-
1. Hội Thánh Và Luật Pháp Cựu Ước-
--Câu hỏi:
Các lời trong
Ma-thi-ơ 5: 17-19 "Đừng tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc lời tiên tri; ta đến không phải để phá đâu,
bèn để làm trọn. Vì quả thật, Ta nói cùng các ngươi, mãi đến khi trời đất qua đi, một chấm một nét
trong luật pháp hẳn không qua đi cho đến khi mọi sự thành tựu rồi. Vậy, hễ ai trái bỏ một điều nhỏ hơn hết trong
những điều răn nầy và dạy người ta như vậy, thì sẽ bị gọi là nhỏ hơn hết trong
nước trời; còn hễ ai làm theo và dạy dỗ những điều răn ấy, thì sẽ được gọi là lớn
trong nước trời”--- về việc làm trọn luật
pháp và thực hành luật pháp chỉ đề cập đến người Do Thái mà thôi phải
không? Chúng có liên quan gì đến hội
thánh không? Xin hãy hướng dẫn tôi.
-
--Trả Lời:
Ma-thi-ơ 5:17 nói về
Chúa Giê-su,
không phải nói về thế giới. Không ai trên thế giới có thể làm trọn luật pháp và
các lời tiên tri. Những người cố gắng làm điều này là không biết gì về bản thân
mình hoặc cố gắng thay thế công việc của Chúa. Việc làm trọn luật pháp nầy ám
chỉ đến sự chết
cứu chuộc của Chúa Giê-su. Do đó, nếu một người nào nói,
"Nếu Chúa Giê-su đã làm trọn luật pháp, thì một Cơ đốc nhân có phải làm
như vậy không?" Ông ấy nói rằng vì Chúa Giê-su phải chuộc con người khỏi tội
lỗi, các tín nhân cũng nên chuộc con người khỏi tội lỗi! Luật pháp trong câu 19
ám chỉ đến bài giảng dạy trên núi. Điều nầy không dành cho người Do Thái.
Xin đọc Ma-thi-ơ chương 5 câu 1 và 2. Vì
"đám đông", Chúa đã lên núi. Ngài chỉ mở miệng mình để dạy các môn đồ. Các môn đồ là những Cơ
đốc nhân (Công vụ 11:26). Do đó, việc giảng dạy trên núi, đó là luật pháp trong
câu 19, là dành cho các Cơ đốc nhân .
-
2. Lửa Thiêu Hủy Công Trình Tín Đồ-
--Câu hỏi:
1 Cô-rinh-tô 3:15
“Nếu công trình của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ bị lỗ, còn chính người thì
sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy”. Lửa đây là lửa gì? Có phải ngục luyện
tội chăng?
-
--Trả Lời:
Cơ Đốc nhân chân thật được cứu bởi ân điển, dù công trình hầu việc Chúa của
họ như cỏ khô, rơm rạ, bị thiêu hủy, là mất phần thưởng, nhưng họ không mất sự
cứu rỗi. Lửa nầy không phải là lửa ngục luyện tội mà Công giáo dạy dỗ. Lửa nầy
ngụ ý tín đồ mất phần thưởng sẽ bị hình phạt, bằng lửa của hồ lửa. Họ sẽ chịu
khổ trong nơi kỉ luật riêng, không phải trong hồ lửa.
-
3 -Tại Sao Chúa Muốn Giết Môi-se?
- Câu hỏi:
Trong Xuất Ai-cập Kí 4:24, chúng ta đọc rằng Đức Chúa Trời đã tìm cách
giết Môi-se trên đường ra khỏi vùng hoang dã để đến Ai Cập trong quán trọ. Làm
thế nào để tôi hiểu điều này?
-
- Trả lời
Xuất Ê-díp-tô Ký 4:24 “Dọc đường, tại một quán trọ, Đức Giê-hô-va hiện
ra với Môi-se và tìm cách giết ông. Sê-phô-ra lấy con dao bằng đá, cắt dương bì
của con mình, rồi lấy nó chạm vào chân Môi-se, và nói: “Thật, chàng là người chồng
huyết cho tôi!” Đức Giê-hô-va tha cho
Môi-se. Do việc cắt bì nầy mà Sê-phô-ra nói: “Chàng là người chồng huyết”.
Không có vấn đề, hay là một sự kiện bí ẩn, nhưng khi chúng ta điều tra
việc đó, nó có một nguyên nhân tự nhiên. Đức Chúa Trời đã ủy thác Môi-se làm người lập pháp cho dân của Ngài, ông vẫn
còn ở Ai Cập. Làm sao có thể khác hơn là bản thân ông trước tiên phải quy phục
luật pháp. Nếu tôi không làm những gì tôi giảng dạy, tôi sẽ bị khiển trách như
những người khác. Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cắt bì mọi người nam từ trước
(Sáng 17:10).
-
Tuy nhiên, Sê-phô-ra, đã dùng "con
dao" che chở cho hai con trai mình và đã không cắt bì hai cậu, cho đến
ngày nay, nên lúc đó hai cậu con chừng 30 tuổi. Nói theo nghĩa bóng, cô run rẩy
trước thập tự giá, trong khi mối liên hệ với Môi-se, một mô hình của Đấng
Christ, chứa đựng cái chết cho bản chất tội lỗi. Sê-phô-ra, như chúng ta biết,
là một mô hình của hội thánh, được Đấng Christ liên kết. Bản thân Môi-se, với sự
thiếu cân nhắc cho vợ mình, đã khoan dung sự cắt bì của con trai mình, nên Đức
Chúa Trời phải đặt tay lên chính Môi-se.
Bất kỳ sự không trung thành nào liên quan đến lệnh thần thượng đều giáng
lại trên chúng ta. Có thể là Môi-se đã bị bệnh nặng tại nhà trọ, hay vì bất kỳ
lý do nào khác - Sê-phô-ra ngay lập tức nhận ra điều đó là gì, và ngay lập tức
cô với lấy con dao để sửa chữa sự thất bại của cô về việc cắt bì hai con trai
mình. Đức Chúa Trời đã buông tha Môi-se (câu 26). Thật là một bài học nghiêm
túc! Cắt bì có nghĩa là chúng ta nên loại xác thịt ra khỏi con đường và nhường
chỗ cho Lời của Ngài, nếu không thì chức vụ và lời chứng không thể có được sự
hướng dẫn và quyền năng của Thánh Linh.
-
4- Ta Lâng-
--Câu hỏi:
Làm thế nào chúng ta diễn giải dụ ngôn trong Ma-thi-ơ 25:27?
-
--Trả lời:
Những tài năng (ta-lâng) trong dụ ngôn này là ân tứ của Đức Thánh LInh.
"Thế thì ngươi đã phải gởi tiền ta cho các chủ ngân-hàng, và khi Ta đến, Ta
hẳn đã thu-nhận lại tiền của Ta với tiền lời " (câu 27) --có nghĩa là truyền
lại cho một hoặc hai người ân tứ mà bạn đã nhận được từ Đức Thánh Linh và giúp
họ làm việc, để bạn có thể nhận được một số tiền lời gián tiếp. Khi Chúa trở lại,
bạn có thể thu hồi "tiền lời” [của Chúa].
-
5- Sự Cám Dỗ
--Câu hỏi:
Ma quỷ cám dỗ A-đam bằng cách sử dụng một con rắn. Nhưng trong Ma-thi-ơ
4: 1-2, Ma quỷ đã dùng điều gì để cám dỗ Chúa Giê-su?
-
--Trả lời:
Sa-tan không có được một nơi nhỏ nhất trong Chúa Giê-su (Giăng 14:30).
Do đó, hắn không thể cám dỗ Chúa Giê-su giống như cách hắn cám dỗ chúng ta. Có
lẽ hắn xuất hiện trong thân vị của chính mình khi cám dỗ Ngài.
-
6- Sự Ép Buộc-
-Câu hỏi:
Nếu ai đó sử dụng Ma-thi-ơ 5: 39-42 để ép buộc tôi cho đến khi tôi không
thể chịu đựng được nữa, tôi nên giải quyết như thế nào?
-
-Trả lời:
Chúng ta nên giữ bài giảng trên núi theo nghĩa đen từng chữ. Tất cả những
gì chúng ta có thể giữ, chúng ta nên giữ. Nhưng điều này vẫn chưa phải là một quy
luật. Khi thập giá của Chúa làm được một công việc sâu thẳm trong tấm lòng của
con người, việc giữ những lời này dường như là một điều tự nhiên. Sẽ không có
lúc chúng ta "không thể chịu đựng được nữa", bởi vì có 1 Cô-rinh-tô
10:13. Nếu chúng ta tin câu này, Chúa phải mở đường.
-
7—Các Ẩn Dụ
--Câu hỏi:
Bằng cách đọc Ma-thi-ơ 13: 10-15, người ta tin rằng mục đích của việc sử
dụng các dụ ngôn là làm cho việc nói năng trở nên khó hiểu. Nhưng thông thường,
mọi người sử dụng các dụ ngôn là để làm cho việc nói năng dễ hiểu. Cái nào
đúng? Sai chỗ nào?
-
--Trả lời:
Trong mười hai chương đầu, Chúa Giê-su đã chịu đựng sự từ chối của người Do Thái; Vì vậy, từ chương mười
ba, Chúa Giê-su bắt đầu từ chối
dân Israel. Trong chương này, Chúa phân biệt các môn đồ của Ngài với người Do
Thái. Mắt Ngài đã nhìn vào hội thánh. Khi sử dụng các dụ ngôn ở đây, Chúa đã cố
gắng làm cho các môn đồ của Ngài (Hội thánh tương lai) hiểu được những huyền
nhiệm của vương quốc thiên đàng (câu 11), đồng thời khiến người Do Thái nghe
nhưng không hiểu và thấy nhưng không am tường. Bằng cách sử dụng các dụ ngôn,
Ngài đã không cố gắng làm cho tất cả con người khó hiểu được sự thật, chỉ có một
phần của thính giả mà thôi.
-
8- Tiếng Mới-
--Câu hỏi:
Những người đã nhận được Đức Thánh Linh bây giờ nói tiếng lạ. Nhưng những
người khác không hiểu tiếng lạ của họ. Những tiếng này có giống như những tiếng
lạ được nói trong Kinh Thánh không?
-
-Trả lời:
Một số tiếng lạ được đề cập trong Kinh Thánh không được người khác hiểu
(1 Cô 14: 7-9), nhưng chúng vẫn là ngôn ngữ của con người (câu 21). Gần đây, những
tiếng nói của những người tuyên bố họ có thể nói tiếng lạ thì không phải là
phương ngữ hay thổ ngữ của bất kỳ dân nào ở bất kỳ quốc gia nào hoặc ở bất kỳ
nơi nào; chúng chỉ đơn thuần là một loại lời lắp bắp vô nghĩa giống nhau và la
hét. Đây không phải là những tiếng lạ được nói trong Kinh Thánh (Công 2:7-11).
-
9- Kinh Thánh Ghi Chép-
--Câu hỏi:
Ma-thi-ơ 8: 5-13 và Lu-ca 7: 1-10 ghi lại câu chuyện về một bách nhân đội
trưởng yêu cầu sự chữa lành. Tại sao một bản được viết theo cách chủ quan và bản
kia theo cách khách quan? –
-
--Trả lời:
Những gì được ghi lại ở đây không phải là hai sự cố. Cũng hông phải là một
sự cố trong hai hồ sơ mâu thuẫn. Thực tế là: trước tiên ông đội trưởng đã cử ai
đó đến gặp Chúa, sau đó chính ông đã đến. Trình tự như sau. Đầu tiên là Lu-ca
7: 3-5, nơi ông sai vài người đến với Chúa Giê-su, sau đó là Lu-ca 7: 6a, nơi
những người nầy trở lại. Tiếp theo là Lu-ca 7: 6 b-8 và Ma-thi-ơ 8: 8-9, nơi
chính ông đội trưởng cũng đi. Cách ghi chép này hoàn toàn hài hòa với bản tánh
của Ma-thi-ơ và Lu-ca. Ma-thi-ơ đã xóa chi tiết việc đội trưởng sai những người
Do Thái khác, nhưng Lu-ca đã làm điều
ngược lại. Ma-thi-ơ đã xóa tất cả những gì sẽ làm cho người Do Thái kiêu ngạo.
Lu-ca đã viết cho dân ngoại đọc và liên quan đến sự tốt lành của đội trưởng qua
miệng người Do thái. Điều này được viết vì lợi ích của họ.
-
10- Được Xưng Nghĩa Bởi Việc Làm Trong Sách Gia-cơ-
-
-Câu hỏi:
-Có phải Ê-phê-sô 2: 8 và Gia-cơ 2:14 nói về hai điều riêng biệt: một về
việc cứu chính chúng ta và một về việc cứu người khác phải không? Nếu cả hai đề
cập đến cùng một điều, chúng không mâu thuẫn sao? Xin hãy sửa sai tôi.
-
-Trả lời:
Ê-phê-sô 2: 8 và Gia-cơ 2:14 đều nói về chúng ta. Chúng ta được cứu nhờ
đức tin. Điều này được toàn bộ Kinh Thánh chứng minh mà không cần tranh cãi.
Nhưng chúng ta nên biết rằng sự xưng nghĩa (xưng công chính) mà Phao-lô nói đến
khác với sự xưng nghĩa mà Gia-cơ nói đến. Chúng ta đã nhận được hai sự xưng
nghĩa. Trong Rô-ma 4, Phao-lô nói về sự thật (lẽ thật) của sự xưng nghĩa bằng đức
tin, trong khi trong Gia-cơ 2, ông
Gia-cơ nói về lý do cho sự xưng nghĩa bằng việc làm.
Một điều có thể được sử dụng như một chìa khóa để hiểu hai sự xưng nghĩa
này: lịch sử của Áp-ra-ham như được cả Phao-lô và Gia-cơ trích dẫn. Câu trích dẫn của Phao-lô về lịch sử
của Áp-ra-ham trong Rô-ma 4 là để chứng minh sự thật của sự xưng nghĩa bởi đức
tin, và nó được ghi lại trong Sáng thế ký 15, trong khi trích dẫn của Gia-cơ về
lịch sử của Áp-ra-ham trong Gia-cơ 2, là để chứng minh lý do có sự xưng nghĩa bằng
các việc làm, và nó được ghi lại trong Sáng thế ký 22.
Phao-lô đã nói về thời gian trước khi Áp-ra-ham có một đứa con trai, khi
ấy ông đã tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một đứa con trai. Gia-cơ nói về
sự vâng phục của Áp-ra-ham đối với Đức Chúa Trời khi dâng Y-sác như một của lễ.
Sự xưng nghĩa đầu tiên của Áp-ra-ham nằm ở niềm tin của ông vào việc Đức Chúa
Trời ban cho một đứa con trai. Sự xưng nghĩa thứ hai của ông ta nằm ở việc ông
dâng Y-sác. Áp-ra-ham đã được xưng nghĩa hai lần; các tín đồ cũng vậy. Đầu tiên
chúng ta được xưng nghĩa bằng đức tin, và sau đó chúng ta được xưng nghĩa bằng
các công việc. Thật không may, nhiều Cơ Đốc nhân chỉ nhận được sự xưng nghĩa đầu
tiên mà thôi.
-
Tuy nhiên, thất bại trong lần xưng nghĩa thứ hai không có nghĩa là một
người đã mất lời xưng nghĩa đầu tiên. Sự xưng nghĩa đầu tiên phụ thuộc hoàn
toàn vào Chúa Giê-su. Sự xưng nghĩa thứ hai có được sau khi nhận được sự xưng
nghĩa đầu tiên thông qua việc chiếm được công việc tốt của Chúa. Trong Rô-ma 4
và Ê-phê-sô 2, Phao-lô đã hủy bỏ công việc cách hoàn toàn. Trong thơ tín của
minh, Gia-cơ nhấn mạnh cả đức tin và công việc; ông không bao giờ hủy bỏ đức
tin.
Từ điều này chúng ta thấy rằng đức tin là nền tảng của sự xưng nghĩa.
Hơn nữa, sự cứu rỗi và sự xưng nghĩa được đề cập trong Gia-cơ 2:14 không phải
là sự xưng nghĩa và sự cứu rỗi trước mặt Đức Chúa Trời.
Điều mà câu này đang nói là trước mắt của con người, nếu không có việc làm
tốt, một Cơ đốc nhân sẽ không được coi là công bình ngay cả khi anh ta quy mọi
thứ cho đức tin vào Đức Chúa Trời.
Xin vui lòng đọc câu 18. Gia-cơ không nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không cứu hay xưng
nghĩa, vì ngay khi một người tin vào Chúa Giê-su, Đức Chúa Trời sẽ cứu anh ta
và xưng nghĩa cho anh ta (Ê-phê-sô 2: 8-9; Rô-ma 3:22 , 24, 28; 4: 4-5). Tuy
nhiên, thế giới sẽ chỉ trích đức tin của một người như vậy (Gia-cơ 2:18). Do
đó, Gia cơ chương 2 chỉ đơn thuần nói cho chúng ta quan điểm của con người. Mục
đích thư tín của Gia-cơ là để khuyến khích mọi người "trở thành người làm
theo lời (kinh thánh) và không chỉ nghe suông" (1:22).
-
Hơn nữa, những gì Gia cơ đề cập chỉ là sự đánh giá của con người. Do đó,
những lời như "đức tin đó có thể cứu anh ấy không?" "Đức tin ...
đã chết", v.v., chỉ đề cập đến những gì mọi người nhìn thấy ở một tín đồ
và kết quả của sự thật trong mắt con người. Chúng không đề cập đến linh hồn. Chúng ta nên biết rằng
trước tiên chúng ta được cứu, sau đó chúng ta thực hiện việc làm tốt. Chúng ta
không thực hiện công việc tốt trước và sau đó được cứu. Sau khi chúng ta được cứu,
chúng ta tự nhiên làm các công việc tốt. Nhưng những người chỉ đơn thuần thực
hiện công việc tốt sẽ không bao giờ được cứu. "Hãy tin vào Chúa Jêsus, và
bạn sẽ được cứu" (Công vụ 16:31).
-
11.Tuân Giữ Ngày Chúa Nhật:
-Câu hỏi:
Có người hỏi: "Có phải có điều răn của Đức Chúa Trời là chúng ta
tuân giữ ngày Chúa nhật?" Tôi không thể dùng Kinh thánh trả lời. Xin hướng
dẫn cho tôi.
-
Trả lời:
Thật vậy, bạn không thể sử dụng Kinh Thánh để trả lời anh ta. Tôi sợ rằng
không có nhà giải nghĩa Kinh Thánh trung thực nào có thể trả lời anh ta! Tôi
không thể tìm thấy bất kỳ điều răn nào trong Kinh Thánh nói rằng chúng ta nên
"tuân giữ" ngày Chúa nhật! Xin đừng hiểu lầm bằng cách nghĩ rằng
chúng ta nên tuân giữ ngày thứ bảy; cũng không có chuyện đó. Tôi chưa tìm thấy
đoạn nào trong Kinh thánh nói rằng Cơ đốc nhân nên tuân giữ ngày thứ bảy! Điều
đó có nghĩa là gì? Ngày Sa-bát (nghĩa là thứ bảy) thuộc về luật pháp. Nhưng
chúng ta, dân ngoại, không ở dưới luật pháp. (1) Trước khi chúng ta tin Chúa,
chúng ta là "dân ngoại, không có luật pháp" (Rô-ma 2:14). (2) Sau khi
chúng ta tin vào Chúa, sứ đồ nói rằng "anh em không ở dưới luật pháp"
(6:14). Tuy nhiên, "bất cứ điều gì luật pháp nói, nó đều nói với những người
ở dưới luật pháp" (3:19). Nếu những anh em đó khăng khăng rằng chúng ta
tuân giữ ngày Sa-bát mà không thể chứng minh cho chúng ta rằng ngày Sa-bát
không thuộc về luật pháp, họ không thể yêu cầu chúng ta giữ nó. Họ càng nói rằng
ngày Sa-bát rất quan trọng vì lý do đó là một điều răn quan trọng của luật
pháp, điều đó càng có nghĩa là chúng ta không nên giữ nó!
-
Nhưng có những người phạm phải sai lầm tương tự như những người giữ ngày
Sa-bát cách sốt sắng; họ là những người tuân giữ ngày Chúa nhật (thực ra là những
người tuân giữ Ngày của Chúa). (1) Họ nghĩ rằng vì các sứ đồ đã nhóm họp vào
ngày này, do đó chúng ta nên "tuân giữ" ngày này. Nhưng, tại sao các
sứ đồ chỉ họp lại vào ngày này, trong khi những người này muốn thay đổi nó có
nghĩa là họ phải tuân giữ ngày này? (2) Họ nghĩ rằng sau khi Chúa Giê-su chết,
theo Tân Ước, ngày Sa-bát được thay đổi từ Thứ Bảy sang Chúa Nhật. Nhưng Kinh
thánh nói điều này ở đâu? (3) Họ nghĩ rằng Ngày của Chúa là "Ngày Sa-bát Cơ
đốc ".
-
Trong nhiều giáo phái, Mười Điều Răn vẫn được giữ ở địa vị cao, và các
thành viên được khuyến khích giữ ngày
Sa-bát một cách trung thành. Tuy nhiên, ngày Sa-bát rõ ràng là ngày thứ bảy, tức
là thứ bảy hôm nay. Làm thế nào họ có thể đánh đổi mọi thứ xung quanh và biến
ngày đầu tuần (nghĩa là ngày Chúa nhật của chúng ta) thành ngày Sa-bát? Không
có gì lạ khi chúng ta nói rõ sự thật với những người sốt sắng giữ thứ bảy, các
hệ phái của họ mất nhiều thành viên. Chúng ta không phải đi vào chi tiết về điều
này.
Tất cả các lập luận của các giáo phái này làm cho ngày Chúa nhật thành
Ngày Sa-bát đã hoàn toàn bị những người Cơ Đốc Phục Lâm bác bỏ rồi. Theo nghiên
cứu của chúng tôi về Kinh Thánh, những người giữ ngày Sa-bát là sai, và những
người tuân giữ ngày Chúa nhật cũng sai. Cả hai đều sai. Những người giữ ngày
Sa-bát dẫn các Cơ Đốc nhân đến một vị trí hoàn toàn ở dưới luật pháp, trong khi
những người tuân giữ ngày Chúa nhật đang dẫn các Cơ Đốc nhân đến một vị trí là
sự pha trộn giữa luật pháp và ân sủng. Trong hai hướng nầy, cái sau nguy hiểm
hơn.
-
Mọi người rất sáng tỏ rằng Kinh Thánh đã
không truyền lệnh cho các tín đồ Tân Ước giữ ngày Sa-bát. Nhưng nơi nào
trong Kinh thánh chép các Cơ Đốc nhân được
yêu cầu giữ Ngày của Chúa? Chúng ta phải nói rằng không có một câu nào trong
Kinh thánh nói điều này. Trước khi tiếp tục, trước tiên hãy để tôi giải thích ý
nghĩa của thành ngữ "tuân giữ ngày Chúa nhật". Tuân giữ ngày Chúa nhật
là ngừng làm việc hoặc không làm bất kỳ công việc nào vào ngày Chúa nhật. Vào
ngày này các chủ cửa hàng nên đóng cửa hàng của họ để tuân giữ trong ngày.
Nhưng tôi có thể hỏi những người trong các giáo phái, "Tại sao bạn
tuân giữ ngày Chúa nhật theo cách này? Tại
sao các tín đồ không nên mua và bán vào ngày Chúa nhật, và tại sao ngày đó họ
không nên làm những gì họ làm vào các ngày trong tuần khác?" Những người
này sẽ nhất trí trả lời, "Không phải điều răn thứ tư cho chúng ta biết rằng
chúng ta nên nghỉ ngơi vào ngày này sao?" Anh em ơi, hãy xem đây là một sự
nhầm lẫn! Nếu bạn hỏi những người này hơn nữa thì điều răn thứ tư đề cập đến
ngày nào, họ phải nói rằng nó đề cập đến ngày Sa-bát.
-
Nhưng ngày nào là ngày Sa-bát? Đó là thứ bảy. Họ đang tuân giữ ngày nào?
Họ đang tuân giữ ngày Chúa nhật. Xin lưu ý rằng quy định của điều răn thứ tư
liên quan đến ngày Thứ Bảy. Nhưng những gì mọi người đang tuân giữ hôm nay là
ngày Chúa nhật. Lý do cho việc căn cứ tuân giữ
ngày Chúa nhật của một người dựa trên một quy định chi phối ngày thứ bảy
là gì? Tại sao thay đổi từ thứ bảy sang Chúa nhật, trong khi vẫn giữ các quy định
quản lý ngày thứ bảy? Các người tuân giữ ngày Chúa nhật không thể trả lời những
câu hỏi này. Họ nhận ra rằng trong thời đại ân sủng, không cần phải giữ ngày
Sa-bát nữa. Nhưng trong khi họ tuân giữ Ngày của Chúa, họ vẫn bị ràng buộc bởi
các quy định của ngày Sa-bát.
Có lợi thế gì để thay đổi ngày thứ bảy sang ngày thứ nhất? Loại hành vi
này là vô tâm, vô nghĩa, phi luận lí, trái với ân sủng, trái với pháp luật, và
không đúng Kinh thánh. Giáo huấn kinh thánh liên quan đến việc giữ ngày là gì?
Kinh thánh đã không truyền lệnh cho các Cơ Đốc nhân "tuân giữ" bất cứ
ngày nào. Không, Hoàn toàn không có. Theo ví dụ và giáo huấn của Kinh Thánh,
vào Ngày của Chúa (tức là Chúa nhật), các Cơ Đốc nhân nên (1) vui mừng và hoan
hỉ (Thi. 118: 24), (2) nhóm họp và bẻ bánh (Công vụ 20: 7) và (3) dâng hiến (1
Cô 16: 2). Đây là những điều mà Cơ Đốc nhân nên làm. Ngày này là "Ngày của
Chúa" (Khải huyền 1:10). Do đó, chúng ta nên hành động theo ý muốn của
Chúa. Đối với những gì không nên làm, Kinh thánh không có một lời nào liên quan
đến việc đó. Nhiều quy định ngày nay là truyền thống của con người.
-
Nếu một người không nên mua và bán vào Ngày của Chúa, anh ta cũng không
nên làm như vậy vào tất cả các ngày khác. Đó là bởi vì con người không hiểu rằng
phúc âm dạy cho con người làm mọi thứ trong cuộc sống hàng ngày của họ cho Đức
Chúa Trời. Kết luận là Cơ đốc nhân không nên giữ ngày Sa-bát, và họ cũng không
nên giữ ngày Chủ nhật. Tuy nhiên, vào Ngày của Chúa (tức là Chúa nhật), họ nên vui mừng và hoan hỉ, nhóm họp và
bẻ bánh cùng hiến dâng. Câu hỏi này đã làm nhiều người hoang mang và gây ra sự
mất mát cho những tín đồ nghèo khổ, những người muốn làm việc vào Ngày của
Chúa, nhưng họ không ngưng làm việc dưới nỗi sợ rằng họ sẽ xúc phạm đến Chúa.
Vì lý do này, tôi đã nói thêm một chút về chủ đề này. Lương tâm của nhiều người
bị truyền thống của con người làm
cho yếu đi.
-
12. Hai Cây Gươm-
-Câu hỏi:
Trong Lu-ca 22:36 và 38, Chúa Giê-su yêu cầu các môn đồ bán quần áo và
mua gươm. Các môn đệ trả lời rằng có hai thanh gươm ở đó. Chúa nói rằng thế là
đủ. Nhưng trong Ma-thi-ơ 26:52, Chúa bảo các môn đồ không được dùng gươm. Có
mâu thuẫn nào trong hai phần nầy của Kinh thánh không? Làm thế nào người ta có
thể giải thích Lu-ca 22 mà nói rằng các môn đồ có hai thanh gươm là đủ. Hãy giải
thích giùm tôi cách chi tiết.
-
-Trả lời:
Câu hỏi này là một câu hỏi mà các Cơ Đốc nhân ít hiểu nhất. Chúng ta có
thể kiểm tra và điều tra chi tiết. Đoạn văn nơi Chúa Giê-su truyền lệnh cho các
môn đồ mua gươm được ghi lại trong Lu-ca 22: 35-38. Đoạn Kinh thánh này có hai
nan đề mà trước tiên chúng ta phải giải quyết trước khi chúng ta có thể bắt đầu
kiểm tra và điều tra nó. (1) Chúng ta có thể thuộc linh hóa việc giải thích hai
thanh gươm này không? (2) Nếu chúng ta không thể thuộc linh hóa nó, vậy Chúa Giê-su
có yêu cầu các môn đồ dùng gươm để chiến đấu không?
-
(1) Chúng ta không thể diễn giải hai thanh gươm này theo nghĩa thuộc
linh bởi vì, khi Chúa Giê-su truyền lệnh cho các môn đồ chuẩn bị mọi thứ, Ngài
không chỉ huy họ chỉ mua gươm. Câu 36 nói: "Song bây giờ,
kẻ có ví hãy mang nó
theo, bao bị cũng vậy, và kẻ
không có gươm hãy bán áo choàng của hắn và mua một cây". Ở đây Chúa truyền
lệnh cho họ chuẩn bị ba điều. Nếu thanh gươm biểu thị một cái gì đó, thì ví
cũng phải biểu thị một cái gì đó, và túi cũng phải như vậy. Nếu ví là ví và bị
là bị, thì gươm cũng phải là gươm. Chúng ta không thể nói rằng hai thanh gươm
ngụ ý Tân Ước và Cựu Ước, hoặc nói đến hai tên cướp, hoặc bất kỳ điều gì khác.
Một thanh gươm là một thanh gươm; chúng ta không thể giải thích nó theo nghĩa thuộc
linh. Thật là bất công nếu mỗi lần chúng ta bắt gặp một câu khó mà chúng ta
không hiểu, chúng ta liền cố gắng diễn giải nó theo nghĩa thuộc linh!
-
(2) Nếu thanh gươm là một thanh gươm, thì đó có phải là ý định của Chúa Giê-su
yêu cầu họ mua gươm và sử dụng chúng để chiến đấu không? Không. Có ba lý do:
(a) Có mười một môn đồ ngoài Giu-đa. Nếu Chúa Giê-su yêu cầu họ giải quyết vấn
đề bằng vũ lực, làm thế nào hai thanh gươm có thể đủ cho mười một người? Khi
các môn đồ nói rằng có hai thanh gươm, Chúa Giê-su đã dừng lại và không nói gì
thêm. Ngài đã không yêu cầu họ mua thêm chín cây nữa, điều đó cho thấy rằng đó
không phải là ý định nguyên thủy của Chúa là mua gươm và sử dụng vũ lực. (b) Nếu
ý định ban đầu của Chúa Giê-su là sử dụng vũ lực, thì Phi-e-rơ đã làm như vậy rồi;
ông đã cố gắng giải quyết đúng vấn đề bằng vũ lực rồi. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã
phản đối ông, Ngài nói: “Hãy tra
gươm của ngươi vào chỗ của nó; vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết bởi
gươm" (Ma-thi-ơ 26:52). (c) nếu Chúa Giê-su muốn họ dùng vũ lực, khi ấy điều
nầy sẽ hoàn toàn trái ngược lời dạy dỗ có chép, “đừng chống cự kẻ ác) (Math. 5:38-44).
-
Chúng tôi đã kết luận rằng (1) thanh gươm là một thanh gươm và (2) mua thanh
gươm không nhằm mục đích sử dụng vũ lực. Sau đó, ý định của Chúa Giêsu khi nói
những gì Ngài nói là gì? Làm thế nào chúng ta có được sự giải thích thực sự? Để
có được sự giải thích thực sự, trước tiên chúng ta phải biết một số điều: (1) Mặc
dù thanh gươm mà Chúa Giê-su đã nói là một thanh gươm thực sự, ý định của Ngài không
liên quan đến thanh gươm. Nếu Ngài thực sự muốn các môn đệ mua gươm, nhưng họ
chỉ có hai thanh gươm, họ có nên mua thêm để có đủ không? (2) Tấm lòng của Chúa
Giê-su không chỉ được đặt trên thanh gươm. Những gì Ngài nói là ví, bị và thanh
gươm. Thanh gươm chỉ là một trong ba vật. (3) Lúc đó ở xứ Giu-đê có nhiều tên
cướp trên đường đi công cộng (Lu-ca 10:30), do đó hầu như mọi người Do Thái đều
mang theo một thanh gươm. Thời đó gươm cũng giống như gậy đi bộ ngày nay. (4)
Toàn bộ đoạn văn này (Lu-ca 22: 35-38) liên quan đến các sự kiện của đêm đó.
Câu 37 dường như không có mối liên hệ nào với phần còn lại của đoạn văn. Nếu
chúng ta không hiểu câu 37, thì chắc chắn chúng ta không thể giải thích phần
này của Kinh thánh. Để giải thích Kinh Thánh chúng ta nên quan tâm đến bối cảnh
của những câu kinh thánh đó. Chúng ta
không thể vô tình xóa một câu mà chúng ta không hiểu, và sau đó tiếp tục giải
thích phần còn lại. (5) Chúng ta nên biết bối cảnh đằng sau lời của Chúa Jêsus
trong câu 36. Tại sao Chúa Giê-su
muốn nói điều này? Chúa Giê-su đã
nói điều này khi nào? Chúng ta phải biết những điều này. (6) Chúng ta phải nhớ
rằng chúng ta không thể diễn giải phần này của Lời kinh thánh theo nghĩa thuộc
linh và thanh gươm không phải để chiến đấu.
-
Câu 35 chép: "Và Ngài phán
cùng họ: “Khi Ta đã sai các ngươi đi mà
không mang ví và bao bị và dép, các ngươi đã thiếu thốn gì chăng?” Và họ
nói: “Không thiếu gì cả”. Tại đây, Chúa Giê-su đã nhắc nhở họ về cách mà hồi
ban đầu Ngài đã sai họ ra đi. Khi họ đi ra ngoài vào thời điểm đó, họ không có
ví, không bị và không giày. Nhưng họ cũng không thiếu điều gì cả. Tại sao họ
không thiếu thứ gì? Bản ghi chép này được ghi lại trong Lu-ca 9 và Ma-thi-ơ 10.
Bản ghi chép của Ma-thi-ơ chi tiết hơn, vì vậy chúng ta hãy đọc nó ở đây. Vào
thời điểm đó, Chúa Giê-su đã sai họ đi rao giảng Tin Lành của vương quốc cho
nhà Israel.
-
Vào thời điểm đó, Chúa Jêsus đã thể hiện uy quyền của Ngài là Đấng Mê-si-a.
Khi các môn đệ đi rao giảng, họ đã rao giảng với mục đích là con người sẽ tiếp nhận
Ngài là Đấng Mê-si-a. Người công nhân đáng được thức ăn của anh ta (Ma-thi-ơ
10:10). Do đó, họ không phải tự chuẩn bị phương tiện ăn uống (câu 9) và sẽ
không thiếu gì (Lu-ca 22:35). Đây là kết quả trong uy quyền của Chúa Giê-su là Đấng
Mê-si-a. Bây giờ thì sao? Chúa Giê-su đã bày tỏ chính mình cho con cái Israel.
Nhưng họ không muốn tiếp nhận Ngài. Thay vào đó, họ từ chối Ngài hết lần này đến
lần khác. Ngài nên làm gì bây giờ? "VÀ NGƯỜI ĐÃ BỊ ĐẾM (KỂ) VỚI NHỮNG KẺ
PHẠM TỘI’(câu 37). Ngài sẽ bị đóng đinh. Con người không chỉ không muốn Ngài là
Đấng Mê-si-a, họ còn thề sẽ giết Ngài. Đây là ý nghĩa của câu 37.
-
Bây giờ, Ngài sắp làm cho Kinh thánh ứng nghiệm, là chịu đau khổ và mất
uy quyền của Đấng Mê-si-a vinh quang. Như vậy, Ngài không còn có thể thực thi
quyền bính Mê-si-a của mình để chuẩn bị cho những người được Ngài sai phái nữa. Mặc dù trước đó họ đã không thiếu thốn, ngay
cả khi họ không chuẩn bị cho có ví, túi xách hay giày, nhưng vào thời điểm đó,
không thể như vậy được nữa. "Song bây
giờ, kẻ có ví hãy mang nó
theo, bao bị cũng vậy, và kẻ không có gươm hãy bán áo
choàng của hắn và mua một cây" (câu 36). "Bởi vì Ta sẽ bị đóng đinh
và bị con người từ chối là Đấng Mê-si-a, nên sự cung cấp và bảo vệ mà các ngươi
đã nhận được trước đây vì lý do Ta là Đấng Mê-si-a của các ngươi, bây giờ sẽ bị
dừng lại (cách tạm thời). Các ngươi phải tự chuẩn bị cho mình". Đây là những
gì Chúa Giêsu có ngụ ý trong ba câu này.
--
Phần đầu tiên của câu 36, “Song bây giờ" là câu rất quan trọng. Câu
đó cho chúng ta thấy rằng sau đó thời thế đã thay đổi. "Song bây giờ"-
đề cập đến khoảng thời gian đó, từ khi bắt đầu bữa ăn tối đến thời điểm đóng
đinh. Trong suốt thời gian này, Chúa Giêsu trên thực tế đã bị thế giới từ chối.
Ý định thực sự của Chúa Jêsus khi nói với các môn đồ của Ngài không phải để họ
sẽ chú ý đến ví, bị hoặc gươm của họ, mà là họ nên hiểu vị trí của Ngài vào lúc
đó và họ nên biết rằng Ngài sẽ sớm bị đóng đinh. Nhưng các môn đệ không hiểu ý
của Ngài.
Thay vào đó, họ nghĩ rằng Chúa Giê-su thực sự đang đề cập đến ví, bị và
thanh gươm. Suy nghĩ của họ hoàn toàn bị chi phối bởi những thứ vật chất. Ngay
cả đến thời điểm này, họ vẫn không có sự hiểu biết thuộc linh. (Xin đọc Giăng
21: 22-23.) Ngoài ra, sâu bên trong họ, họ đã có khuynh hướng sử dụng vũ lực và
thực hiện vũ khí của xác thịt. Đây là lý do tại sao họ trả lời với Chúa: “Thưa
Chúa, xin xem, đây là 2 thanh gươm”. Và Ngài phán cùng họ: “Ấy là đủ” (Lu-ca
22:38).
Họ nghĩ rằng Chúa thực sự muốn có những thanh gươm! Chúa trả lời: “Ấy là
đủ”. Thành ngữ này là gì? “Ấy là đủ”
ám chỉ đủ về điều gì? Đầu tiên, nó chắc chắn không đề cập đến hai thanh gươm.
Làm thế nào hai thanh gươm có thể đủ cho mười một người?
-
Ý nghĩa của lời Chúa không phải có hai thanh gươm là đủ. Nếu không, khi
Phi-e-rơ đã sử dụng một trong hai thanh gươm, tại sao Chúa lại quở trách ông
ta? Do đó, "đủ" phải đề cập đến một cái gì đó khác hơn. Chúa Giê-su đã
biết rằng các môn đồ của Ngài vẫn không thể tiếp nhận được lời của Ngài; tư tưởng
của họ vẫn còn trong sáng tạo cũ. Những gì Ngài đã nói là, "Ấy là đủ” – có
nghĩa không cần phải nói gì thêm. Các người không thể hiểu lời của Ta".
"Ấy là đủ" ở đây có cùng ý nghĩa với cách diễn đạt của một bản dịch
khác là "Đó là tất cả", cặp theo sự dịu dàng hơn và ít lạnh lùng cùng
khắc nghiệt hơn. Thật đáng tiếc khi các môn đồ không hiểu gì cả vào ngày hôm đó,
giống như cách mọi người cũng không hiểu điều nầy ngày nay.
Các môn đồ không hiểu lời của Chúa. Đó là lý do tại sao sau đó họ hỏi: “Thưa
Chúa, chúng tôi có nên đánh bằng thanh gươm chăng?" (câu 49). Ngày nay, những
người không hiểu lời của Chúa (Ma-thi-ơ 5: 39—“Đừng chống cự kẻ ác”) nên vẫn dại
dột hỏi cùng một câu hỏi như vậy. Trước sự ngạc nhiên của các môn đồ, Chúa đã trả
lời: "vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết bởi gươm” (Math 26:52). Không
nên có "những người lính của Đấng Christ" trên trái đất này!
Châu Quân sưu tầm và tạm dịch- 11-8-2019