy mặt Ngài và danh Ngài
sẽ ở trên trán của họ. Đêm không còn có nữa; họ không cần ánh sáng đèn hay ánh
sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ sáng toả họ, và họ sẽ làm vua cho đến
đời đời vô cùng”.
Có một tôi tớ Chúa có thiện ý khi góp ý với tôi những lời
sau đây.“Theo ý tôi, để cho “công bằng”, nên kể thêm một sự yên nghỉ nữa (vào 3
sự an nghỉ trên đây) : Sự yên nghỉ của ngày Thứ Bảy, đó cũng là điều mà thư
Hê-bơ-rơ có nhắc đến trong 4:4,10”.
Lời của hai câu 4 và 10 của Hê-bơ-rơ
chỉ là lập luận của tác giả. Vì vào thời đểm tác giả viết thơ nầy, sự an nghỉ
sa-bát Cựu uớc đã qua, không còn áp dụng cho Hội Thánh là sáng tạo mới trong
Đấng Christ phục sinh. Vả lại Hê-bơ-rơ 4:9 xác nhận “Vậy thì còn lại một ngày
yên nghỉ cho dân Đức Chúa Trời”. Chữ “còn lại” là “So then there remain a
sabbath rest for the people of God”. Câu nầy ngụ ý chỉ còn một sự an nghỉ sa-bát
nên chú ý là sự an nghỉ sa-bát thiên hi niên. Sự an nghỉ Sa-bát ở Mathi-ơ 11:28,
cũng qua rồi, sự an nghỉ Sa-bát trong trời mới đất mới thì chưa đến, chỉ có sự
an nghỉ sa-bát thiên hi niên là nan đề nóng bỏng mà thôi.
Hai phân đoạn
Kinh thánh nầy ở 1 Cô-rinh-tô 15 và Khải-thị 22 miêu tả sự an nghỉ sa-bát của
con cái Đức Chúa Trời trong cõi đời đời. Họ chỉ vui hưởng mọi sự Chúa là gì và
có gì, rồi đồng trị vì với Ngài đến vĩnh viễn.
Sự an nghỉ sa-bát của giai
đoạn 1 và 3 là ban tứ miển phí, là quà tặng của Đức Chúa Trời cho mọi người được
cứu. Đó là phần hưởng của mọi con dân của Ngài. Nhưng sự an nghỉ sa-bát trong
giai đoạn 2, là giai đoạn 1000 năm trong vương quốc Đấng Christ, không ban cấp
miển phí, nhưng là phần thưởng cho những ai đắc thắng.
Xưa kia Ca-lép và
Giô-suê đã trả giá rất đắt, thậm chí bằng chính sinh mạng mình mới nhận lãnh
được. Hình ảnh nầy làm biểu hiệu cho chúng ta ngày nay. Trên 600 ngàn người nam
mà chỉ có hai người vào sự an nghỉ đó. Trong mấy tỉ cơ đốc nhân Tân ước thì có
bao nhiêu người được Đức Chúa Trời phê chuẩn cho vào vương quốc đó an nghỉ đây?
Không ai biết được. Tôi tin số lượng đó là thành phần thiểu số. Bạn dám chắc
mình được vào sự an nghỉ sa-bát trong vương quốc nầy không? Hãy trả giá thật cao
để nhận được điều đó.
Có hai trường phái Thần học chính yếu trong
Hội-Thánh chung: Một là trường phái Calvinism, và thứ hai là phái Arminianism.
Tôi xin nói tóm tắt là phái Calvin tin sự cứu rỗi chắc chắn, do đó những ai bị
quăng vào nơi khóc lóc nghiến răng phải là người vô tín. Còn trường phái của
Arminius cho rằng người tín đồ có thể mất sự cứu rỗi cách dễ dàng, do đó họ tin
rằng những người bị hình phạt nơi khóc lóc nghiến răng đó là những tín đồ mất sự
cứu rỗi của mình. Cá nhân tôi không tin như vậy vì sự cứu rỗi của người được tái
sinh không bao giờ mất. Chúa Jêsus tuyên hứa “Ta ban cho nó sự sống đời đời, nó
hẳn chẳng hư mất bao giờ, chẳng ai giựt nó khỏi tay Ta, Cha Ta, là Đấng đã ban
nó cho Ta, vốn lớn hơn hết, chẳng ai có thể giựt nó khỏi tay Cha Ta” (Giăng
10:28-29). Chúa đã gọi người có một ta-lâng là “đầy tớ” thì họ không thể là
người vô tín được. Đây chỉ là sự sửa phạt có tính kỷ luật áp dụng cho những tín
đồ thất bại trong đời sống thuộc linh hay bất trung trong phụng sự Chúa. Cuối
cùng họ cũng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem mới và hưởng cuộc sống vĩnh hằng
trong trời mới đất mới.
Tóm lại Chúa Jesus là sự an nghỉ của chúng ta, là
dân Tân ước. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ có sự cảm thúc và gánh nặng từ Chúa về gương
sa bại của cả một thế hệ đầu tiên khi họ ra khỏi Ai-cập. Ông dùng hình ảnh đó để
minh hoạ, hỗ trợ, nhấn mạnh cho lập luận của ông là có thể nhiều Cơ Đốc Nhân Do
thái và Cơ Đốc Nhân các dân tộc sẽ không được vào vương quốc ngàn năm, vì cớ các
Cơ Đốc nhân nầy theo vết xe đổ của dân Y-sơ-ra-ên thời Môi-se. Có một anh em nói
với tôi, “nếu họ không vào đó thì họ đi đâu?” Họ phải vào nơi khóc lóc nghiến
răng, --không phải hồ lửa hay ngục luyện tội,-- đó là tuyên bố của chính Chúa
Jêsus, chứ không phải lời bịa đặt của tôi.
Minh Khải.
20-10-2-13