Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2011

Sadhu Sundar Singh (1889-1929) -Người Thấy Chúa Jesus


Sadhu Sundar Singh (1889-1929)
-Người Thấy Chúa Jesus


Sundar Singh đã
được cơ đốc nhân Tin lành thế kỷ 20 ca ngợi về việc ông hoán cải sang cơ đốc giáo ở thời điểm chuyển biến của thế kỷ. Ngay cả trong những năm 1970, Sundar đã được đánh giá cao trong sự suy nghĩ của cơ đốc nhân Tin lành. Vào thời điểm đó, tôi nghe một vở kịch trên đài phát thanh cơ đốc về câu chuyện sự hoán cải kỳ diệu của Sundar và các cuộc hành trình rao giảng đầy nguy hiểm của ông tới Ấn Độ và Tây Tạng, và tôi đã mua hai cuốn sách kể câu chuyện về ông tại một hiệu sách cơ đốc. 


Nhà biện giáo cơ đốc, Josh McDowell của các mục vụ Josh McDowell, đã trích dẫn câu chuyện hoán cải của Sundar trong ấn bản đầu tiên và thứ hai của cuốn sách của McDowell, nhan đề “Bằng chứng cần sự phán quyết. Trong khi đọc các bản dịch về cuộc sống và các lời dạy dỗ Sundar, tôi không bao giờ một lần nào chạy theo các báo cáo phổ quát về Sundar, cho đến khi tôi phải đọc chính tác phẩm của Sundar, cùng với một số sách tiểu sử chiều sâu mà đã được viết về ông ấy, có niên hiệu xuất bản gần gũi với thời kì của ông.

Sundar đã được nâng lên
làm thành viên của tôn giáo Sikh. (Đạo Sikh là một giáo phái trong Ấn Độ giáo được thành lập khoảng năm 1500 A.D., dạy niềm tin vào một Đức Chúa Trời và bác bỏ hệ thống đẳng cấp và sự tôn thờ ngẫu tượng.) Trước khi ông hoán cải, Sundar theo học tại một trường tiểu học do hội truyền giáo trưởng lão Hoa kỳ điều hành, nơi đó Tân Ước đã được đọc hàng ngày như là một "sách giáo khoa." Sundar từ chối đọc Kinh Thánh theo những bài học hàng ngày. Ông nói: Đến một số mức độ lời giảng dạy của Tin Mừng về tình yêu của Đức Chúa Trời có thu hút tôi, nhưng tôi vẫn nghĩ rằng nó là giả tạo." Mặc dù theo lời chứng cớ khác, Sundar thú nhận, Thậm chí sau đó, tôi cảm thấy sự hấp dẫn thần thượng và sức mạnh tuyệt vời của Kinh Thánh."

Trong bối cảnh xáo trộn như vậy và trong khi chỉ có mười bốn tuổi đầu, mẹ ông qua đời, và Sundar đã trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin. Mẹ ông là một người phụ nữ thánh thiện yêu thương và hai mẹ con đã sống rất gần gũi nhau. Trong sự tức giận của mình, Sundar đốt cháy một bản sách Tin Mừng ở nơi công cộng.

Ông nói, “Mặc dù tôi tin rằng tôi đã làm một hành động rất tốt bằng cách đốt Kinh Thánh, tôi vẫn cảm thấy không hài lòng. Trong thời hạn ba ngày, Sundar Singh không còn có thể chịu đau khổ của mình thêm nữa.Vào một đêm trong tháng 12 năm 1903, ông đã từ giường ngủ chổi dậy và cầu nguyện hầu Đức Chúa Trời khải thị chính mình Ngài với ông, nếu Ngài thực sự hiện hữu. Còn nếu không – Tôi đã lên kế hoạch là gieo mình trên trên đường rầy ở phía trước đầu xe lửa, mà tàu hỏa ấy sẽ đi ngang qua ngôi nhà của chúng tôi mỗi sáng. Sundar Singh cầu nguyện suốt bảy giờ đồng hồ. Lạy Đức Chúa Trời, nếu có một Đức Chúa Trời, xin khải thị chính Ngài cho con  tối nay." Đoàn tàu hỏa kế tiếp là đúng 5 giờ vào buổi sáng. Thì giờ trôi qua.
Đột nhiên căn phòng đầy ánh sáng rực rỡ.
 Một người đàn ông xuất hiện trước mặt ông. Sundar Singh nghe tiếng nói, "Con sẽ từ chối Ta đến bao giờ? Ta đã chết vì con. Ta đã ban mạng sống của Ta cho con." Ông nhìn thấy bàn tay của người đàn ông ấy bị đâm bằng đinh.

Giê-su là người cuối cùng Sundar đang tìm kiếm. Sau tất cả mọi sự, Chúa Giêsu là “vị thần của nước ngoài, thần của các giáo viên cơ đốc giáo tại trường học của ông”. ...Quá ngạc nhiên, vì qua khải tượng, ông đã được một hình ảnh bất ngờ của Chúa Giêsu, Sundar đã bị thuyết phục trong lòng của mình rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Rỗi chân thật, và rằng Ngài vẫn còn sống. Sundar quì xuống trước mặt Ngài và kinh nghiệm một sự yên bình đáng ngạc nhiên mà trước đó ông đã không bao giờ cảm biết được. Khải tượng biến mất, nhưng  bình an và niềm vui tiếp tục kéo dài trong ông.


Gặp gỡ
Đấng Christ chỉ là khởi đầu cho Sundar Singh. Ông là một người Sikh. Những người Sikh đã phải chịu đựng những cuộc bách hại khủng khiếp trong lịch sử ban đầu của tôn giáo họ. Kết quả là, họ đã rất trung thành với đức tin của họ và với nhau. Hoán cải theo cơ đốc giáo được coi là phản bội. Bây giờ mọi nỗ lực của họ đã được thực hiện, để nài nĩ hoặc ép buộc Sundar Singh trở lại đức tin của tổ tiên  mình.

Bất chấp niềm vui thích, của hối lộ, và các sự đe dọa của gia đình, Sundar muốn được báp-têm trong đức tin cơ đốc. Sau khi cha của ông nói những lời từ bỏ ông cách chính thức trước mặt ông, Sundar đã trở thành một người bị bỏ rơi đối với dân tộc của ông. Ông đã cắt tóc, đã mặc dài như mọi người đàn ông Sikh. Chống lại sự chống đối lớn lao nầy, ông đã được báp-têm đúng vào ngày sinh nhật của ông, trong năm 1905, trong một nhà nguyện của Anh quốc giáo tại Simla.


Các hội thánh truyền thống Ấn Độ đã sẵn sàng ban cấp cho ông một bục giảng, nhưng qui định của họ thì xa lạ đối với tâm linh của ông. Thật vậy, ông cảm thấy rằng lý do chính yếu mà phúc âm đã không được chấp nhận ở Ấn Độ là bởi vì phúc âm đến trong hình thức xa lạ đối với dân Ấn Độ. Ông quyết định trở thành một Sadhu, để ông có thể cống hiến chính mình cho Chúa Giêsu. Ông đã được thuyết phục rằng đây là cách tốt nhất để giới thiệu tin mừng cho dân tộc của ông,đó là cách duy nhất mà người dân của ông đã quen thuộc. Là một Sadhu, ông mặc một chiếc áo choàng màu vàng, sống nương dựa lòng từ thiện của người khác, từ bỏ  tất cả các sở hữu và duy trì đời sống độc thân. Trong loại cuộc sống này, ông đã tự do cống hiến mình cho Chúa. Mặc áo choàng màu vàng mỏng, Sundar Singh đã lên đường và bắt đầu một cuộc sống truyền bá thông điệp đơn giản của tình yêu và  bình an cùng sự tái sinh qua Chúa Giêsu. Ông thực không mang theo tiền bạc hoặc tài sản khác, chỉ có mỗi một quyển Tân Ước.


Ông nói "Tôi không xứng đáng để bước theo các bước chân của Chúa tôi", nhưng giống như Ngài, tôi muốn không có nhà, không có tài sản. Cũng giống như Ngài, tôi sẽ là người đi đường, thuộc về con đường, chia sẻ sự đau khổ của dân tộc tôi, ăn uống với những người sẽ cung cấp chỗ tạm trú cho tôi, và nói với tất cả mọi người về tình yêu của Đức Chúa Trời.


Sundar hành trình nhiều. Ông đã đi khắp Ấn Độ và Tích Lan. Giữa
những năm 1918-1919, ông đến thăm Malaysia, Nhật Bản và Trung Quốc. Giữa những năm 1920-1922, ông đã đi đến Tây Âu, Australia và Israel. Ông rao giảng tại nhiều thành phố như Giê-ru-sa-lem, Lima, Berlin, Amsterdam và nhiều nơi trong số những thành phố khác. Mặc dù danh tiếng của mình gia tăng, Sundar giữ  bản tính khiêm tốn, với mong muốn duy nhất theo gương Chúa Giêsu, đáp trả sự dữ bằng lòng tốt và giành chiến thắng trên các kẻ thù của mình bằng tình yêu. Thái độ này thường làm cho kẻ thù của ông cảm thấy xấu hổ về bản thân mình, và thậm chí khiến cho cha của ông trở thành một cơ đốc nhân sau này trong cuộc sống, và ông ấy đã hỗ trợ Sundar trong chức vụ.
Ông hoàn toàn độc lập đối với quyền uy của Hội thánh nước ngoài trong tất cả cuộc sống, suy nghĩ, và công việc tôn giáo của ông. Ông đã rời bỏ một chủng viện cơ đốc mà ông tham dự một thời gian ngắn. Ông cũng không chú trọng nhiều để tham dự sự thờ phượng công cộng bởi vì trong kinh nghiệm của mình, tấm lòng cầu nguyện trong sự cô độc tốt hơn trong một cộng đoàn (!). Ông cũng rất không hài lòng với những gì ông đã tìm thấy khi ông đi lưu giảng tại các nước phương Tây, vì trong nhiều thế kỷ, họ đã lợi dụng quyển Kinh Thánh và nhân vật trung tâm trong sự  thờ phượng Chúa Giêsu, như là các vật tượng trưng. Sundar tuyên bố lời tố cáo gần như là lời tiên tri trên cơ đốc giáo phương Tây, và cười nhạo cách người tín đồ phương Tây khinh dể người tín ngưỡng của phương Đông như chỉ là dân ngoại" và “ngoại bang." Ông nói trong một cuộc trò chuyện với  tổng giám mục Upsala. Mọi người gọi chúng tôi là người ngoại bang.  Chỉ cần tưởng tượng! Mẹ tôi ngoại đạo! Nếu ấy vẫn còn sống bây giờ,   ấy chắc chắn sẽ là một cơ đốc nhân. Nhưng ngay cả khi ấy theo đức tin của tổ tiên mình, vẫn là người tín ngưỡng, vì thuật ngữngoại đạo " của các ông làm cho tôi mỉm cười. đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, phục vụ Đức Chúa Trời, yêu mến Đức Chúa Trời cách ấm áp và sâu sắc hơn nhiều cơ đốc nhân ngày nay.”

Trong một dịp khác, khi trò chuyện với tổng giám mục Canterbury, Anh Quốc, Sundar cho biết: Tôi đã thấy nhiều phụ nữ cơ đốc, nhưng không ai trong số họ sánh bằng mẹ tôi, nếu tôi không nhìn thấy mẹ tôi ở trên trời, tôi  xin Đức Chúa Trời gửi  tôi xuống địa ngục, đến nỗi mà tôi có thể ở bên cạnh bà ấy ". (!)

Sundar đã làm sáng tỏ quan niệm của mình, "Có nhiều người trong chúng tôi ở Ấn Độ, những người sống một đời sống thuộc linh cao hơn so với những người ở phương Tây, mặc dù họ không biết hoặc xưng nhận Christ. Dĩ nhiên thực sự là những người đó sống ở Ấn Độ đang tôn thờ thần tượng, nhưng ở đây, tại Anh quốc, người ta thờ phượng chính mình, và điều đó còn tồi tệ hơn. Những kẻ thờ thần tượng tìm kiếm chân lí, nhưng những người dân ở tại Anh quốc đây, cho đến nay như tôi có thể nhìn thấy, lại tìm kiếm khoái lạc và sự thoải mái. Dân phương Tây hiểu cách thức sử dụng điện lực, làm thế nào để bay trong không gian. Những người phương Đông đã tìm kiếm chân lí. Trong ba nhà thông thái, là những người đi đến Palestine để nhìn thấy Chúa Giêsu, thì không có ai  từ phương Tây cả. "

Ông du
hành Ấn Độ và Tây Tạng, cũng như phần còn lại của thế giới, với sứ điệp rằng lời giải thích hiện đại về Chúa Giêsu đã bị pha loãng cách đáng buồn. Sundar đã đến thăm Tây Tạng vào mỗi mùa hè, sau khi băng tuyết tan ra. Năm 1929, ông đến thăm nước này một lần nữa và không bao giờ có ai được nhìn thấy ông một lần nữa khi quay về./.