Watchman Nee 1- Bối Cảnh Tiểu Sử
Cô Dora Yu (Tư Từ Do)
Watchman
Nee chỉ là một trong nhiều diễn viên trong kịch bản cuộc đấu tranh cho trái tim
của người dân Trung Quốc, nhưng ông là một trong những người thú vị nhất. Phong
trào Bầy nhỏ của ông có ảnh hưởng nhiều hơn trong việc trồng các hội thánh tư
gia trên khắp Trung Quốc hơn như nhiều người nhận ra. Sự nghiệp của ông cũng minh
chứng một số nan đề hội thánh có thể kế thừa khi lòng yêu nước lẫn lộn với Cơ
Đốc giáo.
Giới
thiệu
Từ
khi Trung Quốc mở cửa cho du khách phương Tây vào thăm, từ năm 1973, chúng tôi
đã nghe thấy một dòng phát triển các báo cáo ngày càng tăng trong sự phấn khích
của họ, về các hội thánh tư gia ở đó. Lúc đầu, du khách cho rằng, đi ngược với
số đông, phong trào hội thánh tư gia vẫn còn nguyên vẹn sau 25 năm bị bắt bớ. Sau
vài năm, tuy nhiên, các báo cáo đã trở thành lạc quan hơn. Những sự ước tính
xuất hiện tuyên bố rằng có 30 triệu Cơ Đốc nhân đích thực nhóm họp trong các
hội thánh tư gia. Sau đó sự ước tính vẫn
còn cao hơn 50 triệu và hơn nữa.
Chúng
ta có thể đánh giá cao những con số này khi chúng ta so sánh đối chọi chúng với
tổng số ước tính của các Cơ đốc trước khi có cuộc cách mạng năm 1949. Hầu hết
các cơ quan thẩm quyền ước tính rằng có ít hơn một triệu nhà truyền giảng,
nhưng chắc chắn, không có hơn hai triệu trước khi chính quyền mới xuất hiện.
Các
báo cáo này là kinh ngạc, bởi vì trong suốt 30 năm qua, Hội thánh Trung Quốc đã
sống dưới sự đàn áp cấp tính, có thể là khắc nghiệt hơn như sự bắt bớ của bất
kỳ Hội thánh nào trên thế giới gặp phải. Ước tính số những người thiệt mạng là
có đến hàng triệu Ngoài ra, gần như toàn bộ giới trí thức Tin Lành truyền giáo cho
Trung Quốc đã bị tiêu hủy hoặc im lặng. Vì vậy, bởi ngay cả những ước tính bảo
thủ nhất, Hội thánh Trung Quốc phải được coi là một trong những Hội thánh chiến
thắng nhất trên thế giới. Trong khoảng thời gian ba mươi lăm năm, khi Hội thánh
ở các nước phát triển đã không trải qua bất kỳ sự tăng trưởng đáng kể gì cả, và
ở nhiều nơi đã giảm tầm mức, thì Hội thánh Trung Quốc đã phát triển ít nhất hai
mươi, và có lẽ năm mươi lần.
Có vẻ
như ngày hôm nay hầu hết các sự tăng trưởng ở Trung Quốc đang diễn ra, không
phải trong các hội thánh do nhà nước chuẩn nhận theo “Phong Trào Tam Tự Yêu
Nước” ( TSPM ), nhưng trong các hội thánh ít có tổ chức và bất hợp pháp.
Đứng
ở đầu nguồn của sự phát triển thuộc linh này là một hình ảnh đại diện trước mắt
phương Tây. Ông là một điều bí ẩn, và một nghịch lý, nhưng không nghi ngờ gì
nữa, ông là một trong những công nhân Cơ Đốc lớn của thế kỷ này - Watchman Nee.
Watchman Nee
Bối
cảnh tiểu sử
Watchman
Nee cũng là Ni Shu- tsu hay Henry Ni, được sinh ra tại Swatow, ngày 4 tháng 11
năm 1903. Sau này ông được đổi tên là Ni Ching- Fu , và cuối cùng, sau khi giáo
thác chính mình cho công tác Cơ Đốc, ông lấy tên Ni To -sheng- có nghĩa là,
Watchman Nee.
Cha
của ông, Ni Weng- Hsiu hoặc Nga Ung-siu, người Phúc Châu, sinh năm 1877, là người
con thứ tư trong gia đình chín anh em trai . Ông là sĩ quan Hải quan Hoàng gia
và qua đời tại Hồng Kông vào năm 1941.
Giống
như rất nhiều tôi tớ nổi tiếng của Đức Chúa Trời, Watchman Nee đã có một di sản
gia đình về phụng vụ Cơ đốc. Trường học đầu tiên ở Phúc Châu cung cấp giáo dục
kiểu phương Tây được mở ra trong một vùng ngoại ô của thành phố cổ vào năm 1853,
và ở đây mà Nga U- cheng, ông nội của Watchman Nee đã nghe nói về Chúa Giêsu
Christ và ông đã đã được Ngài chiến thắng.
Bốn
năm sau, vào năm 1857, năm mà hội thánh Cơ Đốc đầu tiên ở Phúc Châu ra đời, ông
là một trong một nhóm bốn học sinh đã được báp-têm dưới sông Min. Ông tiến
triển rất tốt, nên các nhà truyền giáo đã đào tạo ông như một nhà truyền giáo,
và không bao lâu sau đó ông đã được rao giảng Tin Mừng tại thành phố này, có
nửa triệu linh hồn. Cuối cùng, ông được thụ phong mục sư, là người Trung Quốc
đầu tiên được vinh danh trong ba hội truyền giáo phía bắc Phúc Kiến. Ông đã có
một ân tứ giảng giải Thánh Kinh mà sau
khi ông chết vào năm 1890, ông được ghi nhớ lâu dài.
Ảnh
hưởng mạnh nhất trong phát triển tư tưởng đầu tiên của Nee dường như đã là mẹ
của ông, bà Lin Huo- ping (Lan Hòa Bình). Kinh nghiệm đầu tiên của bà bao gồm việc
bà bị cha mẹ bán làm nô lệ cho một cặp vợ chồng khác trong Phúc Châu, vì cha mẹ
bà không còn đủ khả năng để nuôi bà. Những người nầy lại lần lượt bán bà cho
một thương gia giàu có làm con gái nuôi.
Huo- ping
được Angus Kinnear miêu tả là một phụ nữ ý chí mạnh mẽ, đã tin Chúa một cách
muộn màng, nhưng phó thác chính mình cách sâu sắc với Đấng Christ và Kinh
thánh. Dường như bà có được năng khiếu về mặt trí năng, dễ dàng vượt trổi các
sinh viên khác trong trường học theo phong cách phương Tây, mà trong đó bà đã học – Trường Nữ Sinh Phương
tây Trung Quốc tại Thượng Hải. Bà đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Huo King- en,
người mà vào thời điểm đó, là người phụ nữ thứ hai ở Trung Quốc đã tốt nghiệp y
học ở Mỹ. Huo -ping chiếm ưu thế trên cha bà, xin cụ lo liệu cho bà được gửi bà
sang Mỹ để nghiên cứu y học nữa. Có một người phụ nữ tài năng khác, người đã
gây ảnh hưởng trên Huo -ping vào thời điểm này là Dora Yu, người nầy cũng đã
được lựa chọn đi du học ở nước ngoài, nhưng đã cảm thấy được Đức Chúa Trời kêu gọi,
nên đã từ Âu châu trở về rao giảng Phúc
âm ở Trung Quốc.
Trước
khi Huo -ping có thể thực hiện các kế hoạch của mình, mẹ của bà dã chấp nhận
một hôn ước với Nga Ung- siu (cha của Nee, người mà sau đó được cơ quan dân sự đổi
tên thành Ni Wheng - Hsiu). Thật không thể tin nỗi, tại thời điểm đó cho bà ấy do
dự muốn vi phạm một thỏa thuận ký kết đầy đủ bởi cha mẹ mình. Dù cay đắng trong
trái tim, bà không thể tránh khỏi, mà phải thuận phục cha mẹ.
Cuộc
hôn nhân của bà, mà dường như tốt đẹp, sinh ra chín người con. Trong khi nuôi
dưỡng chúng, Huo -ping rất năng động trong các hoạt động yêu nước kết hợp với
Sun Yat –sen (Tôn Dật Tiên). Bà ấy là một nhà tổ chức chính trị không mệt mỏi
và là người khuấy động, lập ra Hội Phụ Nữ Ái Quốc và thường diễn thuyết công
khai. Khi Tôn Trung Sơn đến Phúc Châu vào năm 1913, bà đã được trao cho một vai
trò chính thức trong lễ kết nạp. Cuối cùng bà đã được trao tặng huân chương
hạng thứ hai về Lòng yêu nước của Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
Rồi
vào năm 1919, bà giao thách cuộc đời mình cho Đấng Christ, bà đã năng động
truyền giảng phúc âm và các hoạt động
chính trị của bà giảm đi.
Dennis
McCallum -1986