GIÊ-RU-SA-LEM
MỚI
(2)
Ý nghĩa của Khải Thị chương 21 và 22 bị giấu kín đối
với Cơ Đốc nhân suốt nhiều thế kỉ. Nhiều người hiểu các chương này một
cách rất thiên nhiên và cho đây là lời mô tả về một thành phố vật chất. Khi còn
trẻ, chúng tôi từng nghe những bài hát phúc âm về thành phố bằng vàng và đường
bằng vàng này.
Câu đầu tiên của sách Khải Thị bày tỏ rằng khải thị
về Jesus Christ được tỏ
ra qua các dấu hiệu. Nếu muốn hiểu sách này, chúng ta phải biết ý nghĩa của tất
cả những dấu hiệu ấy. Chẳng hạn, bảy giá đèn bằng vàng trong chương 1 và người
nữ hoàn vũ sáng láng trong chương 12 là dấu hiệu. Hơn nữa, trong sách này, Đấng
Christ được gọi là Sư
tử và Chiên con; các từ ngữ ấy cũng là dấu hiệu. Tương tự như vậy, toàn thể
Giê-ru-sa-lem Mới là một dấu hiệu.
Trải qua nhiều thế kỉ, những gì Cơ Đốc nhân nói về Hội
thánh đều xuất phát từ quan niệm sai lầm về Hội thánh là gì. Khi đề cập đến việc
đi đến Hội thánh, một số người có ý nói về một tòa nhà có tháp chuông cao. Theo
quan niệm của họ, tòa nhà theo một kiểu nào đó là Hội thánh. Thậm
chí, một số biểu đồ về các thời đại cũng dùng hình ảnh tòa nhà mái nhọn để chỉ
về Hội thánh. Hình ảnh ấy có thể là một giáo đường, nhưng chắc chắn không phải
là Hội thánh.
Hội Anh Em dấy lên vào thế kỉ 19 có sự hiểu biết tiến
bộ hơn về Hội thánh. Đối với họ, Hội thánh
không phải là một tòa nhà, mà là sự tập hợp những người được kêu gọi. Khi các
tín đồ nhóm lại với nhau thì buổi nhóm của họ chính là Hội
thánh. Sự hiểu biết này tuy đúng đắn nhưng có phần nông cạn. Hội thánh sâu nhiệm
hơn như vậy nhiều. Giả sử có 1.000 Cơ Đốc nhân đã được tái sinh nhóm họp lại với
nhau nhưng họ cãi cọ, tranh chấp, chỉ trích
nhau, và sống trong xác thịt thì đó có
phải là Hội thánh không? Không, đó không phải là Hội thánh, cũng không phải là
một sự tập hợp các thánh đồ; theo cách nhìn của
Đức Chúa Trời thì đó là sự tập hợp của xác thịt. Trong một buổi nhóm của ban trị
sự Hội thánh, một thành viên của ban trị sự thậm chí còn ném quyển Kinh Thánh
vào một người khác. Một buổi nhóm như vậy chắc chắn không phải là buổi nhóm của
Hội thánh.
Trong
sách cuối cùng của Kinh Thánh, Hội thánh
được tượng trưng bởi giá đèn bằng vàng sáng ngời, thuần
khiết và tỏa sáng. Chúa dùng giá đèn làm biểu tượng
về Hội thánh vì Hội thánh thật sâu nhiệm, huyền nhiệm và không thể nào dùng
ngôn ngữ loài người mà mô tả đầy đủ được. Vì vậy, Chúa buộc phải dùng một dấu
hiệu, một biểu tượng để đại diện cho Hội thánh. Khi thấy
Hội thánh là giá đèn bằng vàng, anh em sẽ biết Hội thánh là
gì. Tuy nhiên, nếu-có người yêu cầu anh em định nghĩa về Hội thánh, anh em vẫn
không thể định nghĩa được. Hội thánh thật huyền nhiệm, thần thượng và thuần khiết
và lời lẽ của con người không thể nào định nghĩa về Hội thánh cách đầy đủ. Do
đó, trong Tân Ước chúng ta không thấy chỗ nào định nghĩa về Hội thánh cách đầy
đủ. Ê-phê-sô 1:22 và 23 chép rằng Hội thánh là Thân thể Đấng Christ, sự đầy đủ
của Đấng làm đầy dẫy mọi sự trong mọi sự. Nhưng từ “sự đầy
đủ” có nghĩa là gì, và “làm đầy tất cả trong tất cả” có nghĩa là gì? Từ liệu Hội thánh đã khó hiểu thì những
từ liệu như "Thân thể”, "sự đầy đủ” và “tất cả trong tất cả” còn khó
hiểu hơn. Vì vậy, trong sách Khải Thị, phần kết luận sau cùng của Kinh Thánh,
có nhiều dấu hiệu được dùng để chuyển tải những thực tại thuộc linh.
Khi
nói Hội thánh là giá đèn bằng vàng, chúng ta không có ý nói Hội thánh thực sự
là cái giá gồm có bảy ngọn đèn, Hiểu vấn đề này như vậy
là sai. Việc mô tả Đấng Christ
là
Chiên con cũng vậy. Chắc chắn, Chúa chúng ta không phải là chiên con theo nghĩa
đen có bốn chân và một cái đuôi. Hiểu các biểu tượng của Kinh Thánh theo cách
đó thì sai lầm biết bao! Chiên con là dấu hiệu
nói lên điều gì đó về Chúa. Vì vậy, khi sách Khải Thị mô tả Hội thánh là giá
đèn bằng vàng thì điều đó có nghĩa là Hội thánh vốn thần thượng và thuần khiết;
Hội thánh cũng có ánh sáng chiếu ra trong nơi tối tăm. Đó là ý nghĩa thật sự về
Hội thánh là giá đèn bằng vàng.
Thành
Giê-ru-sa-lem Mới cũng là một dấu hiệu, một dấu hiệu bao-hàm-tất-cả. Để hiểu dấu
hiệu này, tâm trí chúng ta phải hoàn toàn được đổi mới và được
soi sáng. Chúng ta không được hiểu Giê-ru-sa-lem Mới
theo quan niệm thiên nhiên. Một số người tranh luận
rằng Giê-ru-sa-lem Mới thật ra là một thành phố phố vật chất, vuông vức. Nếu có
quan niệm thiên nhiên như vậy, chúng ta sẽ không thể hiểu Giê-ru-sa- lem Mới
là một dấu hiệu. Giê-ru-sa-lem Mới là dấu
hiệu chỉ về toà nhà đời đời
của Đức Chúa Trời, tức là nơi ở của Ngài.
Toà nhà đời đời của Đức Chúa Trời
chắc chắn không phải là một nơi vật chất, mà
là điều gì đó sống động. Thay vì là một thành phố
vật chất, Giê-ru-sa-lem Mới là một thực thể được cấu tạo bằng sự sống thần thượng.
Điều này rất huyền nhiệm, sâu nhiệm và thâm thúy đến nỗi ngôn ngữ loài người không thể mô tả cách đầy đủ được. Vì vậy,
trong sự khôn ngoan của Ngài, Đức Chúa Trời dùng một bức tranh, một dấu hiệu để
bày tỏ Giê-ru-sa-lem Mới cho chúng ta. Nắm lấy nguyên tắc này,
bây giờ chúng ta xem xét những chi tiết và các khía cạnh khác nhau của thành
Giê-ru-sa-lem Mới.
VII. MỘT
KẾT CẤU SỐNG ĐỘNG BAO GỒM TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC ĐỨC
CHÚA TRỜI CỨU CHUỘC
Giê-ru-sa-lem
Mới là một kết cấu sống động bao gồm tất cả những người đã được Đức Chúa Trời cứu
chuộc. Sự kiện Giê-ru-sa-lem Mới là một kết cấu
như vậy hàm ý đó là một toà nhà sống động. Ý tưởng dân
Đức Chúa Trời là một toà nhà sống động không phải là lần đầu tiên được tìm thấy
trong sách Khải Thị. Trong Cựu Ước chúng ta thấy rằng
dân Đức Chúa Trời được xem là vật liệu được xây dựng với
nhau làm nơi ở của Ngài.
Kinh
Thánh đề cập đến hai điều chính là sự sáng tạo và sự xây dựng của Đức Chúa Trời.
Mở đầu Kinh Thánh, chúng ta có sự sáng tạo, và kết thúc Kinh Thánh, chúng ta có
sự xây dựng. Giữa hai đầu ấy, chúng ta thấy công tác xây dựng của Đức Chúa Trời.
Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời tạo ra vật liệu xây dựng. Khi thực hiện công
tác xây dựng của Ngài, Ngài ráp tất cả những vật liệu ấy lại với nhau thành một
đơn vị là toà nhà của Ngài.
Trong
Sáng Thế Kí chương 2, chúng ta thấy một khu vườn được tạo dựng, và trong Khải
Thị chương 21, chúng ta thấy một thành phố được xây dựng. Khu vườn là điều gì
đó thiên nhiên được Đức Chúa Trời dựng nên, và thành phố là điều gì đó được
Ngài xây dựng. Giê-ru-sa-lem Mới không phải là một khu vườn thiên nhiên, mà là
một thành phố được xây dựng. Khu vườn trong Sáng Thế Kí
chương 2 có cây sự sống, và gần cây sự sống
có một dòng sông chảy ra bốn hướng (Sáng, 2:8-10), Bởi dòng chảy của con sông ấy
mà chúng ta có vàng, ngọc châu và mã não, một loại đá quý, Ngọc châu ở đây là một
loại nhựa cây mà khi rắn lại thì trở nên một chất tương tự
như ngọc trai. Loại đá được đề cập lần đầu tiên trong Kinh Thánh không phải là
một loại đá tầm thường, mà là mã não, một loại đá quý.
Ba
vật liệu quý báu trong Sáng Thế Kí chương 2 là vàng, ngọc châu và mã não được
dùng làm gì? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải đọc toàn
bộ Kinh Thánh.
Trên
bảng đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm có đính mười hai loại đá quý (Xuất.
28:15-21), loại thứ nhất là hồng bửu thạch và loại cuối cùng là bích ngọc.
Trong mười hai loại đá quý ấy có mã não. Điều này cho thấy rằng bảng đeo ngực của
thầy tế lễ thượng phẩm vừa liên quan đến Sáng Thế Kí chương 2 vừa liên quan đến
Khải Thị chương 21, vì trong Sáng Thế Kí chương 2, chúng ta thấy có mã não còn
trong Khải Thị chương 21, chúng ta thấy có bích ngọc. Trong lời mô tả về bảng
đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm và về hai viên mã não có khắc tên con cái
Israel (Xuất, 28:9-12), chúng ta thấy mô hình thu nhỏ của toà nhà của Đức Chúa
Trời. Các viên đá quý trên cả bảng đeo ngực lẫn đai vai đều có tên mười hai chi
phái của Israel. Điều này cho thấy rằng những người Israel được cứu chuộc là
dành cho sự xây dựng của Đức Chúa Trời. Mười hai viên đá quý trên bảng đeo ngực
được khảm trong vàng. Đế bằng vàng để giữ tất cả các viên đá quý, Đây chắc chắn
là một bức tranh về sự xây dựng của Đức
Chúa Trời. Bảng đeo ngực này là một toà nhà biểu lộ Đức Chúa Trời.
Trên
bảng đeo ngực cũng có gắn U-rim và Thu-mim (Xuất. 28:30). Trong tiếng Hê-bơ-rơ,
U-rim có nghĩa là ánh sáng, và Thu-mim có nghĩa là hoàn hảo hay trọn vẹn. Cách
đây nhiều năm, tôi từng đọc một bài viết của một
nhà văn Hê-bơ-rơ; bài ấy nói rằng Thu-mim là một loại đá quý trên đó có khắc 4
mẫu tự tiếng Hê-bơ-rơ. Trên bảng đeo ngực của thầy tế lễ
thượng phẩm có tên 12 chi phái của Israel được khắc trên 12 viên đá. Tên các
chi phái ấy chỉ bao gồm 18 trong số 22 mẫu tự của bảng chữ cái tiếng Hê-bơ-rơ.
Vì vậy, trên bảng đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm thiếu 4 mẫu tự. Tuy
nhiên, bốn mẫu tự ấy được khắc trên Thu-mim, và khi viên đá này được gắn vào bảng
đeo ngực thì có sự trọn vẹn và hoàn hảo. Có đủ 22 chữ cái của bảng chữ cái tiếng
Hê-bơ-rơ. U-rim là viên đá được gắn vào bảng đeo ngực để
cung cấp ánh sáng. Tác giả bài viết ấy nói tiếp rằng khi thầy tế
lễ thượng phẩm đến trước mặt Chúa thì những viên đá nào đó trên bảng đeo ngực với
những mẫu tự thích hợp sẽ sáng lên, và vào những thời điểm khác thì những viên
đá khác với các mẫu tự của chúng sẽ sáng lên. Trong khi những viên đá khác nhau
chiếu sáng thì thầy tế lễ thượng phẩm ghi lại tất cả những mẫu tự từ chúng, và
bởi làm như vậy mà ông tạo thành những từ ngữ và câu văn. Cuối cùng ông nhận được
trọn sứ điệp hay sự phán xét từ Chúa. Vì vậy, bởi sự chiếu sáng từ bảng đeo ngực,
Đức Chúa Trời bày tỏ ý tưởng, tâm trí và cảm
nghĩ của Ngài, và thầy tế lễ thượng phẩm có thể biết tâm trí của
Đức Chúa Trời bằng cách ấy. Đó là mô hình thu nhỏ của sự xây dựng của Đức Chúa
Trời ngày nay. Ngày nay, chúng ta biết ý muốn của Đức Chúa Trời qua sự xây dựng
là Hội thánh.
Theo
kí thuật trong Sáng Thế Kí chưong 28, Gia-cốp là kẻ tiếm vị có một giấc mơ thần
thượng, trong giấc mơ đó ông thấy một chiếc thang bắt từ dưới đất lên tận trời.
Khi tỉnh dậy, ông gọi nơi ấy là nhà của Đức Chúa Trời (Sáng. 28:17). Sau đó,
ông lấy hòn đá đã được dùng làm gối, dựng lên làm trụ, xức dầu trên đó, và gọi đó là nhà của Đức Chúa
Trời (Sáng. 28:18-19,22).
Tảng
đá cũng được đề cập trong sách Xa-cha-ri. Xa-cha-ri 4:7 nói về đá đầu, còn 3:9
thì đề cập đến đá có bảy mắt. Đá trong Xa-cha-ri không phải là đá nền, cũng
không phải là đá góc mà là đá đỉnh có bảy mắt. Bảy mắt ấy lại xuất hiện trong
sách Khải Thị như bảy mắt của Chiên con (5:6). Vì vậy, bảy mắt ấy liên quan đến
đá đối với Chiên con, cũng là Sư tử (5:5). Do đó, chúng ta nói Sư tử-Chiên
con-Đá.
Khi
Phi-e-rơ gặp Chúa Jesus
lần
đầu, Ngài đổi tên ông từ Si-môn thành Sê-pha, có nghĩa là
viên đá (Gi. 1:42). Sau khi Phi-e-rơ nhận được khải thị cho biết Chúa là Đấng Christ, tức Con
Đức Chúa Trời hằng sống thì Chúa phán: “Ta cũng nói với anh rằng anh là đá,
trên vầng đá này, Ta sẽ xây dựng Hội thánh của Ta” (Mat. 16:18).
Trong câu Kinh Thánh này, chúng ta có viên đá và vầng đá. Về
sau, trong Thư tín thứ nhất của ông, Phi-e-rơ nói: “Hãy đến cùng Ngài là hòn đá sống,
thật bị người ta loại ra, song đối với Đức Chúa Trời thì được lựa chọn và quý
trọng; anh em cũng như đá sống được xây nên nhà thuộc linh” (1 Phi. 2:4-5). Vì
vậy, khái niệm tín đồ là những viên đá được xây dựng trở thành nơi ở của Đức
Chúa Trời không phải là mới mẻ trong sách Khải Thị. Khái niệm này được tìm thấy
ở những nơi khác trong Cựu Ước và Tân Ước.
Phao-lô
cũng có quan niệm này trong 1 Cô-rin-tô chương 3;
trong chương ấy ông nói rằng Hội thánh là ruộng và nhà
của Đức Chúa Trời, và ông là một tay kiến trúc khôn khéo (cc. 9-10). Trong phân
đoạn Kinh Thánh này, Phao-lô cũng cảnh báo chúng ta phải cẩn thận trong việc
dùng vật liệu để xây dựng. Chúng ta không được xây dựng bằng gỗ, cỏ khô và rơm
rạ, mà phải xây bằng vàng, ngọc trai và đá quý (cc. 10, 12).
Nếu
kết hợp lại tất cả những phần lời về đá lại với nhau, chúng ta sẽ thấy rằng những
viên đá quý tượng trưng cho dân được Đức Chúa Trời cứu chuộc, tái sinh và biến
đổi. Tất cả những viên đá xây dựng nên
Giê-ru-sa-lem Mới chính là các thánh đồ đã được cứu chuộc, tái sinh và biến đổi
của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phi-e-rơ đã nêu rõ chúng ta là những viên đá sống.
Chúng ta hiện đang ở trong tiến trình biến đổi và xây dựng
thành toà nhà của Đức Chúa Trời. Trước hết, Đức Chúa Trời biến đổi chúng ta,
sau đó Ngài xây dựng chúng ta. Vì vậy, Giê-ru-sa-lem không phải là một đống vật
liệu, mà là một kết cấu các vật liệu đã được xây dựng với nhau. Toàn thành
Giê-ru-sa-lem Mới là toà nhà của Đức Chúa Trời, một
kết cấu sống bao gồm tất cả những thánh đồ đã được cứu chuộc, tái sinh và biến
đổi.
A.
Các thánh đồ Cựu Ước được đại diện bởi mười hai
tên của mười hai chi phái Israel
trên mười hai cổng
Giê-ru-sa-lem
Mới trước hết gồm có các thánh đồ Cựu Ước. Khải Thị 21:12 minh chứng
điều này, và câu ấy chép rằng tên của mười hai chi
phái của các con trai Israel được ghi trên các cổng thành. Mỗi cổng mang tên của
một chi phái. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy rằng các cổng thành là những
người sống động. Chúng ta đã thấy rằng ý nghĩa của Hội thánh như giá đèn bằng
vàng là Hội thánh chiếu sáng để soi sáng. Chúng ta cần biết ý nghĩa thật của
các cổng ấy.
Các
cổng trước hết được dùng như phương tiện
truyền bá cho thành, và sau đó được dùng như lối vào thành. Trước khi bất cứ điều
gì có thể bước vào qua các cổng thì trước hết phải có điều gì đó từ cổng đi ra.
Điều ra khỏi các cổng sẽ đem điều gì đó trở về qua các cổng. Vì vậy, trước hết
cổng có chức năng như là phương cách truyền bá, rồi sau đó có chức năng như là
các lối vào.
Xin
nhớ rằng những người đầu tiên rao giảng và truyền bá phúc âm chính là người Do
Thái, Chẳng hạn, cả Phi-e-rơ lẫn Phao-lô đều là người Do Thái. Do đó, Chúa nói
với người nữ Sa-ma-ri rằng sự cứu rỗi là thuộc về người Do Thái (Gi.
4:22). Nói cách khác, phúc âm, tức tin mừng ra từ dân Do Thái. Vì vậy, các
thánh đồ Cựu Ước, tức con cái Israel, là các cổng để rao giảng và truyền bá. Tất
cả các tiên tri thời Cựu Ước, bao gồm Ê-sai, Giê-rê-mí, Đa-ni-ên, Ê-xê-chi-ên
và các tiểu tiên tri, đều là những người rao giảng. Ê-sai
đã rao giảng rất nhiều, thậm chí đã công bố một sứ điệp phúc âm độc nhất vô nhị
được ghi lại trong Ê-sai chương 53. Ngoài ra, Giăng Báp-tít và các sứ đồ đều là
hậu duệ của mười hai chi phái Israel. Vì thế, mười hai chi phái của Israel là
các cổng qua đó sự phong phú của Giê-ru-sa-lem Mới được cung ứng cho nhân loại.
Sự
cung ứng từ các cổng ấy dẫn đến một kết quả là đem con người vào qua việc rao
giảng phúc âm, Tất cả chúng ta đều đã vào trong Giê-ru-sa-lem Mới qua các cổng
Do Thái ấy Dù một số người có thể không đánh giá cao từ liệu này, nhưng chắc chắn
tôi đánh giá cao. Tôi không bước vào qua cánh cổng dân ngoại mà bước vào
qua cánh cổng mang tên một trong mười hai chi phái của Israel. Chúng ta đừng
bao giờ nói rằng mình bước vào qua cánh cổng mang tên nước Anh, nước Đức hay bất
cứ tên dân ngoại nào khác. Trong Giê-ru-sa-lem Mới không có những tên như vậy.
Các cổng chỉ có tên mười hai chi phái của con cái Israel. Đó là các cổng để
truyền bá và làm lối vào. Như chúng ta đã thấy, các
tên này tượng trưng cho thánh đồ Cựu Ước là thành
phần cấu tạo của thành đó.
B. Các
tín đồ Tân Uớc được đại diện
bởi tên của
mười hai
sứ đồ của Chiên con trên mười hai nền
Câu
14 chép: “Tường thành có mười hai nền, trên đề mười hai danh của mười
hai sứ đồ của Chiên con” Sự kiện tên mười hai sứ đồ ở trên mười hai nền của tường
cho thấy rằng Giê-ru-sa-lem Mới không những bao gồm các thánh đồ Cựu Ước, được
đại diện bởi dân Israel, mà còn bao gồm các thánh đồ Tân
Ước, được đại diện bởi các sứ đồ. Tín đồ Tân Ước không phải để làm cổng mà để
xây tường. Cổng là để truyền bá và bước vào, nhưng tường là để phân rẽ và
bảo vệ. Trong một bài khác, chúng ta sẽ đề cập chi tiết về cổng và tường.
VIII. ĐƯỢC XÂY DỰNG BẰNG CÁC BÁU VẬT
Thành
Giê-ru-sa-lem Mới được xây dựng bằng các báu vật. Thành ấy được xây dựng bằng
ba loại đá quý, chỉ về sự xây dựng bởi Đức Chúa Trời Tam Nhất.
Thứ nhất, chính thành phố cùng với đường thành là bằng vàng (cc. 18, 21). Vàng,
tượng trưng cho bản chất thần thượng của Đức Chúa Trời, tiêu biểu cho Cha là
nguồn sản sinh ra yếu tố để thành tồn tại cách thiết thực. Thứ hai, mười hai cổng
thành là ngọc trai, chỉ về sự chết đắc thắng và sự phục sinh truyền-sự-sống của
Con, mà qua ngọc trai ấy chúng ta có được lối vào trong thành. Thứ ba, tường
thành và nền được xây bằng các loại đá quý. Điều này chỉ về công tác của Linh
biến đổi các thánh đồ đã được cứu chuộc và tái sinh thành đá quý để xây dựng
nơi ở đời đời của Đức Chúa Trời hầu họ có thể biểu lộ Đức
Chúa Trời cách tập thể trong vinh hiển tràn ngập của Ngài. Trong vườn Ê-đen, ba
loại báu vật ấy chỉ là những vật liệu (Sáng. 2:11-12),
trong khi trong thành Giê-ru-sa-lem Mới, các vật liệu quý báu ấy được xây dựng
để hoàn thành mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, tức sự biểu lộ tập thể của
Ngài.
A. Vàng dành
riêng cho thành phố
Giê-ru-sa-lem
Mới là một núi bằng vàng. Là một núi bằng vàng, Giê-ru-sa-lem Mới là giá đèn
vàng chung cuộc, duy nhất và đời đời. Theo hình bóng, vàng tượng trưng cho bản
chất thần thượng. Vì vậy, thành ấy hoàn toàn được tạo thành
bởi bản chất thần thượng của Đức Chúa Trời. Vàng này tinh ròng và trong suốt. Nếu
nhìn thấy khải tượng Giê-ru-sa-lem Mới được xây dựng bằng bản chất thần thượng
của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ từ bỏ mọi sự không thuộc về bản chất của Đức
Chúa Trời và khước từ bất cứ điều gì không phù hợp với bản chất ấy. Hội thánh
ngày nay cũng phải được xây dựng bằng bản chất của Đức Chúa Trời, chứ không phải
bằng gạch, đất sét hay gỗ.
B. Mười
hai viên đá quý dành cho mười hai nền
Trong
câu 19 và 20, chúng ta thấy các nền của tường thành được trang trí bằng những
viên đá quý. Điều này biểu thị rằng mười hai sứ đồ đã được biến
đổi thành đá quý để làm mười hai lớp nền của thành.
C. Bích
ngọc dành cho tường
Câu
18 chép: “Tường thì xây bằng bích ngọc.” Bích ngọc là dáng vẻ của Đức Chúa Trời
(4:3). Vì vậy, tường bích ngọc ngụ ý rằng: là sự biểu lộ tập thể của Đức Chúa
Trời trong cõi đời đời, cả thành đều mang dáng vẻ của Đức Chúa Trời. Khi
ở trong Giê-ru-sa-lem Mới, chúng ta sẽ rất ngạc nhiên thấy rằng cả
thành đều có cùng một dáng vẻ, dáng vẻ của bích ngọc. Điều này có nghĩa là tất
cả chúng ta đều phải nói cùng một điều, biểu lộ cùng một điều
và có cùng một dáng vẻ. Tuy nhiên, Cơ Đốc
giáo ngày nay thì rất khác, vì ở đó ai cũng có màu sắc riêng, ý kiến riêng, và
ai cũng bày tỏ suy nghĩ riêng. Nhưng Giê-ru-sa-lem Mới chỉ có một dáng vẻ, một sự biểu lộ và một màu sắc.
D.
Mười hai viên ngọc trai dành cho mười hai cổng
Câu 21 chép: “Mười hai cổng bằng
mười hai ngọc trai, mỗi cổng bằng một ngọc trai.” Vì vậy, ngay cả các cổng
thành cũng được xây dựng bằng báu vật