Lời Ban Biên Tập:
Alexandre Yersin là một khoa học gia nổi tiếng thế giới. Ông đã sống và làm
việc tại Việt Nam hơn 50 năm
và đã chọn Việt Nam
làm quê hương. Năm 2013 là năm kỷ niệm sinh nhật nhật thứ 150 của Alexandre
Yersin. Ngày 1/3/2013 là ngày tưởng niệm 70 năm Alexandre Yersin qua đời. Nhân
dịp này Thư Viện Tin Lành xin giới thiệu với bạn đọc một ít về tiểu sử của
Alexandre Yersin. Bài viết đưới đây được trích từ sách Những Người Tin
Lành Đầu Tiên Đến Việt Nam
(2011). Bài viết sẽ được đăng làm ba kỳ tại www.thuvientinlanh.org
vào các ngày 1, 8, và 15/3/2013. Ban Biên Tập chân thành cảm ơn tác giả đã cho
phép Thư Viện Tin Lành phổ biến tài liệu này.
Alexandre Yersin (1863-1943)
Hình
Alexandre Yersin chụp vào năm 1893 – ba năm sau khi tới Việt Nam .
(Photo credit: www.wikipedia.org)
Một trong những người
Pháp được nhiều người Việt biết đến đó là Bác sĩ Alexandre
Yersin (1863-1943). Alexandre Yersin là Giám đốc của Viện
Pasteur tại Đông Dương. Ông cũng là người sáng lập và là Viện Trưởng đầu
tiên của Viện Đại Học Y Khoa Hà Nội. Bác sĩ Alexandre
Yersin cũng là một nhà thám hiểm, một nhà nghiên cứu về canh nông và là
một khoa học gia nổi tiếng trên thế giới về vi trùng học.
Alexandre
Yersin là một người Thụy Sĩ, gốc Pháp, nhưng ông sống phần lớn cuộc đời
của ông tại Việt Nam và
chọn Việt Nam
làm quê hương. Trong khi nhiều người biết Alexandre Yersin là một
khoa học gia nổi tiếng, ít người biết ông là người Tin Lành, và ít người biết
động cơ chính yếu đã thúc đẩy Alexandre Yersin đến Việt Nam .
Theo Giáo sư Đoàn Xuân
Mựu, cựu Giám Đốc Viện Dịch Tể Đà Lạt và là một người gần gũi với
Alexandre Yersin, Alexandre Yersin là một tín hữu Tin Lành. Sau vụ
thảm sát những người Tin Lành Huguenots tại Pháp vào năm 1572, Hoàng đế
Henry Đệ IV ban sắc chỉ cho phép người Tin Lành được phép thờ phượng trong giới
hạn tại Pháp (Edict of Nantes - 1598). Tuy nhiên, đến năm 1685, vua
Louis XIV thu hồi chiếu chỉ này, ban hành một chiếu chỉ mới gọi là Edict
of Fontainnebleau. Sắc lệnh của vua Louis XIV đặt người Tin Lành ra ngoài vòng
pháp luật. Vua Louis XIV cho các tín hữu Tin Lành Pháp hai sự chọn
lựa: một là từ bỏ đạo Tin Lành trở lại Công giáo, hai là rời khỏi
nước Pháp. Trước hoàn cảnh đó, tổ tiên của Yersin đã lánh nạn sang
Thụy Sĩ. Yersin là hậu duệ đời thứ tám của những người Tin Lành
Huguenots này. Học giả Thái Văn Kiểm, cựu Tỉnh Trưởng tỉnh Khánh
Hòa, trong bài viết Thân Thế và Sự Nghiệp Bác Sĩ Alexandre
Yersin (1863-1943) cũng xác nhận chi tiết trên.
1. Tiểu Sử
Alexandre
Yersin sinh ngày 22/9/1863 tại Lavaux, một làng nhỏ tại tổng Vaud
của Thụy Sĩ. Vào nửa đầu của thế kỷ thứ 19, các nhà truyền giáo Tin
Lành tại Trung Hoa thường kêu gọi những thanh niên có trình độ học
vấn tham gia vào chương trình truyền giáo qua phương tiện y khoa. Đáp lời
kêu gọi đó, sau khi tốt nghiệp trung học, Yersin theo học y khoa tại Đại
học Lausanne
được một năm (1883-1884). Năm 1884, Yersin sang Đức học y khoa tại University
of Marburg . Đây
là trường đại học xưa nhất do người Tin Lành sáng lập từ năm 1527. University of Marburg cũng là trường đại học y
khoa rất uy tín tại Đức. Tại đây, Yersin theo học với Emil Adolf von
Behring, người vài năm sau đó đã đoạt giải Nobel Y Khoa đầu tiên của thế giới
(1901). Một thời gian sau, Alexandre Yersin sang Paris (1885-1888) thực tập tại Hôtel-Dieu
Paris.
Năm 1886,
Yersin gặp Louis Pasteur nhà nghiên cứu vi trùng học nổi tiếng nhất
thế giới vào thời đó. Ngưỡng mộ tài năng của Pasteur, Yersin xin vào
làm nhân viên kỹ thuật của phòng thí nghiệm Pasteur tại École Normale
Supérieure để có cơ hội nghiên cứu. Tại đây, Yersin trở thành
phụ tá của Emile Roux, một học trò thân tín của Pasteur.
Năm 1888,
Yersin hoàn tất luận án tiến sĩ với đề tài Etude sur le Développement
du Tubercule Expérimental (Nghiên Cứu Về Sự Phát Triển Của Bệnh Lao Bằng
Thực Nghiệm). Luận án của Yersin rất ngắn chỉ hơn 20 trang
với 6 minh họa, nhưng đây là những khám phá mới và quan trọng của ngành y khoa
nên Yersin được ban Giáo sư của trường Đại Học Y Khoa Paris tặng huy
chương đồng vào năm 1889.
Trong thời gian chờ
bảo vệ luận án, Alexandre Yersin cộng tác với nhóm nghiên cứu của Emile
Roux nghiên cứu về các độc tố bạch hầu. Alexandre Yersin và Emile
Roux sang Đức làm việc vài tháng. Đây là những nghiên cứu tiên
phong của ngành vi trùng học vào thời đó. Như đã nói ở trên, vị giáo sư
dạy ông trong lĩnh vực này về sau đã được trao giải Nobel về y khoa là Emil
Adolf von Behring (Nobel 1901).
Louis Pasteur và
Emile Roux quí mến ý chí, tính tình và tài năng của Yersin. Hai
khoa học gia này muốn mời Yersin cùng nghiên cứu lâu dài nên đã khuyên
Yersin nhập tịch Pháp để được phép ở lại làm việc tại Pháp. Yersin đã
làm theo lời khuyên của những người bảo trợ mình. Yersin nhập tịch
Pháp vào năm 1888, tuy nhiên ông có một dụng ý xa hơn.
Hơn một năm sau khi
Alexandre Yersin tốt nghiệp, ngày 14/11/1889 Viện Pasteur tại Paris được khánh thành.
Yersin được mời vào làm việc tại đây với vai trò là cộng sự viên của Emile
Roux. Ngoài việc nghiên cứu, Alexandre Yersin còn có trách nhiệm dạy môn
vi sinh vật cho các sinh viên. Emile Roux và Alexandre
Yersin là những người đầu tiên soạn giáo trình và dạy môn vi sinh vật trên
thế giới.
2. Động Lực Đến Đông
Dương
Mới 26 tuổi, tốt
nghiệp với văn bằng tiến sĩ y khoa, được mời làm việc trong một viện nghiên cứu
y khoa nổi tiếng, tại một thành phố tráng lệ vào thời đó, cuộc sống tốt
đẹp và tương lai sáng lạng dọn sẵn cho nhà khoa học trẻ tuổi. Tuy nhiên,
Alexandre Yersin không dừng lại ở đó. Ông đi theo một tiếng gọi cao cả
hơn.
Từ nhỏ, Alexandre
Yersin ngưỡng mộ David Livingstone (1813-1873), một bác sĩ và là một
nhà truyền giáo Tin Lành người Anh. David Livingstone là một trong
những người đã sốt sắng hưởng ứng việc truyền giáo qua phương tiện y
khoa. Đáp ứng lời kêu gọi của Mục sư Charles Gützlaff, một nhà truyền
giáo Tin Lành tại Trung Hoa, David Livingstone đã thuyết phục cha
của ông cho ông học y khoa và sau đó sẽ tình nguyện đi truyền giáo qua lãnh vực
y khoa tại Trung Hoa. Chẳng may sau khi David Livingstone tốt nghiệp, cuộc
Chiến Tranh Nha Phiến diễn ra tại Trung Hoa. Vì tình hình tại Trung Hoa
bất an nên Hội Truyền Giáo London quyết định gởi Livingstone sang Phi Châu.
Khi đến Phi Châu, bên
cạnh chức vụ giáo sĩ trong lĩnh vực y khoa, David Livingstone đã trở thành
một nhà thám hiểm. Ông thực hiện nhiều chuyến hành trình xuyên Phi Châu.
Ông khám phá thượng nguồn sông Nile và
giúp cho thế giới biết về vẻ đẹp và sự phong phú của châu Phi. Sau khi
nổi tiếng, David Livingstone dùng uy tín của mình để đấu tranh cho việc
bãi bỏ nô lệ, cải tổ chế độ phong kiến và cổ võ cho việc kinh doanh. Để
thay đổi Phi Châu, lúc đó được gọi là lục địa đen, khỏi tình trạng hoang sơ,
David Livingstone đã hoạt động với phương châm bắt đầu bằng ba chữ
C: “Christianity, Commerce and Civilization” - Cơ Đốc giáo,
Kinh Doanh và Khai Hóa.
Noi gương David
Livingstone, Alexandre Yersin cũng học y khoa và chờ ngày đi truyền
giáo. Ông giấu kín ý định đi truyền giáo của mình cho bạn bè và những
người cộng sự. Ngoài chuyện học hành nghiên cứu, Yersin đã dành nhiều thì
giờ nghiên cứu bản đồ Trung Hoa và Đông Dương.
Thế kỷ 19 là thế kỷ
phấn hưng của phong trào truyền giáo Tin Lành. Các giáo sĩ tiên phong
thường kêu gọi các thanh niên Âu Châu tận hiến cuộc đời để truyền bá tình yêu
của Chúa cho những dân tộc tại các quốc gia xa xôi. Prong trào phục hưng
trong cộng đồng Tin Lành khởi đầu từ thập niên 1730 tại Anh với các Mục sư
John Wesley và George Whitefield. Trong suốt hơn 150 năm kế tiếp,
các giáo sĩ Tin Lành đã hoạt động gần như mọi miền trên thế giới; tuy nhiên có
vài nơi có đông dân nhưng các giáo sĩ Tin Lành vẫn chưa đặt chân tới.
Vào cuối thế kỷ 19,
các tạp chí truyền giáo thường đăng lời kêu gọi: Sudan , Tây Tạng và Đông Dương là
những khu vực rộng lớn đông dân nhưng vẫn chưa có giáo sĩ Tin Lành nào đến
hoạt động. Alexandre Yersin và Albert Schweitzer – người nhận
giải Nobel Hòa Bình 1952 – là những bác sĩ Tin Lành đã đáp ứng lời kêu
gọi đó. Alexandre Yersin đến Đông Dương và Albert Schweitzer đến
Gabon ,
Phi Châu. Bên cạnh việc chia xẻ tình yêu của Chúa cho những dân tộc đang
sống trong vùng đất xa xôi, những người này đã dùng những kiến thức y tế và
khoa học nâng cao cuộc sống của các dân tộc đó.
Làm việc tại Viện
Pasteur Paris chưa trọn một năm, tháng 9 năm 1890 Alexandre Yersin từ chức
lên tàu Messangeries Maritimes sang Đông Dương. Vì không hiểu động lực
sâu kín của Yersin, các cộng sự viên và bạn bè ông kinh ngạc khi ông từ bỏ công
việc nghiên cứu, giảng dạy và một vị trí quan trọng tại viện Pasteur nổi tiếng
tại Paris để
làm một bác sĩ trên một chiếc tàu viễn dương. Sau khi Yersin ra đi,
Louis Pasteur viết trong nhật ký vào ngày 21/10/1890 như sau: “Sự thôi
thúc đi đến các quốc gia xa xôi thình lình cuốn hút Yersin, và không có cách
nào để giữ anh ở lại với chúng ta.”
Là người Tin
Lành gốc Pháp, Alexandre Yersin hiểu được những khó khăn mà
người Tin Lành phải đối diện khi sống trong lãnh thổ Pháp.
Yersin biết được lý do lúc đó vì sao tại Đông Dương những nhà truyền
giáo Tin Lành không được phép hoạt động. Do đó, Yersin không xin làm giáo
sĩ cho London Mission Society hoặc Paris Mission Society, những cơ quan
truyền giáo Tin Lành. Yersin chỉ xin nhập tịch Pháp. Như Sứ Đồ
Phao Lô trong Thánh Kinh dùng quốc tịch Roma và nghề may trại của mình đi
từ nơi này sang nơi khác hầu việc Chúa, Alexandre Yersin đến Đông Dương
với tư cách là một khoa học gia Pháp chứ không phải là một nhà truyền giáo Tin
Lành thuần túy. Tháng 10 năm 1890, Yersin đến Sài Gòn. Tháng 7
năm 1891, trên chuyến tàu từ Sài Gòn đi Hải Phòng, Yersin bị chinh phục bởi
vẻ đẹp của bờ biển Nha Trang. Yersin đã chọn thị trấn ven biển này
làm nơi định cư.
(còn tiếp)