LUẬT PHÁP TA TRONG LÒNG HỌ
Trong những chương trước, chúng ta đã dựng lên một bức tranh về thế giới, không chỉ như một vị trí, cũng không phải như một dòng giống loài người, thật sự cũng không phải là bất cứ điều gì vật chất, nhưng trái lại là một hệ thống thuộc linh, mà đứng đầu hệ thống ấy là kẻ thù của Đức Chúa Trời. “Thế giới” là kiệt tác của Sa-tan, và chúng ta đã suy nghĩ về việc hắn đem hết sức lực và mưu trí của mình để làm cho thế giới thịnh vượng. Hắn làm thế với mục đích gì? Chắc chắn để bắt lấy sự ủng hộ của loài người và kéo họ đến với chính hắn. Hắn có một mục tiêu: ấy là thiết lập sự cai
trị của hắn trong lòng người trên khắp thế giới. Mặc dầu chắc hẳn hắn nhận biết rằng sự thống trị ấy chỉ có thể kéo dài một thời gian ngắn, nhưng không nghi ngờ gì, đó vẫn là mục tiêu của hắn. Đang khi kỳ cuối cùng của thời đại này đến gần và các nỗ lực của hắn gia tăng, thì sự khốn khổ của dân Đức Chúa Trời càng nhiều. Vì như những khách lạ và kiều dân, vị trí của họ, tức vị trí ở trong thế giới nhưng không thuộc về thế giới, là một vị trí không thoải mái chút nào. Họ tha thiết tìm sự khuây khỏa để giảm bớt những căng thẳng về mặt thuộc linh bằng cách lánh xa thế giới theo phương diện thuộc thể. Thật tốt biết bao nếu chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi thế giới này để ở với Chúa mãi mãi!Nhưng rõ ràng đó không phải là ý muốn của Ngài. Như chúng ta đã thấy, Ngài cầu xin Cha đừng cất những người thuộc về Ngài khỏi thế giới nhưng xin Cha gìn giữ họ tại đó khỏi kẻ ác. Phao-lô cũng theo một chiều hướng tương tự. Sau khi khuyên các tín đồ Cô-rin-tô đừng tương giao với một thành phần tội nhân nào đó trong một trường hợp đặc biệt, ngay lập tức ông có biện pháp để đề phòng trường hợp có thể bị hiểu lầm. Họ không được tự cô lập.
Họ không được cắt đứt quan hệ với mọi tội nhân trên thế giới, hoặc ngay cả với những người thuộc thành phần đã được đề cập đến, vì nếu làm như vậy họ cần phải hoàn toàn lìa khỏi thế giới này. “Tôi đã viết cho anh em rằng đừng hòa đồng với người gian dâm; nhưng không phải với những người gian dâm thuộc thế giới này, hay với những người tham lam và bức sách, hay kẻ thờ hình tượng, vì như vậy anh em phải ra khỏi thế giới” (1 Côr. 5:9, 10).
Như vậy, qua lời Phao-lô nói, chúng ta có thể, và thật ra là phải giao du với thế giới đến một mức độ nào đó, vì không phải Đức Chúa Trời yêu thương thế giới sao? Nhưng đây là vấn đề: Đến mức độ nào? Chúng ta có thể tiến bao xa? Tất cả chúng ta đều đồng ý rằng trong nhiều trường hợp, chúng ta bắt buộc phải tiếp xúc với những điều của thế giới. Nhưng có lẽ có một giới hạn nào đó. Hãy giữ giới hạn thì chúng ta sẽ được an toàn; nếu liều lĩnh vượt quá giới hạn, chúng ta sẽ bị dính líu với Sa-tan.
Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể phóng đại vấn đề này, vì nó rất nghiêm trọng và hiểm họa của nó là thật. Nếu có lúc anh em bị bệnh và đau đớn dữ dội, bác sĩ cho anh em toa thuốc hêrôin hay moocphin, ngay lập tức, anh em sẽ cảnh giác về nguy cơ nghiện thuốc. Anh em vâng lời bác sĩ và uống thuốc, nhưng anh em sẽ uống cách sợ sệt và tha thiết cầu nguyện, vì biết có một quyền lực trong đó, và biết mình có khuynh hướng bị lệ thuộc quyền lực ấy, đặc biệt là khi sự chữa trị có thể kéo dài.
Mỗi khi anh em và tôi chạm đến thế giới qua những điều thuộc về thế giới, và lắm lúc chúng ta bắt buộc phải chạm đến thế giới, chúng ta nên cảm thấy như mình cảm thấy khi phải dùng moocphin, vì có các quỉ ở phía sau mọi sự thuộc về thế gian. Nếu bác sĩ có thể cho tôi toa thuốc phiện để chữa bệnh trong trường hợp tôi đau nặng, thì cũng vậy, vì tôi vẫn ở trong thế giới, phải làm việc với thế giới, theo đuổi việc buôn bán hay làm việc để sinh sống. Nhưng tôi không biết mình có thể dùng loại thuốc nguy hiểm này bao nhiêu mà vẫn được an toàn, không bị làm mồi cho tật nghiện thuốc phiện; cũng vậy, tôi không biết mình có thể mua bao nhiêu món đồ, kiếm bao nhiêu tiền, hay giữ những mối giao hảo trong công việc hoặc chức nghiệp thân thiết đến mức nào, mà vẫn không bị mắc lưới. Tất cả những gì tôi biết là có quyền lực của Sa-tan ẩn sau mọi điều thuộc thế giới. Vì vậy, vấn đề sinh tử là mỗi một Cơ-đốc-nhân cần phải có khải thị rõ ràng về linh của thế gian để có thể hiểu rằng mối hiểm họa mà mình thường xuyên phải tiếp xúc cách trực tiếp là mối hiểm họa có thật!
Có lẽ anh em nghĩ tôi đang đi quá xa. Có thể anh em nói: Vâng, đó có thể là một sự minh họa rất tốt cho bài giảng, nhưng tôi khó mà không cảm thấy anh đang phóng đại vấn đề. Nhưng khi anh em thấy, anh em sẽ nói về thế gian y như anh em nói về thuốc phiện, rằng có một quyền lực nham hiểm ẩn đằng sau, một quyền lực được định dùng để dụ dỗ và bắt lấy con người. Những ai đã thật sự được mở mắt đối với tính chất thật của thế gian này sẽ thấy rằng họ phải tiếp xúc với mọi sự trong thế giới một cách sợ sệt, run rẩy, và liên tục ngưỡng trông Chúa. Họ biết rằng bất cứ lúc nào họ cũng có thể mắc bẫy Sa-tan. Cũng y như loại thuốc ban đầu được tiếp nhận cách hớn hở để làm dịu cơn đau cuối cùng lại chính là nguyên nhân gây ra bệnh tật, tương tự như vậy, những điều của thế giới mà chúng ta có thể sử dụng cách hợp pháp dưới uy quyền của Chúa, nếu chúng ta không cẩn thận, sẽ gây cho chúng ta sa ngã. Chỉ có những người khờ dại mới cẩu thả trong những tình huống như vậy.
Không có gì lạ khi chúng ta nhìn Giăng Báp-tít một cách ganh tị! Chúng ta cảm thấy thật dễ dàng biết bao nếu mình có thể đơn giản rút vào một nơi an toàn, tách biệt giống như ông ấy! Nhưng chúng ta không giống Giăng Báp-tít. Chúa chúng ta đã sai chúng ta vào trong thế gian theo dấu chân Ngài, “ăn và uống”. Vì Đức Chúa Trời yêu thương, nên mạng lệnh Ngài dành cho chúng ta là hãy đi “khắp thế giới” và công bố tin mừng của Ngài. Chắc chắn “khắp thế giới” bao hàm những người chúng ta phải tiếp xúc hằng ngày!
Nếu Chúa chúng ta giới hạn việc mua bán khoảng bao nhiêu một tháng, thì sẽ đơn giản biết bao! Luật lệ sẽ đơn giản, ai cũng theo được. Những người nào tiêu dùng quá một số lượng nào đó mỗi tháng sẽ là những Cơ-đốc-nhân thế giới, còn những ai tiêu dùng ít hơn số ấy sẽ không có tinh thần thế giới.
Nhưng vì Chúa chúng ta không cho một con số nào cả, nên chúng ta phải liên tục nương dựa vào Ngài. Để làm gì? Tôi nghĩ câu trả lời rất tuyệt diệu. Không phải chúng ta bị luật lệ ràng buộc, nhưng luôn luôn ở trong một loại giới hạn khác: giới hạn của sự sống Ngài. Nếu Chúa ban cho chúng ta một loạt luật lệ và qui tắc để giữ theo, thì chúng ta phải mất nhiều công phu giữ đúng theo đó. Tuy nhiên, thật ra công việc chúng ta phải làm là một điều đơn giản hơn nhiều, và dễ hiểu, dễ làm, tức là ở trong chính Chúa. Khi ấy, chúng ta có thể giữ luật pháp. Bây giờ chúng ta chỉ cần giữ sự tương giao với Ngài. Sự vui mừng của mối tương giao ấy là Thánh Linh Ngài trong lòng chúng ta sẽ luôn luôn cho chúng ta biết khi nào chúng ta đã đến mức giới hạn, miễn sao chúng ta cứ sống tiếp xúc gần gũi với Đức Chúa Trời!
Trước đây chúng ta đã nói rằng vương quốc của antichrist chẳng bao lâu sẽ lộ ra. Trong thư viết cho “các con cái bé mọn” của mình về thế giới và những điều thuộc về thế giới (1 Giăng 2:15), Giăng tiếp tục cảnh cáo họ: “Các con đã nghe nói rằng antichrist phải đến, mà nay đã có nhiều antichrist dấy lên rồi”
(c. 18). Đối diện với những điều này, và thậm chí với linh thâm hiểm hơn “của antichrist, mà anh em đã nghe nó phải đến, và hiện nay đã ở trong thế giới rồi” (4:3), họ phải làm gì? Trong sự đơn sơ của mình, làm thế nào họ biết điều gì thật, và điều gì giả? Làm sao họ có thể nói chỗ nào trông có vẻ an toàn nhưng lại nguy hiểm, và chỗ nào là an toàn thật để họ bước đi trên đó?
Câu giải đáp Giăng cho họ thật đơn giản đến nỗi ngày nay chúng ta ngại không dám tin. “Các con có sự xức dầu từ nơi Đấng Thánh, và các con đã biết mọi sự rồi... Sự xức dầu mà các con đã nhận được nơi Ngài vẫn cứ ở trong các con, không cần ai dạy các con; nhưng sự xức dầu của Ngài dạy các con mọi sự, mà sự [xức dầu] ấy là thật, không phải dối, và thậm chí [sự xức dầu] ấy đã dạy các con như thế nào, thì hãy cứ ở trong Ngài như thế ấy” (1 Giăng 2:20-27). Điều này chắc chắn chỉ về Linh của lẽ thật, mà Chúa Giê-su đã hứa với các môn đồ Ngài, là Linh vừa kết án thế giới vừa dẫn dắt họ vào mọi lẽ thật (Giăng 16:8-13).
Trong mọi trường hợp, chắc chắn phải có những giới hạn an toàn mà Đức Chúa Trời biết, là những giới hạn chúng ta không nên vượt qua. Những giới hạn ấy không được vạch ra trên đất để chúng ta nhìn thấy, nhưng có một điều chắc chắn: Đấng An Ủi chắc chắn biết những giới hạn ấy, và ngay cả có lẽ Sa-tan cũng biết nữa. Chúng ta không thể tin cậy Ngài sao? Nếu một lúc nào đó sắp vượt qua những giới hạn ấy, chúng ta không thể nhờ cậy Ngài ngay để Ngài làm cho chúng ta nhận biết sự kiện ấy ở bề trong sao?
Trong 1 Cô-rin-tô chương 7, sứ đồ Phao-lô dẫn dắt chúng ta sâu xa hơn về chính chủ đề này. Ông nói: “Nhưng anh em ơi, tôi nói điều này: thì giờ ngắn ngủi, từ nay trở đi người nào có vợ hãy nên như kẻ không có, và người nào khóc hãy nên như không khóc, và người nào vui hãy nên như không vui, người nào mua hãy nên như không sở hữu gì cả, và người nào dùng thế giới hãy nên như người không lạm dụng nó. Vì kiểu cách của thế giới này đang qua đi. Nhưng tôi ao ước anh em khỏi lo lắng” (cc. 29-32). Ở đây lần lượt có một vài vấn đề được bàn đến, nhưng nhân tố chủ đạo trong mọi điều ấy rõ ràng là như vầy: “thì giờ ngắn ngủi”, hay như một số dịch giả dịch là “thì giờ eo hẹp”. Vị sứ đồ nói, chúng ta đang sống trong thời kỳ có áp lực đặc biệt, và chúng ta phải để nguyên tắc này hướng dẫn mình: “ai có... như không có”.
Chúng ta thắc mắc không biết Phao-lô có tự mâu thuẫn không? Trong Ê-phê-sô chương 5, ông ra lệnh chồng phải yêu thương vợ với một tình yêu trọn vẹn như Đấng Christ yêu Hội-thánh, không kém hơn chút nào. Tuy nhiên, ở đây ông bảo họ sống như không có vợ! Chúng ta hoảng hốt kêu lên, không biết ông có thành thật mong chúng ta dung hòa hai thái cực này cùng một lúc không?
Ở đây cần phải nói ngay rằng đời sống nghịch lý như vậy là một đời sống mà chỉ có Cơ-đốc-nhân mới có thể sống được. Có lẽ nhóm chữ “như không có” cho chúng ta đầu mối. Cách diễn tả này bày tỏ rằng đây là vấn đề ở bề trong, vấn đề về sự trung thành của tấm lòng. Trong Đấng Christ, chúng ta có sự tự do ở bề trong đối với Đức Chúa Trời, không chỉ là sự thay đổi hành vi bề ngoài. Họ có, và đang có, họ vui mừng ở Ê-phê-sô chương 5, nhưng họ không bị những gì mình sở hữu ràng buộc mình, cho nên, đó là không có, họ cũng vui mừng tương tự như vậy trong 1 Cô-rin-tô chương 7. Dầu họ “có” tất cả, nhưng trong linh họ được giải cứu khỏi sự sở hữu thế giới đến nỗi họ sống “như không có”.
Người thiên nhiên sống theo một trong hai thái cực, hoặc là khi họ có, họ hoàn toàn bị những gì mình có chiếm hữu mình, hoặc nếu theo kiểu tôn giáo, họ dẹp bỏ hết những gì mình có để họ không còn sở hữu chúng nữa, và hoàn toàn không còn bận tâm gì đến chúng. Nhưng phương cách của Cơ-đốc-nhân hoàn toàn khác hẳn phương cách thiên nhiên. Cách Cơ-đốc-nhân giải quyết vấn đề không phải là cất bỏ điều ấy đi, nhưng giải cứu tấm lòng để không bị điều ấy nắm lấy. Không phải là bỏ vợ, hay bỏ đi tình cảm vợ chồng, nhưng cả vợ lẫn chồng đều được giải cứu khỏi sự cai trị thái quá của tình cảm ấy. Cũng vậy, không phải cất bỏ sự buồn phiền gây nên than khóc, nhưng đời sống không còn bị điều rắc rối ấy khống chế nữa. Nguyên nhân khiến người ta vui mừng vẫn còn đó, nhưng có một sự kiểm chế ở bên trong chống lại tình trạng chịu khuất phục hoàn toàn cách hư không trước điều đã gây nên sự vui mừng ấy. Việc mua bán vẫn tiếp tục như trước, nhưng một sự giải cứu bên trong đã làm cho cá nhân chúng ta buông ra, không còn nắm lấy nó nữa.
Thỉnh thoảng chúng ta nói về lòng ao ước duy trì chứng cớ của Chúa Giê-su trên đất giống như Giăng. Chúng ta hãy nhớ rằng chứng cớ ấy không dựa vào những gì chúng ta nói về điều này điều kia, nhưng dựa trên những gì Sa-tan nói về chúng ta. Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta trong thế gian này, và Ngài thường đặt chúng ta ở một vài nơi đặc biệt khó khăn, là nơi chúng ta bị cám dỗ cảm thấy rằng người thế giới sống dễ dàng hơn Cơ-đốc-nhân. Lý do là vì các Cơ-đốc-nhân thật sự là khách lạ, sống trong một môi trường mà bản chất vốn không thuộc về họ.
Một tay bơi lội có thể lặn sâu vào lòng biển, nhưng nếu thiếu y phục đặc biệt và ống dưỡng khí thông với bầu khí quyển của anh thì anh không thể ở dưới đó lâu được. Áp lực quá lớn, anh phải thở không khí thế giới của mình. Bao lâu anh còn công tác phải làm, và bao lâu anh còn được cung ứng năng lực để đắc thắng yếu tố vây quanh mình, thì anh còn ở sâu dưới đó, nhưng anh không thuộc về yếu tố ấy và nó cũng không có phần gì trong anh.
Như vậy, nan đề tiếp xúc với thế giới của chúng ta không thể giải quyết do thay đổi hành vi bên ngoài. Một số người nghĩ rằng vào những giai đoạn như chúng ta đang sống đây, không lo liệu gì cho tương lai là dấu hiệu của người thuộc linh. Nhưng đó không phải là thuộc linh, mà là khờ dại. Những gì chúng ta có thể làm để lo liệu là điều chúng ta sẽ cân nhắc trong chương cuối. Nhưng lời Đức Chúa Trời bày tỏ rõ chúng ta phải sử dụng thế giới. Chúng ta phải ăn và uống, mua bán hàng hóa, trồng tỉa, vui mừng, đúng vậy và nếu cần, chúng ta cũng khóc, tuy nhiên chúng ta không dùng một điều nào trong những điều ấy đến mức tối đa. Chúng ta đã học biết thế nào là bị lâm nguy trong mọi mối quan hệ của chúng ta với thế giới. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi chúng ta cũng đã học tập bước đi cách thận trọng, luôn luôn lắng nghe tiếng nhỏ nhẹ của Đấng An Ủi hạn chế chúng ta.
Giê-su đến “từ trên”. Ngài có thể công bố lời thách thức này không chút sợ hãi: “Vua chúa thế giới này sắp đến, người không có chi hết nơi Ta”. Lằn ranh giới đã được vẽ ra, không phải trên đất dưới chân Ngài, nhưng trong lòng Ngài. Đúng như vậy, mọi điều nào trong thế gian này đến “từ trên” đều an toàn y như chính Ngài. Đức Chúa Trời đang ở đầu trên của ống dẫn khí điểu khiển máy bơm dưỡng khí. Ngài duy trì và cung cấp sự sống thuộc trên cao xuống cho chúng ta tại đây. Như vậy, nếu có một điều gì thuộc linh và “thuộc về Đức Chúa Trời”, chúng ta không cần phải lo lắng về điều ấy hay chiến đấu để gìn giữ nó. “Vương quốc của Ta không thuộc về thế giới này, nếu vương quốc Ta thuộc về thế giới này, thì các tôi tớ Ta chắc phải chiến đấu”. Họ không cần phải chiến đấu.
Đức Chúa Trời không lo âu về chúng ta, đơn giản bởi vì Ngài không lo lắng về Thánh Linh của Ngài. Theo một ý nghĩa, sự sống thuộc linh không thể có phẩm chất nghèo nàn, vì sự sống thuộc linh là sự sống của Đức Chúa Trời, và vì vậy, sự sống thuộc linh chỉ bị áp đảo khi Đức Chúa Trời bị áp đảo. Đức Chúa Trời không tranh luận về sự thật này. Ngài hài lòng giao phó điều này cho Đấng An Ủi để làm cho điều ấy trở nên thật trong chúng ta. “Hỡi các con bé mọn, các con thuộc về Đức Chúa Trời, và đã thắng chúng rồi, vì Đấng ở trong các con là lớn hơn kẻ ở trong thế giới” (1 Giăng 4:4).
Một lần nữa, cùng một câu Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng cả thế giới đều nằm trong lòng của kẻ ác (phải, chính câu ấy!) một lần nữa cũng bảo đảm với chúng ta rằng “chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời” (1 Giăng 5:19). Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời! Chúng ta có thể tìm được một sự thật nào phước hạnh hơn để hóa giải sự thật đáng sợ kia và lại có giá trị hơn nhiều so với sự thật đáng sợ ấy không? Chúng ta là những người tin danh Chúa Giê-su “không phải sanh bởi khí huyết, không phải bởi ý muốn xác thịt, cũng không phải bởi ý muốn con người, nhưng bởi Đức Chúa Trời vậy” (Giăng 1:13). Ngợi khen Ngài, vì chúng ta sanh bởi Đức Chúa Trời, nên kẻ ác không thể đụng đến chúng ta (1 Giăng 5:18).
Nói một cách đơn giản, quyền lực của Sa-tan trong thế giới ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, bất cứ nơi đâu những người nam, người nữ bước đi trong Thánh Linh, nhạy cảm đối với sự xức dầu họ có từ Đức Chúa Trời, thì quyền lực của Sa-tan sẽ tan biến. Đức Chúa Trời đã vẽ một đường ranh, một ranh giới là nơi vì chính sự hiện diện của Ngài mà lệnh của Sa-tan không truyền đi được. Chúng ta hãy để chính Đức Chúa Trời chiếm trọn mọi chỗ, thì còn chỗ nào cho kẻ ác?
Chúng ta có tuyệt đối cho Đức Chúa Trời không? Sa-tan có làm chứng về anh em và tôi rằng “Ta không thể sập bẫy người này!” không?