HỘI THÁNH TẠI SI-MIỆC-NƠ – SỰ SỐNG
PHỤC SINH
VÀ MÃO MIỆN SỰ SỐNG
Chúa đã tể trị việc trong việc chọn
các Hội thánh để thực hiện mục đích của Ngài. Ngài đã chọn bảy thành phố tại Tiểu
Á: Ê-phê-sô, Si-miệc-nơ, Bẹt-găm, Thi-a-ti-rơ, Sạt-đe, Phi-la-đen-phi và
Lao-đi-xê. Theo tiếng Hi Lạp, tên của mỗi thành phố rất có ý nghĩa, chính xác với
ý nghĩa thuộc linh của nó. Như chúng tôi đã chỉ ra, Ê-phê-sô có nghĩa là đáng
được ao ước, cho thấy rằng Hội thánh tại Ê-phô-sô thật quý báu đối với Chúa và
đáng được ao ước trong cách nhìn của Ngài. Trong tiếng Hi Lạp, Si-miệc-nơ có
nghĩa là một dược. Một dược là hương liệu có vị ngọt chỉ về nỗi đau khổ. Theo
hình bóng, một dược tượng trưng cho sự chịu khổ ngọt ngào của Đấng Christ. Vì
thế, Hội thánh tại Si-miệc-nơ là một Hội thánh chịu đau khổ, báo trước về Hội
thánh ở dưới sự bắt bớ của đế quốc La Mã từ nửa sau thế kỉ thứ nhất đến nửa đầu
thế kỉ thứ tư. Hội thánh bị bắt bớ này chịu đau khổ trong hương thơm và sự ngọt
ngào của Đấng Christ. Nói cách khác, Hội thánh này ở trong sự hoạn nạn của
Jesus và tương giao với những nổi khổ của Ngài. Hội thánh tại Si-miệc-nơ chịu
khổ như chính Đấng Christ đã từng chịu khổ, tiếp tục sự chịu khổ của Ngài.
Trong Cô-lô-se 1:24, Phao-lô nói rằng: “Nay tôi vui mừng trong các nỗi khổ của
tôi vì anh em, còn về phần tôi thì đem xác thịt mình mà bù đắp những gì còn thiếu
trong các hoạn nạn của Đấng Christ vì Thân thể Ngài, tức là Hội thánh”. Phao-lô
đã làm trọn những nổi khổ của Đấng Christ. Dù không ai có thể tiếp tục sự cứu
chuộc của Đấng Christ nhưng tất cả những người đi theo Ngài phải làm trọn những
nỗi khổ của Ngài vừa trong phương diện cá thể vừa trong phương diện tập thể.
Trong Hội thánh tại Si-miệc-nơ, chúng ta thấy sự tiếp tục những nổi khổ của
Jesus trong phương diện tập thể. Vì Hội thá
nh này tiếp tục những nỗi khổ của
Jesus nên đây thực sự là chứng cớ của Jesus.
I. ĐẤNG PHÁT NGÔN
A. Đấng Đầu tiên và Sau cùng
Bây giờ chúng ta hãy xem xét về Đấng
phát ngôn với Hội thánh tại Si-miệc-nơ. Trong câu 8, Chúa phán: “Đấng Đầu tiên
và Sau cùng, Đấng đã chết rồi mà lại sống, phán rằng”. Chúa phán với Hội thánh
chịu khổ ấy rằng Ngài là Đấng Đầu tiên và Sau cùng. Điều này có nghĩa là dù những
nỗi khổ Ngài đã trải qua có khắc nghiệt thế nào thì những nổi khổ ấy cũng không
thể hủy diệt hay làm tổn hại Ngài. Ngài là Đấng Đầu tiên; và rốt cuộc, Ngài
cũng là Đấng Sau cùng. Trong sự chịu khổ, Hội thánh phải biết Chúa là Đấng Đầu
tiên và Sau cùng, Đấng hằng hữu, bất biến. Dù hoàn cảnh như thế nào, Ngài vẫn
như vậy. Không gì có thể đến trước Ngài cũng không gì có thể hiện hữu sau Ngài.
Mọi sự đều ở trong vòng kiểm soát của Ngài.
Khi Chúa phán với Hội thánh tại
Si-miệc-nơ rằng Ngài là Đấng Đầu tiên và Sau cùng, thì Ngài cho thấy rằng Hội
thánh phải đắc thắng. Hội thánh không nên để bất cứ loại đau khổ nào làm cản trở.
Hội thánh không nên để bất cứ loại đau khổ nào làm cản trở. Hội thánh phải trải
qua tất cả những nổi khổ và đi đến cùng vì Chúa, Đấng là sự sống và Đầu của Hội
thánh, là Đấng Đầu tiên và Sau cùng.
B. Đấng đã chết mà lại sống
Trong câu này, Chúa cũng nói Ngài
là “Đấng đã chết rồi mà lại sống”. “Lại sống” có nghĩa là phục sinh. Chúa đã chịu
chết và sống lại. Ngài đã buớc vào sự chết, nhưng sự chết không thể cầm giữ Ngài
(Công. 2:24) vì Ngài là sự phục sinh (Gi. 11:25). Hội thánh chịu khổ cũng cần
biết Ngài là môt Đấng như vậy dể có thể chịu đựng mọi nỗi khổ. Dù sự bắt bớ có
khắc nghiệt thế nào đi nữa, Hội thánh vẫn sẽ sống động, vì sự sống phục sinh của
Đấng Christ bên trong Hội thánh có thể chịu nổi sự chết. Cùng lắm thì sự chịu
khổ và bắt bớ chỉ là giết chúng ta thôi. Sau sự chết vì bắt bớ thì có sự phục
sinh. Vì vậy, dường như Chúa nói với Hội thánh chịu khổ rằng: “Các con phải nhận
biết Ta là Đấng đã chịu bắt bớ đến chết. Tuy nhiên, sự chết ấy không phải là tận
cùng mà là cánh cổng đưa vào sự phục sinh. Khi bước vào sự chết, Ta bước vào
ngưỡng cửa của sự phục sinh. Đừng sợ hãi sự bắt bớ, cũng đừng khiếp sợ việc có
thể bị giết. Các con phải đón tiếp sự chết và vui vẻ, vì một khi đi vào sự chết
thi các con ở ngưỡng cửa của sự phục sinh. Hãy nhớ rằng Ta là Đấng dã chết mà lại
sống”. Chúng ta cần điều gì thì Chúa là điều ấy. Các phẩm chất của Ngài hoàn
toàn đáp ứng nhu cầu của chúng ta. Đối với Hội thánh chịu khổ, Chúa không những
là Đấng Đầu tiên và sự khởi đầu mà còn là Đấng Sau cùng và sự kết thúc. Mỗi khi
trải qua bắt bớ, anh em phải trỗi dậy và công bố: “Ha-lê-lu-gia, tôi đang đi đến
chỗ kết thúc, tận cùng. Tôi sắp bước vào cánh cổng của sự phục sinh”.
II. NỔI KHỔ CỦA HỘI THÁNH
A. Hoạn nạn
Trong câu 8, Chúa phán với Hội
thánh tại Si-miệc-nơ rằng: “Ta biết sự hoạn nạn của con”. Nội dung của bức thư
này không có gì ngoài hoạn nạn, đau khổ và bắt bớ. Đối với Hội thánh, hoạn nạn
là thử nghiệm sự sống. Mức độ Hội thánh kinh nghiệm và vui hưởng sự sống phục
sinh của Đấng Christ chỉ có thể được thử nhiệm bằng hoạn nạn. Hơn nữa, hoạn nạn
cũng đem đến những điều phong phú từ sự sống phục sinh của Đấng Christ. Mục
đích của Chúa trong việc cho phép Hội thánh chịu hoạn nạn không những để làm chứng
rằng sự sống phục sinh của Ngài đắc thắng sự chết mà còn giúp Hội thánh bước
vào những điều phong phú của sự sống Ngài. Vì thế, hoạn nạn thật quý báu đối với
Hội thánh
B. Nghèo khó (nhưng giàu có)
Chúa phán: “ta biết sự hoạn nạn của
con, sự nghèo khổ của con song thật con giàu có”. Chúa đang đánh giá cao Hội
thánh chịu khổ này. Hội thánh chịu khổ ấy vốn nghèo khó về vật chất nhưng lại
giàu có trong Chúa với những điều phong phú của sự sống Ngài. Cho nên, dường
như Chúa phán: “các con chịu bắt bớ và nghèo khó nhưng các con giàu có. Các con
nghèo về vật chất, nhưng giàu về phương diện thuộc linh. Các con nghèo trong những
điều thuộc đất nhưng giàu trong những điều thuộc trời”. Chịu bắt cớ là phương
diện đem chúng ta vào những điều phong phú của Đấng Christ. Càng bị bắt bớ và
chịu nghèo khó, chúng ta càng giàu có trong Đấng Christ
C. Lời vu khống của người Do Thái
vô tín từ nhà hội của Sa-tan
Trong câu 9, Chúa cũng nói rằng Ngài
biết “lời nhạo báng của kẻ tự xưng là người Do Thái mà không phải là người Do
Thái, bèn là nhà hội của Sa-tan” Theo bức thư này, sự bắt bớ đến từ tôn giáo, từ
những người Do Thái vô tín thuộc nhà hội của Sa-tan. Lời vu khống của những người
theo Do Thái giáo về Hội thánh chịu khổ chính là lời nói xấu của họ về Hội
thánh. Người theo Do Thái giáo là người Do Thái trong xác thịt, không phải là
người Do Thái trong linh (La.2:8-29). Chỉ là dòng sông của Áp-ra-ham trong xác
thịt thì không làm hô thành người Do Thái thật. “Chẳng phải con cái thuộc xác
thịt là con cái của Đức Chúa Trời” (La.9:7-8). Vì vậy, Chúa nói rằng họ “tự
xưng là người Do Thái mà không phải là người Do Thái”. Những người theo Do Thái
giáo này kiên quyết đòi giữ lại hệ thống Do Thái giáo của họ gồm có chức vụ tế
lễ Lê-vi, các nghi lễ dâng sinh tế và đền thờ vật chất mà đều là những hình
bóng bây giờ đã được Christ hoàn thành và thay thế. Vì Hội thánh dưới giao ước
mới trong cuộc gia tể của Đức Chúa Trời không có phần gì trong sự thực hành tôn
giáo của họ nên những người Do Thái chỉ trích Hội thánh cách nhạo báng. Về
nguyên tắc tình trạng ngày nay cũng như vậy vì những người tôn giáo vu khống
các Hội thánh trong sự khôi phục của Chúa tức là những người tìm kiếm Chúa và
bước theo Ngài trong linh và trong sự sống mà không quan tâm đến hệ thống hay sự
thực hành tôn giáo nào
Chúa phán rằng những người tự
xưng là người Do Thái mà không phải thì chính là “nhà hội của Sa-tan”. Từ liệu
“nhà hội của Sa-tan” là một từ liệu kinh khủng. Nhà hội là nơi những người Do
Thái thờ phượng Đức Chúa Trời chủ yếu bằng việc nghiên cứu Kinh văn của họ là Cựu
Ước. Tuy nhiên, do cố chấp bám lấy những quan niệm truyền thống, tôn giáo của
mình, nên họ trở nên một với Sa-tan và chống đối đường lối sự sống của Đức Chúa
Trời, là đường lối thực hiện mục đích của Ngài. Nhà hội ở dưới bàn tay điều khiển,
thao túng của Sa-tan, bì bấy giờ hắn là quyền lực ở đằng sau nhà hội. Các nhà hội
bắt bớ Chúa Jesus (Mat.12:9-14; Lu.4:28-29; Gi.9:22) bắt bớ các sứ đồ
(Công.6:9, 45-46, 50; 14:1-2, 19; 17:1, 5-6) và bắt bớ các Hội thánh (Khải
3:9). Vì vậy, Chúa gọi là “nhà hội của Sa-tan”. Ngay cả khi còn ở trên đất, Ngài
cũng đã xem các nhà hội là thuộc về Sa-tan, như được hàm ý trong Ma-thi-ơ
12:25-29 và Giăng 8:44. Dường như họ thờ phượng Đức Chúa Trời nhưng thật ra họ
chống đối Ngài. Họ bắt bớ và giết chết những người thờ phương thật của Đức Chúa
Trời nhưng tự cho là mình đang phụng sự Đức Chúa Trời (Gi.16:2). Khi Chúa ở
trên đất, những người Do Thái không thể trực tiếp xử lí Ngài vì bấy giờ họ
không có quyền giết Chúa bằng cách ném đá Ngài. Vì thế họ lợi dụng chính quyền
La Mã để xử tử Ngài và đóng đinh Ngài. Theo cùng một nguyên tắc, các nhà hội Do
Thái đã xúi giục chính quyền La Mã bắt bớ Hội thánh chịu khổ. Từ đó, trải qua
suốt các thế kỉ, những người tôn giáo đã đi theo bước chân của họ mà bắt bớ những
người chân thành tìm kiếm và bước theo Chúa trong linh và sự sống, trong khi họ
vẫn tự cho mình là đang bảo vệ quyền lợi của Đức Chúa Trời.
D. Bị ma quỷ giam vào ngục
Trong câu 10, Chúa phán: “Các con
chớ sợ điều mình sắp chịu khổ. Này, ma quỷ sắp quăng mấy kẻ trong các con vào
ngục, hầu thử thách các con” Câu 9 đề cập đến Sa-tan, còn câu 10 đề cập đến Ma
Quỷ. Trong tiếng Hi-Lạp, Sa-tan có nghĩa là kẻ nội thù. Hắn không những là kẻ
thù của Đức Chúa Trời ở bên ngoài, mà còn là kẻ thù của Ngài ở bên trong. Chữ
Hi-lạp diabolos được dịch là Ma quỷ
có nghĩa là kẻ tố cáo, kẻ vu khống (12:9-10). Ma quỷ, tức Sa-tan, kẻ nội thù của
Đức Chúa Trời, tố cáo chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời và vu khống chúng ta trước
mặt loài người. Sự bắt bớ mà Hội thánh đã chịu bắt đầu từ nhà hội tôn giáo của
người Do Thái do Sa-tan là kẻ nội thù xúi giục. Điều này được hoàn tất bởi
chính quyền La Mã vốn bị ma quỷ là kẻ vu khống dùng để giam các thánh đồ vào ngục.
Việc giam Hội thánh chịu khổ vào ngục là sự cộng tác của chính quyền La Mã thuộc
Ma quỷ và tôn giáo thuộc Sa-tan.
E. Sự hoạn nạn trọn vẹn nhưng ngắn
ngủi
Trong câu 10, Chúa cũng nói rằng
họ sẽ bị hoạn nạn 10 ngày. Số 10 là con số trọn vẹn, chẳng hạn như 10 điều răn
nói lên sự đòi hỏi trọn vẹn của Đức Chúa Trời, và một phần mười các lễ vật cho
thấy 10 phần thì tạo một lễ vật trọn vẹn. Mười ngày trong Kinh Thánh chỉ về một
khoảng thời gian trọn vẹn nhưng ngắn ngủi (sáng.24:55; Giê.42:7; Đa.1:12-13).
Vì vậy, điều này cho thấy rằng sự hoạn nạn của Hội thánh chịu khổ là trọn vẹn
nhưng ngắn ngủi. Đối với chúng ta, sự bắt bớ có thể đường như dài, nhưng theo
cách nhìn của Đức Chúa Trời, điều này thật ngắn ngủi. Sự bắt bớ ấy không phải
kéo dài 1.000 ngày hay thậm chí 100 ngày mà chỉ 10 ngày. Ngợi khen Chúa! Sự chịu
khổ này chỉ là một sự chịu khổ tạm thời.
Mười ngày ấy là dấu hiệu báo trước
về 10 giai đoạn bắt bớ mà Hội thánh phải chịu dưới tay các hoàng đế La Mã, bắt
đầu từ Sê-sa Neron vào nửa sau thế kỉ thứ nhất đến đại đế Constantine ở đầu thế
kỉ thứ tư. Tuy nhiên, dù Ma quỷ là Sa-tan đã xúi giục các Sê-sa La Mã bắt bớ Hội thánh, và họ đã cố
gắng hết sức phá hủy, diệt trừ Hội thánh, nhưng họ vẫn không thể chinh phục và
kết liễu Hội thánh. Lịch sử chứng minh rằng Hội thánh của Đấng Christ hằng sống,
“Đấng đã chết rồi mà lại sống” đã đương đầu một cách đắc thắng với những sự bắt
bớ và gia tăng này bởi sự sống phục sinh bật diệt.
III. SỰ SỐNG PHỤC SINH – KHẢ NĂNG
BỀN CHỊU CHO ĐẾN CHẾT
Trong câu 10, Chúa cũng phán:
“Khá trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho các con mão miện của sự sống”
Trong bức thư này, chúng ta thấy vài dấu hiệu cho thấy sự sống phục sinh ở
trong Hội tháng. Khi Chúa bày tỏ những phẩm chất của Ngài trong câu 6, rằng Ngài
là Đấng đã chết và lại sống, thì Ngài cho thấy rằng sự sống phục sinh của Ngài
đang ở trong Hội thánh. Dường như Chúa phán: “Ta là phục sinh đang sống trong
các con. Vì các con có sự sống phục sinh bên trong nên các con không có lí do
hay viện cớ gì để thất bại. Các con không cần phải đi đánh bại trước sự bắt bớ.
Trái lại, các con phải chịu sự bắt bớ này cách đúng đắn bởi sự sống phục sinh của
Ta “Vì có sự sống phục sinh này nên Hội thánh có thể chịu hoàn nạn thậm chí cho
đến chết. Hội thánh luôn luôn có đủ điều kiện để làm người tuận đạo kì diệu, đắc
thắng và vinh hiển. Tất cả chúng ta đều có đủ điều kiện làm những người tuận đạo
đắc thắng vì chúng ta có sự sống phục sinh bên trong mình.
IV. SỰ PHÁT NGÔN CỦA ĐỨC LINH
Lời Chúa trong bức thư này cho Hội
thánh chịu khổ cũng là sự phát ngôn của Linh cho tất cả các Hội thánh. Điều này
cho thấy rằng tất cả các Hội thánh có thể kinh nghiệm cùng một sự chịu khổ. Thật
ra, trong Hội thánh nào cũng có vài thánh đồ đang trải qua loại bắt bớ này. Tất
cả họ đều phải nghe lời phát ngôn của Linh với Hội thánh chịu khổ này. Qua sự
phát ngôn nhiều lần của Linh, Lời Chúa trong bức thư này đến với tất cả các
thánh đồ chịu bắt bớ vì cớ Chúa trải qua các thế hệ
V. LỜI HỨA CHO NGƯỜI ĐẮC THẮNG
A. Mão miện sự sống
Trong câu 10, chúng ta thấy lời hứa
cho người đắc thắng-mão miện sự sống. Cuối cùng, sự sống sẽ trở nên mão miện.
Đó là vinh hiển của những người tuận đạo đắc thắng. Theo cách dùng trong Tân Ước,
mão miện luôn chỉ về phần thưởng thêm vào sự cứu rỗi (3:11; Gia. 1:12; 2 Ti.
4:8; 1 Phi. 5:4; 1 Cô. 9:25). Mão miện sự sống là phần thưởng cho những người
trung tín cho đến chết trong việc đắc thắng sự bắt bớ, chỉ về sức mạnh đắc thắng,
tức quyền năng của sự sống phục sinh (Phil. 3:10); điều này cũng cho thấy những
người đắc thắng ấy đã đạt đến “sự sống lại vượt trỗi từ trong kẻ chết”, tức sự
phục sinh vượt trỗi (Phil. 3:11, nguyên văn Hi Lạp).
B. Chẳng bị hại bởi lần chết thứ
hai
Trong câu 11, Chúa phán: “Kẻ đắc
thắng hẳn chẳng bị hại bởi lần chết thứ hai”. Đắc thắng trong bức thư này có
nghĩa là đắc thắng sự bắt bớ bằng cách trung tín cho đến chết. Lời hứa cho người
đắc thắng trong bức thư này vừa có phương diện tích cực là nhận mão miện của sự
sống, vừa có phương diện tiêu cực là không bị hại bởi lần chết thứ hai.
Câu 11 là một nan đề lớn cho những
người giải nghĩa sách Khải Thị. Do có sự sa ngã và tội nên mọi người đều phải
chết một lần (Hê. 9:27). Tuy nhiên, lần chết thứ nhất ấy chưa phải là sự giải
quyết cuối cùng. Ngoài những người được ghi vào sách sự sống bởi đức tin nơi Chúa
Jesus, còn tất cả những người chết đều sẽ sống lại và trải qua phán xét ở ngai
trắng lớn vào cuối thời đại ngàn năm, tức là vào cuối thời kì thuộc trời cũ và
đất cũ. Kết quả của sự phán xét ấy là tất cả họ sẽ bị ném vào hồ lửa, và đó là
lần chết thứ hai, là sự giải quyết cuối cùng (Khải. 20:11-15). Lần chết thứ hai
chính là sách Đức Chúa Trời xử lí con người sau khi họ đã chết và sống lại. Vì
những người đắc thắng sự chết bởi trung tín cho đến chết dưới sự bắt bớ và
không còn gì để Đức Chúa Trời xử lí thêm, nên họ sẽ được thưởng bằng mão miện sự
sống và sẽ không bị chạm đến hay “làm hại” nữa bởi sự chết, tức lần chết thứ
hai, sau khi sống lại.
Hầu như giáo sư Cơ Đốc nào cũng gặp
nan đề ở đây, vì họ nghĩ rằng sau khi tín đồ sống lại thì không còn gì phải giải
quyết nữa. Tôi xin nêu lên một câu hỏi với anh em: Giả như anh em chết ngay hôm
nay, anh em có thể nói mình không còn gì cần Chúa xử lí không? Có lẽ anh em
không thể nói như vậy. Điều này có nghĩa là nếu chết ngay hôm nay thì anh em vẫn
còn có gì đó cần Chúa xử lí thêm. Nói như vậy không có nghĩa là anh em hư mất.
Tuy nhiên, sự xử lí thêm ấy không phải là điều gì đó tích cực; điều này chắc chắn
mang tính tiêu cực. Mọi điều tiêu cực đều đến từ sự chết. Vì thế, nếu anh em cần
thêm sự xử lí tiêu tực, điều đó có nghĩa là anh em vẫn có thể bị sự chết chạm đến.
Nói như vậy không có nghĩa là anh em sẽ bị diệt vong mà cho thấy rằng anh em sẽ
chịu khổ. Chúng ta phải lắng nghe lời Chúa. Nếu đắc thắng sự bắt bớ thì về mặt
tích cực, chúng ta sẽ nhận được mão miện sự sống, còn về mặt tiêu cực, chúng ta
sẽ không bị tổn hại bởi lần chết thứ hai.
Tất cả chúng ta cần là những người
đắc thắng. Nếu không làm một người đắc thắng trong thời đại này, anh em sẽ bị tổn
hại bởi lần chết thứ hai trong thời đại sau. Ai cũng thấy khó giải thích rõ việc
bị làm hại bởi lần chết thứ hai có nghĩa gì. Tuy nhiên, có một điều rõ ràng là:
nếu anh em không đắc thắng sự bắt bớ thì một điều gì đó sẽ làm tổn hại anh em.
Tôi lặp lại rằng điều này không có nghĩa là anh em sẽ hư mất, anh em sẽ bị diệt
vong. Không, người nào đã được cứu thì được cứu cho đến đời đời. Giăng 10:28 và
29 cho thấy rằng không người nào đã được cứu lại có thể bị diệt vong một lần nữa.
Tuy nhiên, sau khi sống lại, chúng ta có thể bị Chúa xử lí ở mức độ nào đó. Đừng
cứ bám lấy thần học truyền thống là điều dạy rằng sau khi anh em được sống lại
thì mọi sự điều sẽ ổn thỏa. Sau khi những người vô tín sống lại, họ sẽ bị Đức Chúa
Trời xử lí về định mệnh đời đời của họ. Theo cùng một nguyên tắc, sau khi sống
lại, chúng ta vẫn bị Chúa xử lí một số điều nào đó. Tất cả đều tùy thuộc vào việc
ngày nay chúng ta sống và bước đi như thế nào. Nếu chúng ta sống đã bước đi
cách đắc thắng thì tình trạng ấy cho thấy rằng chúng ta đã đắc thắng sự chết và
không còn lại điều gì cần Chúa xử lí thêm.
Chúng ta phải nhận lấy lời rõ
ràng này của Chúa. Đừng chấp nhận sự dạy dỗ cho rằng nếu thất bại sau khi được
cứu thì anh em lại sẽ hư mất và bị diệt vong. Dạy như vậy là không đúng. Thái cực
kia thì dạy rằng sau khi đã được cứu, anh em không còn nan đề gì với Chúa. Tuy
nhiên, một người đã được cứu đời đời vẫn còn cần được Ngài xử lí. Đây là phúc
âm trọn vẹn. Phúc âm trọn vẹn là toàn bộ Tân Ước, chứ không phải chỉ có Giăng
3:16. Ở đây trong Khải Thị 2:11, có một phần về phúc âm trọn vẹn, nói rằng
chúng ta phải đắc thắng mọi sự bắt bớ. Nếu không đắc thắng, anh em sẽ không nhận
được mão miện sự sống; thay vì thế, anh em sẽ bị tổn hại nởi lần chết thứ hai.
Nếu đắc thắng sự bắt bớ và hoạn nạn bởi sự sống phục sinh bên trong mình, thì về
mặt tích cực, anh em sẽ nhận được mão miện của sự sống, còn về mặt tiêu cực,
anh em sẽ không bị lần chết thứ hai chạm đến. Chúa đã hứa rõ ràng như vậy, và tất
cả chúng ta đều phải nhận lấy lời hứa ấy. Dù có hiểu lời Ngài hay không, tất cả
chúng ta vẫn phải chấp nhận lời Chúa. Nếu tin Giăng 3:16, anh em cũng phải tin
Khải Thị 2:11. Cả hai câu Kinh Thánh ấy đều là lời Chúa. Tôi lặp lại rằng đây
là phúc âm trọn vẹn.
Vấn đề này bị che khuất lâu nay,
và không bao nhiêu Cơ Đốc nhân dám chạm đến điều này. Vì không thể hiểu vấn đề
này nên họ thường không thực hành, bỏ qua. Nhưng Chúa sẽ không bao giờ bỏ qua lời
của Ngài. Bất cứ điều gì Ngài nói thì Ngài cũng sẽ thực hiện. Vì vậy, chúng ta
cần phải được cảnh cáo rằng chúng ta phải đắc thắng sự hoạn nạn, khổ sở và bắt
bớ, để có thể nhận được mão miện sự sống và không bị hại bởi lần chết thứ hai.
Nếu đắc thắng như vậy, chúng ta không còn gì để Chúa xử lí thêm trong tương
lai.