TIẾNG KÊU TRƯỚC RẠNG ĐÔNG
Cho đến khi bình minh lộ ra và bóng tối tan đi, Nhã Ca 2:17
Pages
Giải--Kinh
Khảo Biên
Minh Họa
Nhân Vật Thánh Kinh
Tinh Hoa Kinh Thánh
Thơ Thánh
Linh Lương
Từ Ngữ Kinh Thánh
Cung Phụng Lời
Khai Thác Vàng
Lẽ Thật Thời Đại
Hình Bóng Học
Danh Nhân Hội Thánh
Tương Giao
BIỆN GIÁO
Lời Kinh Thánh
Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011
JOHN GIBSON PATON (1824- 1907) -Giáo Sĩ Tại Nam Thái Bình Dương
J
OHN
G
IbSON
P
ATON (1824- 1907)
-Giáo Sĩ Tại
Nam
Thái Bình Dương
Tiến sĩ John Gibson Paton
sinh
ra ở
Braehead Kirmahoe, Dumfriesshire,
Scotland
vào ngày
24
t
háng 5 năm 1824
và qua đời ngày
28 tháng 1 năm 1907
, tại St. Cross,
Canterbury
,
Victoria
,
Australia
. Ông
là một nhà truyền giáo Tin Lành đến quần đảo
Tân
Hebrides của Nam Thái Bình Dương. Paton đã thực hiện một công việc to lớn mà
kết quả thì
ít trong nhiều thập kỷ, thuyết phục
người ta
về chủ quyền tuyệt đối của
Đức
Chúa
Trời
để xây dựng
hội thánh
.
Dầu l
iên tục bị
sự
chết
đe dọa
, Paton rao giảng trung thành
cho
các đảo của
Tân
Hebrides
, dấy lên một gia đình ở đó
. Cũng
như các
cuộc hành trình truyền giáo của mình, Paton hỗ trợ tuyệt vời cho
các hội truyền giáo
thế giới tại
quê
nhà ở Scotland và
truyền
cảm hứng
cho
hàng trăm nhà truyền giáo
, khiến họ tiếp lấy sự ủy nhiệm lớn của Chúa, là đi ra môn đồ hóa mọi nước.
1.Thiếu thời:
John Gibson Paton sinh ngày 24
t
háng
n
ăm, 1824, trong một ngôi nhà tran
h
tại Braehead, Kirkmahoe,
Dumfriesshire
,
Scotland
. Ông là con cả
trong số
11 người con của James và Janet Paton.
James Paton là một nhà sản xuất
bít tất
và sau đó một ngư
ời bán sách
dạo. James và vợ
ông,
Janet và ba đứa con
lớn nhất
của họ,
từ năm
1828
đến
1829
đã chuyển nhà cửa
từ Braehead
đến
Torthorwald
,
trong cùng một hạt. Ở đó, trong một ngôi nhà tranh khiêm tốn c
ó
ba phòng, cha mẹ
ông đã
nuôi năm người con trai và sáu con gái.
Khi lên
12 tuổi,
John Gibbon
bắt đầu học
cách
thương mại của ch
a về ngành sản xuất bít tất . Ông làm việc 14 giờ một ngày
, thao tác một trong sáu khung
dệt
trong
xưởng làm việc của cha
mình.Tuy nhiên, ông vẫn còn nghiên cứu trong hai giờ được phân bổ mỗi ngày
và dùng
các bữa ăn của mình.Trong những năm này, John G. đã chịu ảnh hưởng
rất nhiều về lòng
mộ đạo của cha mình
. Cha ông
ba lần một ngày
vào phòng riêng của mình để
cầu nguyện và
hướng dẫn buổi
cầu nguyện của gia đình hai lần một ngày.
Trong thời gian tuổi trẻ của mình, John G. nghe tiếng gọi của
Đức
Chúa
Trời
để phục vụ ở nước ngoài như một nhà truyền giáo. Cuối cùng, ông chuyển đến Glasgow (
Bốn mươi dặm đi bộ
từ
Kilmarnock
, và
sau đó
đi
bằng tàu hỏa
mới
đến Glasgow) nơi ông đã tiến hành nghiên cứu thần học và y
khoa
.
Trải
một số năm, ông cũng đã làm việc ở
phòng
phân phối
sách chứng đạo
, dạy học, và lao động như một nhà truyền giáo thành phố trong
tình trạng
xuống cấp của
Glasgow
.
Paton được phong
mục sư của
Hội
Thánh Trưởng lão cải chánh vào
ngày 23 tháng 3 năm 1858.
Rồi vào n
gày 02 tháng 4, t
ại
Coldstream, Berwickshire, Scotland
,
John G. Paton kết hôn với Mary Ann Robson và 14 ngày sau đó,
tức
ngày 16 tháng Tư,
cùng
đi với ông Joseph Copeland, cả hai
vợ chồng ông
đều nói
lời
tạm biệt Scotland và
lên thuyền
buồm
đi
Nam Thái Bình Dương.
2. Sự
Chia
li:
Đoạn trích sau đây, được viết vào cuối cuộc
đời ông
,
trích
từ
tác phẩm, “
T
ổ
Phụ truyền giáo: Câu chuyện thật
về
John G. Paton
”
và cung cấp một ví dụ tuyệt vời về mối quan hệ giữa cha và con trai.
Người cha thân yêu của tôi đi với tôi trong sáu dặm đầu tiên của con đường. Tư vấn
,
nước mắt và cuộc trò chuyện t
huộc thiên
trên
chặng đường
chia tay
còn
tươi
mới
trong trái tim tôi như thể nó
vừa xảy ra ngày
hôm qua, và nước mắt trên má của tôi tự do
chảy xuống vào lúc
b
ấ
y giờ
và về
sau,
cũng như
bất cứ khi nào
kí ức đưa
tôi
trở về khung cảnh đó
. Nước mắt của ông đã
rơi
nhanh khi
đôi
mắt của chúng tôi
nhìn
nhau
mà không nói nên lời
! Ông nắm
chặt
tay tôi
trong
một phút im lặng, và sau đó long trọng nói:
“Con của cha ơi, Đức
Chúa
Trời
ban phước cho
con.Đức
Chúa
Trời, là Cha của con, sẽ làm cho con
thịnh vượng, và giữ
gìn con khỏi mọi
điều ác!" Không thể nói nhiều hơn, đôi môi của
ông
tiếp tục trong lời cầu nguyện im lặng, trong nước mắt, chúng tôi
ôm nhau
, và chia tay. Tôi chạy nhanh
hết khả năng
,
tạt vào
một góc đường, nơi
đó
ông
không còn nhìn thấy tôi nữa. T
ôi nhìn lại và thấy
ông
vẫn còn đứng
đó, đầu không đội nón, là chỗ tôi rời ông khi ông nhìn chằm vào tôi. Tôi v
ẫy mũ của
mình để từ biệt
, tôi
liền đi
ra khỏi
chỗ đó
ngay lập tức.
Nhưng trái tim của tôi quá đau
đớn
, vì vậy tôi lao vào lề đường và khóc trong một
hồi lâu
.
Đứng
lên một cách thận trọng, tôi trèo lên
con
đê để xem ông
còn
đứng nơi tôi
từ biệt ông hay không
, và
o
lúc đó,
tôi
thoáng
thấy ông đang
leo lên đê và
nhìn về phía
tôi! Ông không nhìn thấy tôi, và sau khi ông đã nhìn
cách
háo hức theo hướng của tôi trong
một lúc,
ông đã
bước
xuống,
hướng nhìn về
nhà, và bắt đầu trở
về
,
vẫn còn
đầu
trần
, và tôi cảm thấy chắc chắn
rằng lòng ông
vẫn còn
dâng
lên lời cầu nguyện
cho
tôi.
Khi đôi mắt còn lệ nhòa, t
ôi
quan sát ông
cho đến khi hình
ảnh
của
ông
mờ
dần
t
rong tầm mắt
của tôi, và sau đó,
tôi vội lên
đ
ường
,
nguyện ước cách sâu sa rằng
, bởi sự giúp đỡ của
Đức
Chúa
Trời
, để sống và hành động như vậy
hầu
không bao giờ
làm
đau buồn hoặc làm ô danh một người cha và người mẹ
mà Ngài
đã
ban
cho tôi.
Dáng dấp
của cha tôi khi chúng tôi chia tay thường
hiện về trong
cuộc sống
của tôi
cách sống động tr
ong
tâm trí của tôi, và
mãi đến
bây giờ như thể nó
vừa
được
xảy ra
một giờ trước đây.
Đặc biệt, t
rong những năm trước đây của tôi, khi
bị phơi bày
với nhiều cám dỗ, hình thức chia tay của
ông lại hiện
lên trước
mắt
tôi như một
vị thiên thần bảo vệ
.
Đây không phải là đạo đức giả,
nhưng
là
lòng biết ơn sâu sắc,
và tại đây, nó khiến tôi
làm chứng
rằng ký ức về khung cảnh đó
không chỉ giúp để giữ cho tôi tinh khiết
khỏi
những tội lỗi hiện hành, nhưng cũng
đánh thức
tôi
chuyên cần trong sự
nghiên cứu của
mình
,
hầu
tôi không
làm tiêu tan mọi triễn vọng của mình
, và trong tất cả các nhiệm vụ
cơ đốc
của tôi,
khi
tôi
có thể
trung thành
bước
theo gương sáng của
ông
.
3. Những
năm
đầu tiên tại Tân
Hebrides
:
John G. và Mary Paton đã
đổ bộ l
ên đảo Tanna, ở phần phía nam của New Hebrides,
vào
ngày 05 tháng 11 năm 1858 và xây dựng một căn nhà nhỏ tại
hải
cảng
Resolution.
Vào thời
đó
,
người dân địa phương của Tanna được báo cáo là ăn thịt đồng loại. Cặp vợ chồng truyền giáo
bị
bao quanh bởi các "
người
man rợ
, vẽ màu sặc sỡ đầy mình. N
hững người
nầy sống
trong
môi trường của
những sự mê tín và độc ác của
ngoại giáo
tồi tệ nhất
!
Những người đàn ông và trẻ em
hầu như
trong trạng thái khỏa thân
,
trong khi phụ nữ mặc tạp dề
bằng
cỏ hoặc lá
cây cách sơ sài
."
Ba tháng sau khi đến
đó
, một con trai, Peter Robert Robson, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1859. Nhưng chỉ 19 ngày sau, Mary vợ ông chết vì
bệnh
sốt nhiệt đới
, và ít lâu sau, cậu bé sơ sinh,
Peter mới được 36 ngày tuổi
cũng chết và chôn xuống mồ
.
Mặc dù có những
sự tử vong
tàn phá, John G. tiếp tục
cách vững chắc
với công việc truyền giáo của mình
,
mặc dù
có tình
trạng thù địch liên tục từ người dân địa phương và
sự
nỗ lực rất nhiều về cuộc sống của mình. Trong một cuộc tấn công
của thổ dân
, một con tàu đến
vừa đúng lúc
để giải cứu
ông , rồi
đưa ông và các nhà truyền giáo
ra khỏ
một phần khác của hòn đảo,
đó là
ông bà Mathieson,
để đến cách
an toàn tại Aneityum.
4.Thăm viếng nước
Úc và Scotland
cùng cuộc
hôn nhân thứ hai
Từ Aneityum, John G. đã
lần
đầu tiên
đi
đến Úc, sau đó
trở về
Scotland, để khơi dậy sự quan tâm lớn hơn
về
công việc
tại Tân
Hebrides, để tuyển
mộ
các nhà truyền giáo mới, và đặc biệt là để
gây dựng
một khoản tiền lớn cho việc xây dựng và bảo trì của một thuyền buồm
hầu
hỗ trợ các nhà truyền giáo trong công tác rao giảng
t
in
m
ừng
cho các
quần đảo. Sau đó, ông
gây được
một số tiền lớn hơn nhiều để xây dựng một
chiếc
tàu hơi nước
truyền giáo
.
Trong thời gian này ở Scotland, vào ngày 17
t
háng
s
áu,
năm
1864 tại Edinburgh, Scotland, John G. kết hôn với Margaret (Maggie) Whitecross, một hậu duệ của cái gọi là "Whitecross Knights"
( Các hiệp sĩ của Thập tự trắng).
5.
Trở về
Tân
Hebrides
Khi
trở lại
Tân
Hebrides trong tháng 8 năm 1866, John G. và
người
vợ
mới của ông,
Maggie
,
đã thiết lập một trạm
truyền giáo
mới trên
đảo
Aniwa,
là
hòn đảo gần nhất đ
ối với đảo
Tanna. Ở đó, họ sống trong một túp lều
nhỏ
c
ủa dân địa phương,
trong khi họ
lo
xây dựng một ngôi nhà cho bản thân và hai nhà cho trẻ em mồ côi. Sau đó, một nhà thờ, nhà in, và các tòa nhà khác đã được xây dựng.
T
ại
Aniwa, họ đã tìm thấy người dân địa phương rất tương tự như những người trên
đảo
Tanna - "mê tín dị đoan
,
độc ác
,
ăn thịt đồng loại và
đồi bại
, tâm
trí
man rợ, thiếu lòng vị tha
và
nhân đạo
cách thật tỏ rõ
"
.
Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục công việc truyền giáo của
mình,
và
tại
Aniwa
đó
đã có 6 của 10
con cái
của họ được sinh ra,
vì
4 trong số
đó
đã chết trong thời thơ
ấu
. Con trai thứ tư của họ, Frank Hume Lyall Paton,
cậu
đã theo
cha mẹ
như một nhà truyền giáo t
ại Tân
Hebrides, là một trong những người được sinh ra trên
đảo
Aniwa .
John G. đã học được ngôn ngữ và
chuyển thành chữ
viết. Maggie dạy một lớp học của khoảng năm mươi phụ nữ và trẻ em gái
để họ trở thành
chuyên gia may
mặc
, ca hát và bện mũ,
cùng
đọc
chữ
. Họ đào tạo các giáo viên, dịch
,
in
ấn
và giải thích Kinh Thánh,
làm mục vụ
cho các bệnh
tật
và
sự
chết, phân ph
át thuốc
mỗi ngày, dạy họ sử dụng các công cụ,
cử hành các phụng vụ
thờ
phượng vào
mỗi ngày của Chúa
,
và
sai phái các
giáo viên bản
địa đến
tất cả các làng
mạc
để rao giảng phúc âm
.
.
Dầu chịu đựng
nhiều năm
bị
t
ướt đoạt lâu dài
,
gặp
nguy hiểm từ người dân địa phương và bệnh tật, họ vẫn tiếp tục công việc của
mình
và sau nhiều năm
trong chức vụ kiên nhẫn
, toàn bộ hòn đảo Aniwa xưng
nhận cơ đốc
giáo. Năm 1899, ông nhìn thấy Tân Ước
tiếng
Aniwa
được
in
ra
và
sự vũng
lập
của
các nhà truyền giáo
trên
25 của ba mươi đảo
của Tân
Hebrides mới.
6. Những
năm cuối cùng
Maggie Whitecross Paton đã qua đời ở tuổi 64 vào ngày 16 tháng năm 1905 tại "Kennet" - được
coi
là nhà của gia đình ở
số
74
đường
Princess , Kew, Victoria.
John G. sống
lâu hơn
vợ của ông gần hai năm,
và
chết ở tuổi 82 vào ngày 28 tháng 1, 1907 tại
St.
Cross , Canterbury, Victoria, Úc
Đại Lợi
.
Họ được
an táng
tại Boroondara
, ngay
giao lộ của High Street và Park Hill Road, Kew, Victoria, Úc.
Các nhóm sinh viên
của trường Đại học Thần Đạo trưởng lão tại
Victoria được đặt tên để vinh danh ông
./.
Bài đăng Mới hơn
Bài đăng Cũ hơn
Trang chủ