Thứ Hai, 14 tháng 5, 2018

CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI, BABYLON VẢ THẾ GIỚI-



Tuyển dân đã phạm tội quá sâu,
Chúa lưu đày đi cả địa cầu,
Mười chín bốn tám họ lập quốc,
Chấm dứt án lưu đày nhiệm mầu.
-
Exe 4:4-6- Kế đó, ngươi khá nằm nghiêng mình bên tả, và để tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên tại đó. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày, thì mang lấy tội lỗi chúng nó cũng bấy nhiêu. Vì ta đã định cho ngươi một số ngày bằng với số năm của tội lỗi chúng nó, là ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy. Vả lại, khi những ngày ấy đã mãn, ngươi khá nằm nghiêng mình bên hữu, và mang lấy tội lỗi của nhà Giu-đa, trải bốn mươi ngày ta định cho ngươi mỗi một ngày thay vì một năm.
Phục 28:64--và Đức Giê-hô-va sẽ tản lạc ngươi trong các dân, từ cuối đầu nầy của đất đến cuối đầu kia; tại đó, ngươi sẽ hầu việc các thần khác bằng cây và bằng đá mà ngươi cùng tổ phụ ngươi không hề biết.
Lê 26: 18,21,23-24, 27-28-- Nếu đến đỗi vậy mà các ngươi không khứng nghe ta, ta sẽ vì cớ tội phạm, thêm gấp bảy lần đặng sửa phạt các ngươi

-
Vì sau khi vào đất hứa dân Israel không giữ năm sa bát là cho đất nghỉ một năm sau 6 năm canh tác, và họ cũng đã phạm tội thờ hình tượng nên Chúa hình phạt Israel bằng cách cho lưu đày đi:
-
1.Lưu Đày Đến Asiri (Iraq)_
Ép ra im hay bắc quốc Israel vong quốc vào năm 721TC. Và cả 10 chi phái bị lưu đày sang Asiri.- 2 Vua 17:6--Đoạn, vua A-si-ri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Sa-ma-ri trong ba năm. Năm thứ chín đời Ô-sê, vua A-si-ri hãm lấy Sa-ma-ri, đem dân Y-sơ-ra-ên sang qua A-si-ri, lập họ ở tại Cha-la và trên bờ Cha-bo, sông của Gô-xan, cùng trong các thành nước Mê-đi. 10 chi phái nầy đi khắp địa cầu, mãi năm 1948 có một thiểu số hồi hương.
-
2.Lưu Đày Đến Babylon— (606-536 T.C).==70 năm
Nam quốc Giu đa bị vua Nê bu cát nết Sa, của Babylon ba lần bắt dân di lưu đày.
- Lần 1 vào năm 606 TC., có Đa niên ên và nhiều người thuộc nhà quyền quý.
- Lần 2 vào triều vua Giê hô gia kin, có tiên tri Ê xê chi ên và thợ thuyền, công nhân…
- Lần 3 vào- năm thứ 11 triều vua cuối cùng là Sê đê kia. Quân Babylon phá thành Gierusalem và đền thờ.
Kể từ năm 606 TC. đến năm đại đế Ba tư là Siru lên ngôi (536TC) cuộc lưu đày Giu Đa tại Babylơn chấm dứt.
Dân Israel, chủ yếu là người Giu đa (Do thái), Lê vi, thầy tế lễ, số lượng khoảng 50 ngàn người đã trở về Israel xây lại đền thờ và thành thánh. Dân hồi hương nầy tồn tại mãi đến thời Tân ước, để sinh ra Chúa Jesus. Rồi vào năm 70 SC. Họ lại bị lưu đày lần nữa. Đền thờ và thành thánh cũng bị tiêu hủy lần thứ hai.
-
3. Lưu Đày Đến Thế Giới-
Phục 28:64 nói dân israel đã bị đày khắp thế giới. như 10 chi phái Israel không hồi hương vào năm 536 T.C, họ đã lưu lạc luôn. Rồi vào năm 70 S.C., dân Giu Đa đã đóng đinh Chúa Jesus nên cũng bị lưu đày nốt.
Tôi biết có một người Do thái làm giám đốc ngân hàng tư nhân tại Saigon trước năm 1975. Nên họ đã lưu lạc đến mọi quốc gia cả địa cầu.-
-
Theo Exechien 4, chúng ta thấy Chúa phải phạt Israel 390 năm và Giu đa 40 năm, tổng cộng là 430 năm. Dân Giu đa đã bị lưu đày sang Babyon 70 năm- Giê rê mi 25:11 chép- Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
Như vậy lấy 430 năm trừ đi 70 năm, thì Israel còn phải bị án phạt lưu dày 360 năm nữa mới đủ hạn.
-
Rồi theo Lê vi ký 26:18, 21, 24, 28, Chúa 4 lần nói: vì họ không ăn năn ở xứ người đang khi sống lưu đày, nên Chúa phạt họ gấp 7 lần nữa.
Như vậy 360 năm x 7= 2520 năm theo kinh thánh.
Vì Năm Kinh thánh là 360 ngày một năm, mà năm dương lịch là 365 ngàyy ¼ một năm.. Như vậy 2520 năm của Kinh thánh đổi thành 2483 năm của dương lịch quốc tế.
-
Họ đã hồi hương sau khi lãnh hình phạt 70 năm vào năm 536 TC..
Nay chúng ta lấy năm 536 TC làm mốc, và cộng thêm 2483 năm vào, chúng ta sẽ có con số 1948. Đó là năm Israel tái lập quốc tại đất tổ, vào ngày 14/5.
-
Kết luận
Sau hơn 25 thế kỷ lãnh án phạt nặng nề của Đức Chúa Trời, theo nguyên tắc tổng quát, Israel đã mản hạn án lưu đày vì tội lỗi của dân tộc mình.
Trong cơn đại nạn họ bị diệt chủng, chớ ít bị lưu đày nữa.