Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

Benjamin Wills Newton (1807-1899) -Nhà lãnh đạo Hội anh em Plymouth.

Benjamin Wills Newton (1807-1899)  -Nhà lãnh đạo Hội anh em Plymouth.
benjamin_wills_newton.jpg




Benjamin Wills Newton sinh ngày 12 tháng 12 năm 1807 và qua đời ngày 26 tháng 6 năm 1899. Ông là một nhà truyền giảng phúc âm và là tác giả của nhiều sách cơ đốc. Ông đã có ảnh hưởng trong các anh em Plymouth. Mặc dù ban đầu ông bạn thân của John Nelson Darby, nhưng họ bắt đầu xung đột về các vấn đề giáo lý và sự thực hành hội thánh và cuối cùng dẫn đến sự chia rẽ năm 1848 của phong trào anh em thành các anh em mở” ( Open Brethren) và  các anh em độc quyền” (Exclusive Brethren).

Thiếu Thời:

Newton được sinh ra ở Davenport gần Plymouth, Devon
, trong một gia đình hội thánh Quaker. Cha ông qua đời ngay trước khi Benjamin được sinh ra. Newton đã không có anh chị em ruột. Ông học tại trường đại học Exeter College, Oxford, nơi ông chiếm được bằng cấp ngành cổ điển hạng nhất vào năm 1828 và trở thành một nhân viên của trường.

 Thành
Lập Một Hội Chúng Anh Em Plymouth

Tại Oxford, ông
từ bỏ tín lí của Quaker và gia nhập Giáo Hội Anh giáo. Ông là bạn bè của Francis William Newman và George Wigram. Thông qua Newman lần đầu tiên ông gặp John Nelson Darby. Newton và các bạn bè của ông ấy ở Oxford càng ngày càng trở nên quan trọng trong các hội thánh Anh giáo, đặc biệt liên quan đến sự thuận phục của họ đối với nhà nước tối thượngsự bổ nhiệm hàng giáo phẩm được thụ phong. Tháng 12 năm 1831, Wigram rời khỏi hội thánh Anh giáo và mua một nơi thờ phượng không bảo thủ, nhà nguyện Providence ở phố Raleigh, Plymouth, Devon.

 Cuộc buổi nhóm họp đã được mở ra đối với các cơ đốc nhân từ tất cả các hệ phái đến tương giao, cầu nguyện, ca ngợi và hiệp thông bẻ bánh.  Mặc dù vào thời điểm đó, trong tháng 1 năm 1832, Newton và Darby đều là hàng giáo phẩm của Anh giáo, chia sẻ hiệp thông bẻ bánh với Wigram tại cuộc nhóm họp như vậy. Vào tháng 3 năm 1832 Newton đã rời khỏi Giáo Hội Anh giáo, giao thác  chính mình cho sự tương giao mới và kết hôn với một cô gái địa phương, Hannah Abbott. Dân địa phương gọi họ là " Dân thiên hựu", phát triển nhanh chóng, trở thành  phong trào được gọi là " Các anh em từ Plymouth" và sau đó được giới thiệu là “Các anh em Plymouth. Khoảng năm 1832 Darby lìa bỏ hệ thống giáo phái, Giáo hội Ireland.

Các tính năng chủ yếu của các hội
chúng Plymouth vào năm 1832 bao gồm:

- Từ chối  hàng giáo phẩm và thông qua giáo lý chức tư tế của tất cả các tín đồ.
- Trưởng lão phải trên hai người. Trưởng lão không được trả lương. Newton sớm trở thành trưởng lã, và ông mưu sinh bằng cách làm giáo viên.
- Bẻ bánh hằng tuần.
- Phân rẽ khỏi các hệ thống tà ác—Thí dụ không ở trong lực lượng vũ trang hay là thành viên của giáo hội hệ phái bội đạo.


Hội chúng Plymouth tương tự như hội chúng ở Dublin, Ireland, mà đã  được Anthony Norris Groves, Darby và các cơ đốc nhân khác thành lập năm 1827. Họ là những người từ cơ đốc giáo giới trở về, tìm kiếm các nguyên tắc Tân Ước. Cũng giống như hội chúng Dublin mà ban đầu là chống giáo phái, trong chỗ họ đã mở ra cho tất cả các tín đồ cơ đốc, hội chúng Plymouth vào năm 1832 bắt đầu xác định tư cách cho các thành viên và nhấn mạnh rằng sự tương giao chỉ có thể xảy ra sau khi ai đó cắt đứt bất kỳ sự tương giao nào khác với một hội thánh giáo phái. Việc chuyển đổi địa vị bè phái đã được Anthony Norris Groves phát hiện, như thể hiện trong bức thư của ông gởi cho Darby năm 1835, vì lúc đó Darby chưa rời bỏ Anh quốc giáo.

 Những mối quan hệ với John Nelson Darby

John Nelson Darby là lực lượng thống trị trong phong trào các anh em sớm
nhất. Newton đã thấy Darby là người cố vấn, trong khi Darby của nhìn thấy Newton như là một môn đệ được đánh giá cao. Chính Newton đã mời Darby đến hội chúng Plymouth trước nhất, vào năm 1831, để hội chúng Plymouth có thể theo mô hình như Dublin. Darby mong muốn phúc âm hóa và dạy dỗ khắp châu Âu, bổ nhiệm Newton là người trưởng lão chính yếu ở Plymouth. Mặc dù họ đã thỏa thuận về các vấn đề, chẳng hạn như từ chối các giáo lý Ngũ Tuần của Edward Irving, vào năm 1834, nhưng có sự rạn nứt bắt đầu phát triển trong mối quan hệ của họ.

Năm 1834, một tranh chấp phát sinh
về bạn bè của họ, Francis Newman, người đã bắt đầu nắm giữ niềm tin giáo liên quan đến thần tính của Christ. Darby dứt phép thông công Newman, nhưng Newton cho phép Newman duy trì sự  tương giao với hội chúng Plymouth, với hy vọng rằng Newman sẽ được phục hồi. Năm 1835, để chứng minh tính độc lập ngày càng tăng của Darby, Newton bước xuống khỏi địa vị trưỡng lão đầu nhất, tin rằng những trưởng lão không nên được quyền bính con người bầu lên, như là trường hợp tại Plymouth. Mặc dù không còn làm trưởng lão thống trị, ảnh hưởng và sự lãnh đạo của ông trên hội chúng này tiếp tục phát triển.

Một cuộc tranh cãi lớn hơn cũng bắt đầu phát sinh trong những năm 1830
về quan điểm khác nhau của họ liên quan các biến cố trong tương lai, được dự đoán trong Kinh Thánh. Mặc dù cả hai ông đều là người tin có thiên hi niên xảy ra sau khi Chúa tái lâm, Newton tin rằng hội thánh sẽ trải qua đại nạn, trong khi Darby, người trước đây cũng tin tưởng vào một sự biến hóa thánh đồ sau đại nạn, lại bắt đầu thay đổi vị trí và ngày càng trở nên tin phục sự biến hóa trước đại nạn.

 Newton cũng đã có một quan điểm khác biệt về các thời kì phân phát và tin rằng thời kì phân phát hiện tại bao gồm ba bộ phận đồng thời với các bộ phận của người Do Thái và các phần của cơ đốc nhân, cả hai chấm dứt vào lần trở lại thứ hai của Chúa, và các phần dân ngoại chấm dứt trước đó, khi có sự xuất hiện của Antichrist. Đặc biệt Newton chỉ trích Darby về niềm tin rằng các biến cố tương lai trong Chương 24 của phúc âm Matthew liên quan chủ yếu đến những người Do Thái sau khi hội thánh đã được biến hóa cách bí mật và nói rằng "sự biến hóa bí mật đã đủ tồi tệ, nhưng ý tưởng không kém cuốn tiểu thuyết này của John Darby cho rằng sách Ma-thi-ơ đặt trên lập trường 'Do Thái' thay vì trên lập trường hội thánh” là tồi tệ hơn nữa. " 

Newton giải thích 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:16 và 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2
:1-4  như là bằng chứng về hậu đại nạn, sự biến hóa không bí mật. Ông coi sự dạy dỗ của Darby về sự biến hóa theo sự phân phát, trước đại nạn, là đỉnh cao của sự suy cứu vô nghĩa. Không giống như Darby, ông cũng tin rằng hội thánh  được tạo thành, bao gồm  cả người Do Thái, trong đó có thánh đồ cựu ước, và dân ngoại người đã được hiệp một trong Christ, còn theo chương trình Darby, theo cách hợp lý, ngụ ý hai đường lối cứu rỗi cách khác biệt và riêng biệt.

Trong khoảng thời gian từ năm 1835
đến năm 1845, Darby đã dành phần lớn thời gian của mình ở lục địa châu Âu, trong thời gian nầy hội chúng ở Plymouth đã tăng lên đến hơn 1000 người với điều kiện của hội thánh được ví như "thiên đường trên trái đất". Năm 1840, lớn hơn nhà nguyện tại Ebrington Street, nhà nguyện Plymouth đã được xây dựng và được sử dụng cho các phụng vụ thờ phượng chính, trong khi Nhà nguyện Providence ở Irland vẫn duy trì các cuộc nhóm họp nhỏ hơn cho các phụng vụ truyền giáo.

Năm 1843, Darby đã đến thăm Plymouth một thời gian ngắn, và
các sự căng thẳng với Newton càng lớn. Darby đã thất vọng bởi tình trạng hội chúng khi ông vắng mặt, ông nhận thức như là có sự chuyển dời khỏi chức tư tế của tất cả các tín hữu đến với việc thành lập hàng giáo phẩm chính thức. Các tranh chấp về tín lý về các biến cố trong tương lai cũng đã được tăng cường thông qua ấn phẩm của Newton, đó là  cuốn sách Suy nghĩ về Sách Khải thị”, năm 1842, trong năm sau, Newton nhận được một ấn phẩm 490 trang ghi lại sự đánh giá thù địch của Darby.

Trong tháng 3 năm 1845, Darby đã bỏ trốn
sang Thụy Sĩ, do một mối đe dọa của cuộc cách mạng tại Geneva, và đi trực tiếp đến Plymouth để "chiến đấu cho linh hồn của phái Anh Em". Một cuộc chiến tranh bằng ngôn từ, leo thang thành một cuộc chiến tranh bằng việc in ấn các cuốn sách nhỏ xảy ra sau đó. Cuộc chiến về lai thế học, về chức tư tế của tất cả các tín đồ cùng với vai trò của các nhà lãnh đạo hội chúng. Vào thời gian nầy, Darby đã phát triển những quan điểm mạnh mẽ chống lại việc công nhận chính thức các trưởng lão. Cũng tại sự tranh chấp nầy, là liệu, như Newton tin rằng, mỗi hội chúng được độc lập và tự trị, như Darby tin tưởng, được kết nối với các bộ phận tách rời của một Thân thể hoàn vũ. Cả  Darby và Newton đều mạnh mẽ, tính ương ngạnh, không khoan nhượng, và  làm cho  tình hình thêm trầm trọng. Với Darby, sự tranh chấp đã trở thành cá nhân, ở ngoài hội chúng Plymouth, Darby công khai cáo buộc Newton là người lừa dối và thiếu trung thực. Những cáo buộc chống lại Newton đã được các trưởng lão ở đường Ebrington nghiên cứu và đã bị bác bỏ.

giai đoạn này, mặc dù hầu hết hội chúng Plymouth hỗ trợ Newton, Darby đã có được s hỗ trợ trong vụ tranh chấp, đặc biệt là từ Wigram, sau đó khi sống tại London, người nầy trước đó đã tài trợ cho việc mua cả hai cơ sở đường Raleigh và Ebrington. Tháng 12 năm 1845, Wigram đã viết thư cho các trưởng lão Plymouth chính thức thu hồi sự tương giao của mình khỏi đường Ebrington và thu hồi tiền mình đã cho nhà nguyện đường Raleigh vay mượn. Việc sử dụng nhà nguyện đường Raleigh đã được trao cho Darby và những người ủng hộ ông ấy, kết quả là hai hội chúng anh em địa phương xung đột với nhau. Cả hai bên tiếp tục tranh chấp và mong muốn giải thích vị trí của họ để các hội chúng anh em khác được mọc lên trong cả nước.

 Năm 1846, trong khi Newton đã đi du hành vòng quanh London tổ chức các cuộc gặp gỡ riêng để trả lời một phần san bằng các cáo buộc Darby chống lại ông, một hội chúng các anh em tại đường Rawthorne, London, nơi Wigram là nhà lãnh đạo, yêu cầu Newton đến tham dự một cuộc nhóm họp để họ xem xét lại các cáo buộc chống lại ông một lần nữa. Newton, được cuộc nhóm họp ở đường Ebrington hỗ trợ, Newton từ chối các yêu cầu liên tục của họ là đến tham dự, nên sau đó Newton đã bị anh em ở đường Rawthorne dứt phép thông công.

 Năm 1847, bên Darby phát hiện ra rằng Newton, trước đây trong một bài báo in vào năm 1835, đã dạy giáo lí giáo liên quan đến thân vị của Christ. Bài viết này đã được sản xuất như là một bác bỏ các lời dạy dỗ giáo của Edward Irving liên quan thân vị của Christ  mà đã trở nên phổ biến. Newton tin rằng Christ, mặc dù hoàn hảo, đã kinh nghiệm những đau khổ  trước ngày  bị đóng đinh, không phải vì lợi ích của người khác, nhưng do sự hiệp hội của mình, thông qua mẹ của mình, với Adam và con cháu của ông ấy và cụ thể hơn với  quốc gia bội đạo Israel. Vì vậy, theo Newton, Christ bị đói và đau đớn và có một cơ thể dể chết. Darby và các người ủng hộ ông nắm lấy cơ hội nầy lên án Newton là một kẻ dị giáo. Mặc dù Newton đã xin lỗi và rút lại lời nói của mình  về "lỗi lầm của  Adam", và rút lại sự xem xét các quan điểm của mình về những sự đau khổ của Christ, một số trưởng lão tại đường Ebrington bắt đầu mất niềm tin vào Newton.

 Darby đã không hài lòng với điều này, cáo buộc Newton bày tỏ là thiếu hụt sự ăn năn, hoặc như Henry Groves, con trai của Anthony Groves Norris, nhà lãnh đạo nổi tiếng khác đã nói, Darby "xu hướng thống trị" và muốn loại bỏ đối thủ của ông là Newton. Sự kiên trì của Darby trong vấn đề này và sự từ chối trả đũa của Newton, là "chìa má bên kia", kết quả Darby thành công chiến thắng trên các trưởng lão đã ủng hộ Newton, để cho Newton bị cô lập. Vào ngày 7 tháng mười hai, năm 1847 Newton vĩnh viễn rời bỏ phong trào Anh em và di chuyển đến London, nơi ông thành lập một buổi nhóm họp độc lập.

 
Cuối cùng, các mối thù dẫn đến sự phân chia của  các anh em Plymouth trong năm 1848 khi George Muller, và người đồng-lãnh đạo của nhà nguyện Bethesda, một hội chúng các anh em ở Bristol, cho phép khách thăm từ đường Ebrington vào sự tương giao ở Bristol và chậm thực hiện theo quy định trong tối hậu thư của Darby gởi cho tất cả hội chúng để lên án sự tà giáo của Newton. Darby phản ứng, rút ​​phép thông công tất cả những người trong sự tương giao tại Bethesda. Các hội chúng mà hỗ trợ hành động của Darby trở thành các anh em độc quyềnExclusive Brethrenvà những ai tập hợp đằng sau George Muller và nhà nguyện Bethesda, và sau đó cũng bị rút phép thông công, được đặt tên là các anh em mởOpen Brethren.

Trớ trêu thay,
vào năm 1858, Darby cũng bị buộc tội là nắm giữ quan điểm giáo tương tự như của Newton, liên quan đến những sự đau khổ của Christ.

Những Năm Ở Sau Lưng Các Anh Em

Newton kết hôn với Maria Hawkins vào năm 1849, người vợ đầu tiên của ông đã qua đời vào năm
1846. Đứa con duy nhất của ông cũng qua đời ở tuổi lên 5, trong năm 1855.
Trong suốt 50 năm tiếp theo, ông vẫn hoạt động như một giáo
 và nhà văn cơ đốc. Sau khi rời khỏi các anh em Plymouth, ông thành lập một nhà nguyện độc lập ở Bayswater, London. Sau đó, ông sống tại Orpingon, Kent, bên cạnh Newport, một đảo của Wight. Trong 3 năm cuối của cuộc đời, ông sống ở Tunbridge Wells.

Mặc dù
bị các anh em của Darby gắn cho nhãn hiệu như là một người làm ác và giáo sư giả, nhưng người khác coi Newton John Calvin của thế kỷ 19 và tin  phong trào các anh em có thể đã thực hiện tốt hơn, nếu đã theo sự giảng dạy của Newton hơn là giáo lí thời kì phân phát của Darby, và về niềm tin của Darby v sự trở lại bất cứ lúc nào bí mật của Chúa trước đại nạn cho sự biến hóa bí mật của các thánh đồ lên trời, và về việc Chúa trở lại cách công khai với hội thánh, sau 7 năm, để bắt đầu một sự trị vì trong 1000 năm.

Bạn bè và
những người ủng hộ ông trong những năm ông bị những người của Darby gièm pha không ngừng, bao gồm Samuel Prideaux Tregelles, George Muller Charles Spurgeon.....
Sử gia Roy Coad ghi chú, "Anh ấy sống cho đến năm 1899, rút
​​lui vào một vòng tròn nhỏ hai hoặc ba nhà thờ của riêng mình, và sau cùng tận hiến chủ yếu là sống giữa anh em Baptists nghiêm ngặt."

Là một nhà văn, ông đã sản xuất hơn 200 tác phẩm được
in ấn. Ân tứ lớn của ông là giải nghĩa Kinh Thánh, và đặc biệt, là về lời tiên tri chưa được ứng nghiệm.

 George Muller

George Muller
Bristol đã viết: "Tôi xem xét tác phẩm của ông Newton rất thuần chính và đúng  Kinh Thánh, vợ tôi và tôi đều có thói quen đọc các sách ấy, không chỉ với sự quan tâm sâu xa nhất, nhưng vì những lợi ích lớn cho tâm hồn của chúng tôi. Chắc chắn các sách của ông  có giá trị nhất,chúng tôn vinh thân vị và công việc của Chúa Giêsu Christ đáng chúc tụng đến mức độ tối đa. Nếu bất cứ ai chân thành muốn biết quan điểm của ông Newton thực sự là những gì, anh ta hãy cẩn thận và chăm chú đọc một số tác phẩm nguyên tắc của Newton, chẳng hạn như “Sự cứu độ bằng sự thay thế, Sự chuộc tội và kết quả của nó, “ Các chân lý của tin mừng, mà từ đó anh ta sẽ thấy rõ, không chỉ ông Newton thuần chính trong đức tin, mà sự giảng dạy của ông cũng xuất phát từ tính cách có giá trị nhất ... Tôi coi ông Newton là nhà văn chính xác nhất về các chủ đề tôn giáo của thế kỷ XIX ". 

 Tác phẩm

 
 Lẽ thật của phúc âm năm 1885

 
Các Sự Suy nghĩ về sách Khải Thị năm 1842

 Các bài báo về chủ đề Kinh thánh năm 1866

 
Các giáo lí về giáo hoàng năm 1867

 Triển vọng
về 10 vương quốc của đế chế La Mã, năm 1873

 
Hỏi đáp về lời tiên tri, năm 1881

 
Những suy nghĩ về Nhã ca của Solomon, 1906

 Cơ đốc giáo giới, diễn trìnhsự diệt vong, 1876

 
Các sự kiện trước sự trở lại của Chúa chúng ta

 Ngày của Chúa trong Xa-cha-ri Chương 14

 Thiên
hi niên : những sự phân biệt  làm cho các sự  khó khăn biến mất

 Loạt bài về
đảo Bát Mô

Những lời  tường thuật từ Cựu Ước, năm 1886

 
Những sự suy nghĩ về những chủ đề Kinh Thánh, năm 1871

 
Những sự suy nghĩ về các phần  của Lê-vi,  1857

 S
inh tế hoàn hảo, năm 2006

Chức vụ và trật tự trong Hội thánh của Chriost, năm 1997