Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Hội Thánh Được Cất Lên Trước Đại Nạn Không?

Người đàn bà sinh con trai



Mời anh em hát lời hát nầy theo nhạc điệu Thánh Ca của HTTL Việt nam số 194.

Đáng sợ đại nạn ngày mai,
Con thú đăng quang cai quản ghê thay,
Thánh đồ và loài người đây,
Cam sống cơ cực trong đại nạn nầy.
Rồng đỏ ráo riết triển khai,
Thực thi bao phương án gay,
Nhờ đó biến đổi dân thánh,
Đức Chúa Cha hoạch thu nhiều ngành.

Tuần lễ thứ 70 trong lời tiên tri của Đa ni ên có 7 năm. Đó là 7 năm cuối cùng của thời đại nầy. Ba năm rưỡi sau trong bảy năm nầy là cơn khổ nạn lớn của địa cầu, mà hội thánh thường gọi là đại nạn. Các thành ngữ: 42 tháng, “các thì, một thì và nửa thì” hay 1260 ngày đều có cùng ý nghĩa là ba năm rưỡi, thời gian của đại nạn.

Hội thánh sẽ được biến hoá và cất lên vào thời điểm nào trong cơn đại nạn? Những người tin rằng hội thánh ra đi trước đại nạn được gọi là dân theo thuyết tiền nạn. Còn có dân tin theo thuyết trung nạn và hậu nạn. Đây là vấn đề gây tranh luận rất lớn suốt hai thế kỷ qua trong hội thánh chung. Cá nhân tôi xin đóng góp vài ý tưởng cho lập trường Hội thánh sẽ được cất lên vào thời điểm gần cuối đại nạn:

1. I.Tesalonica 4:13-17, “Hỡi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh em không biết về những người đã ngủ, hầu cho anh em không buồn rầu như kẻ khác không có sự hi vọng. Vì nếu chúng ta tin Jêsus đã chết và sống lại, thì Đức Chúa Trời cũng sẽ đem những kẻ ngủ trong Jêsus cùng đến với Ngài.  Nầy là điều chúng tôi nhơn lời Chúa mà bảo cho anh em rằng, chúng ta là kẻ sống, còn ở lại cho đến khi Chúa hiện đến, thì hẳn chẳng đi trước những kẻ đã ngủ.  Vì chính Chúa sẽ từ trời giáng xuống với tiếng kêu bảo, tiếng của thiên sứ cực phẩm, và kèn của Đức Chúa Trời, thì những kẻ chết trong Christ sẽ sống lại trước;  đoạn, chúng ta là kẻ sống mà còn ở lại, đều sẽ cùng họ được cất lên trong đám mây để nghinh tiếp Chúa tại khoảng không; như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.”

Những câu Kinh thánh nầy chỉ trình bày nguyên tắc chung của sự cất lên, bao gồm thánh đồ đã chết được sống lại, và tín đồ còn sống được biến hóa. Đó là sự hội ngộ chung của Hội thánh với Chúa, nhưng  phân đoạn nầy không cho biết thời điểm.

2. Sự quang lâm (hiện diện) của Chúa trong đại nạn- II Tesalonica 2:1 chép, “Hỡi anh em, luận về sự hiện đến của Chúa chúng ta là Jêsus Christ....”. Chữ “ sự hiện đến” ở đây là parousia, có nghĩa sự quang lâm, sự hiện diện. Sự quang lâm nầy khởi sự vào một thời điểm không rõ trong đại nạn. Sự quang lâm nầy sẽ đến không trung như Khải thị 10:1 nói, “Đoạn, tôi đã thấy một thiên sứ mạnh mẽ khác từ trời xuống, mình mặc đám mây, đầu đội mống, mặt như mặt trời, chơn như trụ lửa”.

Thiên Sứ mạnh mẽ khác ở đây cũng như Vị Thiên sứ ở Khải Thị 7:2; 8:3 và 18:1 đều là Đấng Christ. Vào thời điểm nầy Ngài đã từ thiên đàng bước ra. Khải tượng nầy chen vào giữa kèn 6 và kèn 7, là một gợi ý rằng trước kèn 7, Đấng Christ vẫn còn trên đường đi đến địa cầu. Vào thời điểm nầy, Ngài lấy các đám mây trời khoác lấy mình, chưa ngồi trên đám mây, trái ngược với Khải Thị 14:14; Mathio 24:30; 26:64. Ba câu Kinh thánh nầy nói Chúa ngồi trên đám mây, ngự xuống cách công khai, còn mặc bằng đám mây là đến cách bí mật. Sự quang lâm nầy của Chúa sẽ chấm dứt với sự “hiển lộ của sự quang lâm Ngài”( the shining forth of His parousia) để tiêu diệt Antichrist, II Tesalonica 2:8.

Trong suốt thời gian mà sự parousia của Chúa ở lại không trung, hầu hết hội thánh sẽ được cất lên đó gặp Chúa (I Tes. 4:17). Theo văn mạch  “ngày của Chúa” trong II Tes 2:2, [“Hỡi anh em, luận về sự hiện đến của Chúa chúng ta là Jêsus Christ, và sự chúng ta hội hiệp cùng Ngài, chúng tôi xin anh em, chớ để tâm trí mình nhạy rúng động, cũng đừng kinh hoảng hoặc bởi tà linh, hoặc bởi lời nói, hoặc bởi bức thơ mạo danh chúng tôi mà nói rằng ngày của Chúa gần đến rồi”,]-- ám chỉ ngày hội ngộ của Chúa với hội thánh tại không trung trong sự parousia của Ngài, xảy ra trước kèn 7.

I Corinhto 15:51-52 chép, “Nầy, tôi tỏ cho anh em một sự mầu nhiệm: Chúng ta không ngủ hết, nhưng hết thảy đều sẽ biến hoá,  trong tích tắc, trong nháy mắt, lúc kèn chót thổi. Vì kèn sẽ trổi tiếng, thì kẻ chết đều được sống lại chẳng hay hư nát, và chúng ta đều sẽ được biến hoá”. Hai câu Kinh thánh nầy bày tỏ Hội thánh chỉ được cất lên ngay sau khi kèn 7 thổi lên. Khải thị 10:7 và 11:15 chép, “nhưng đến ngày của tiếng thiên sứ thứ bảy, khi người sắp thổi lên, thì sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời sẽ được trọn, chánh như Tin Lành Ngài đã truyền cho đầy tớ Ngài là các tiên tri.-- Thiên sứ thứ bảy thổi lên, liền có những tiếng lớn trên trời rằng: “Nước của thế giới đã trở nên nước của Chúa chúng ta và của Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ làm Vua cho đến đời đời vô cùng”. Hai câu nầy nói Chúa sắp đem vương quốc Ngài xuống địa cầu. Sau kèn 7 có 7 bát thạnh nộ đổ xuống trước và giữa trận chiến Hạt ma ghê đôn để chấm dứt đại nạn. Chúa liền cùng thánh đồ hiện ra, cỡi mây mà đến. Hội thánh đã được cất lên sau kèn 7, tức là thời điểm sắp diễn ra đại chiến thế giới Hạt ma ghê đôn.

Lu ca 17:28-30 chép, “Lại cũng như đã xảy ra trong ngày của Lót: người ta ăn, uống, mua, bán, gieo trồng, xây cất,  nhưng nhằm ngày Lót ra khỏi Sô-đôm, thì trời mưa lửa và lưu hoàng diệt họ hết thảy.  Ngày Con người hiện ra cũng một thể ấy”. Ngày Lót vừa ra khỏi thành phố Sô đôm. Mưa lửa và lưu hoàng đổ xuống liền. Hội thánh chung, yếu đuối thuộc linh như Lót, vừa được cất lên, mưa diêm sinh của đại chiến Hạt ma ghê đôn đổ xuống, thì Con Người hiện ra công khai. Từ ngữ “hiện ra “ ở đây là “apokalupto” có nghĩa “được khải thị, vén màn lên cho xem thấy, hiển lộ”. Chúa hiển lộ ra từ không trung.

3. Cuộc hội ngộ của Hội thánh cùng Chúa:
II Tesalonica 2:1-4 chép, “Hỡi anh em, luận về sự hiện đến của Chúa chúng ta là Jêsus Christ, và sự chúng ta hội hiệp cùng Ngài, chúng tôi xin anh em, chớ để tâm trí mình nhạy rúng động, cũng đừng kinh hoảng hoặc bởi tà linh, hoặc bởi lời nói, hoặc bởi bức thơ mạo danh chúng tôi mà nói rằng ngày Chúa gần đến rồi.  Mặc ai dùng cách nào, cũng đừng để họ lừa dối mình, vì phải có sự bội đạo đến trước, và có người đại tội, là con của sự hư mất, được hiển lộ; nó là kẻ đối địch, tự nhắc mình lên trên mọi vị xưng là thần, hoặc vật gì người ta kính thờ, rất đỗi ngồi trong đền thờ Đức Chúa Trời, tự xưng là Đức Chúa Trời. Anh em há không nhớ khi tôi còn ở với anh em, thì đã tỏ cho anh em những sự đó sao?  Hiện nay anh em cũng biết điều ngăn trở nó, hầu cho nó được hiển lộ đúng kỳ nó thôi.  Vì sự mầu nhiệm của sự bất pháp đang hành động rồi, song hiện nay chỉ còn có một vị ngăn cản thôi; đến khi vị ấy phải cất đi.  bấy giờ kẻ bất pháp kia sẽ được hiển lộ, Chúa Jêsus sẽ dùng hơi miệng Ngài mà tiêu diệt nó, dùng vinh quang của sự hiển hiện Ngài mà trừ bỏ nó.  Nó sẽ đến theo sự vận động của Sa-tan, làm đủ thứ quyền năng, dấu kỳ và phép lạ dối gạt,  dùng mọi cách quỉ quyệt bất nghĩa đối với những kẻ hư mất, vì họ không nhận lãnh sự yêu mến lẽ thật để được cứu”.

Phao lô quả quyết rằng trước “ngày của Chúa”, là ngày hội ngộ của Chúa với hội thánh (cả người chết sống lại và người sống) chỉ xảy ra sau khi có sự bội đạo đến trước và con người đại tội ( Antichrist), là  kẻ bất pháp, con của sự hư mất hiển lộ. Các câu nầy nói rõ ràng rằng sau khi Antichrist hiển lộ và cai trị cách bất pháp, quỉ quyệt, bất nghĩa trong ba năm rưỡi đại nạn rồi, Hội thánh mới được cất lên hội ngộ với Chúa tại khoảng không.

Điều nầy khải thị cách minh bạch và xác định rằng sự quang lâm (parousia) của Chúa đến không trung và sự cất lên đại đa số tín đồ, là mùa gặt trong Khải thị 14:14 chép, không thể xảy ra trước cơn đại nạn.

4. Khải thị 12:1-9, “Đoạn, trên trời hiện ra một dấu lạ lớn: có một người đờn bà mình mặc mặt trời, chơn đạp mặt trăng, đầu đội mão miện bằng mười hai ngôi sao. 2 Nàng có thai và kêu la vì quặn thắt và đau đẻ. Trên trời cũng hiện ra một dấu lạ khác nữa: Kìa, một con rồng lớn sắc hồng, có bảy đầu, mười sừng, đầu đội bảy vương miện.  Đuôi nó kéo một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Con rồng ấy đứng trước người đờn bà gần đẻ, chờ khi đẻ rồi thì ăn nuốt con của nàng.  Nàng sanh một con trai, con trai ấy sẽ dùng gậy sắt mà chăn muôn dân; con trẻ ấy bèn được tiếp lên cùng Đức Chúa Trời và đến nơi ngai Ngài.  Còn người đờn bà thì trốn vào đồng vắng, tại đó nàng có một chỗ mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho, để họ nuôi nàng trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.
Rồng bị thua các thiên sứ  Vả, ở trên trời có một cuộc chiến tranh, Mi-ca-ên và các sứ giả người đều chiến đấu với con rồng, rồng cũng cùng các sứ giả nó chiến đấu lại,  song chúng không thắng được, ở trên trời cũng chẳng còn thấy chỗ chúng nữa.  Con rồng lớn bị quăng xuống, tức là con rắn xưa, gọi là Ma quỉ và Sa-tan, đứa lừa dối cả thiên hạ nó bị quăng xuống đất, các sứ giả của nó cũng cùng bị quăng xuống nữa”.

Khải Thị 12 mô tả người phụ nữ có người con trai. Nhiều người tin rằng người phụ nữ nầy tượng trưng bà Mari, mẹ Chúa, số người khác chủ trương bà là dân Israel. Cả hai ứng dụng nầy đều không chính xác, vì cả hai đối tượng đều không có chạy lánh nạn con rắn vào đồng vắng trong 1260 ngày ( là cơn đại nạn) sau khi sinh ra người con trai xong. Cho nên người phụ nữ nầy phải tiêu biểu tổng thể dân Đức Chúa Trời trên trái đất, trong cả thời Cựu ước và Tân ước gộp lại.

Trải qua các thời đại, Hội thánh chung luôn luôn sản sinh một thiểu số người là thành phần mạnh mẽ, là đối thủ của con rồng. Trước cơn đại nạn, thiểu số người đắc thắng nầy (gồm cả người Cựu ước sống lại và người Tân ước đang sống) sẽ được cất lên ngai Đức Chúa Trời, đánh đuổi Satan xuống trái đất. Satan bị đánh đuổi khỏi không trung, và thì giờ của nó còn được phép làm việc trên mặt đất là 1260 ngày hay 3 năm rưỡi của cơn đại nạn. Và đó là thời gian lánh nạn của người đàn bà vào đồng vắng, xa cách mặt con rắn. Khi còn ở trên trời, Satan được gọi là con rồng, khi bị rớt xuống đất, hắn được gọi là con rắn.

Khải thị 12:13-14,17, “Khi rồng thấy mình bị quăng xuống đất, bèn rượt đuổi người đờn bà đã sanh con trai.  Nhưng nàng được ban cho một cặp cánh chim ưng lớn để bay vào đồng vắng đến chỗ của mình, ở đó nàng được nuôi một thì, các thì, và nửa thì, lánh mặt con rắn.- Rồng nổi giận người đờn bà, bèn đi giao chiến cùng những kẻ khác của dòng giống nàng, là những kẻ giữ điều răn của Đức Chúa Trời và có lời chứng của Jêsus.

Con chim ưng lớn tiêu biểu Đức Chúa Trời, còn hai cánh chim ưng ngụ ý sức mạnh của Ngài, để giải cứu dân Ngài. Xuất Hành 19:4 chép, “Các ngươi đã thấy điều Ta làm cho người Ai cập,Ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm sao, và dẫn các ngươi đến cùng Ta thế nào”. Khi xưa Chúa đã đem con dân Israel ra khỏi sự bắt bớ của Pha-ra-ôn, nên trong đại nạn, Ngài cũng sẽ đem Hội thánh chung thoát khỏi sự bắt bớ của Satan như vậy.

Câu 17 chép, “những kẻ khác của dòng giống nàng, là kẻ giữ điều răn của Đức Chúa Trời và có lời chứng của Jêsus”. Đây là dân của Đức Chúa Trời, khác với người con trai. Giữa dân sót nầy có dân Do thái không tin Chúa Jesus, nhưng giữ diều răn của Đức Chúa Trời, và các tín đồ có lời chứng của Chúa Jesus. Cả hai số dân nầy sẽ trải qua đại nạn, chịu đựng sự bắt bớ và tấn công của Satan.

5. Khải thị 13:7, 10, “Nó (con thú) được phép giao chiến cùng các thánh đồ và đắc thắng. Nó cũng được quyền bính trên các chi phái, các dân, các tiếng, và các nước-- Nếu ai bắt người ta làm phu tù; nấy hẳn sẽ bị làm phu tù; nếu ai giết người ta bằng gươm, nấy hẳn phải bị giết bằng gươm. Đây là sự nhẫn nại và đức tin của các thánh đồ”.

Các thánh đồ nầy là hội thánh chung, còn sống trong đại nạn. Chúa gìn giữ họ thoát khỏi con rắn, nhưng ở đây nói con thú (Antichrist) chiến thắng họ. Nhiều người trong họ, hoặc bị giết chết hoặc bị lao tù.

6. Khải thị chương 14: trình bày các diễn tiến cách tóm tắt theo thứ tự trước và trong cơn đại nạn như sau:

  1. Câu 1-5:, “Tôi đã thấy, kìa, Chiên Con đứng trên núi Si-ôn, và với Ngài có mười bốn vạn bốn ngàn người, đều có danh của Ngài và danh của Cha Ngài ghi trên trán mình--- Họ đã được mua chuộc từ trong loài người, để làm trái đầu mùa cho Đức Chúa Trời và Chiên Con”. Trái đầu mùa là tín đồ trưởng thành thuộc linh sớm, sẽ được cất lên trước đại nạn. Con số 144.000 chỉ là con số tiêu biểu, không theo nghĩa đen.

  1. Câu 6-7, “Tôi lại thấy một thiên sứ khác bay giữa trời, có Tin Lành đời đời, để giảng cho những kẻ ở trên đất, tức là cho các nước, các chi phái, các tiếng, và các dân. Người lớn tiếng nói rằng: “Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và tôn vinh Ngài, vì giờ xét đoán của Ngài đã đến; hãy thờ lạy Đấng dựng nên trời, đất, biển và các suối nước”. Có thiên sứ rao phúc âm đời đời cho địa cầu suốt cơn đại nạn.

  1. Câu 8, “Lại có một thiên sứ khác, là vị thứ hai, tiếp theo mà nói rằng: “Ba-by-lôn lớn kia đã đổ rồi, đổ rồi, vì nó khiến cho muôn dân uống rượu phẫn nộ do sự dâm loạn của nó”. Babylon tôn giáo (đại kỹ nữ) sẽ bị sụp đổ vào đầu đại nạn. Xem Khải 17:16-17 sẽ thấy sau khi 10 sừng con thú tiêu điệt Babylon tôn giáo nầy xong, liền trao 10 nước của chúng cho con thú, để con thú đăng quang cai trị cả vương quốc toàn thế giới trong đại nạn.

  1. Câu 9-11, “Lại một thiên sứ khác, là vị thứ ba, tiếp theo nữa, lớn tiếng nói rằng: “Nếu ai thờ lạy con thú và hình tượng nó, nhận ghi dấu hiệu trên trán hay trên tay mình,  thì nấy cũng sẽ uống rượu phẫn nộ không pha của Đức Chúa Trời rót trong chén thạnh nộ của Ngài; nó sẽ bị thống khổ trong lửa và lưu hoàng ở trước mặt các thiên sứ thánh và trước mặt Chiên Con.  Khói của sự thống khổ chúng bay lên đời đời vô cùng. Những kẻ thờ lạy con thú và hình tượng nó, cùng những kẻ nhận dấu hiệu của danh nó, thì cả ngày lẫn đêm chẳng được nghỉ ngơi”. Thiên sứ cảnh báo ai nhận dấu hiệu con thú, thờ lạy nó hay thờ lạy hình tượng nó, đều chịu khổ hình đời đời trong hồ lửa.

  1. Câu 12, “Đây là sự nhẫn nại của các thánh đồ, là những kẻ giữ điều răn của Đức Chúa Trời và đức tin của Jêsus”. Nhiều thánh đồ nhẫn nại trong cơn đại nạn. Các thánh đồ đó là người Do thái giữ điều răn của Đức Chúa Trời và tín đồ Tân ước có đức tin của Chúa Jesus. Một lần nữa, câu nầy quả quyết Hội thánh còn lưu lại trong đại nạn.

  1. Câu 14-16, “Tôi đã thấy, kìa, một đám mây trắng, trên mây có một vị ngồi giống như con người, đầu đội mão miện vàng, tay cầm lưỡi liềm bén. Có một thiên sứ khác từ đền thờ ra, lớn tiếng kêu Đấng ngồi trên mây mà rằng: “Hãy đưa lưỡi liềm Ngài ra mà gặt đi, vì giờ gặt hái đã đến, mùa màng của đất đã chín khô rồi.”  Đấng ngồi trên mây bèn quăng lưỡi liềm mình xuống đất, và đất bị gặt”.

            Lúa mì chín khô ám chỉ các tín đồ. Họ sẽ được Chúa thu hoạch cách đại
            trà vào cuối đại nạn.

  1. Câu 17-20, “Có một thiên sứ khác từ đền thờ trên trời ra, cũng cầm lưỡi liềm bén.  Có một thiên sứ khác nữa từ bàn thờ ra, là vị có quyền trên lửa, lớn tiếng kêu vị cầm lưỡi liềm bén mà rằng: “Hãy đưa lưỡi liềm bén của ngươi ra và hái những chùm nho của đất đi, vì nho đã chín mùi rồi.”  Thiên sứ bèn quăng lưỡi liềm mình xuống đất, hái nho của đất, và ném vào lò ép rượu lớn của sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời. Lò rượu ấy đạp ở ngoài thành, có huyết từ trong lò ra, lên đến khớp ngựa, dài chừng một ngàn sáu trăm dặm (291 km)”.

Sau khi thu hoạch lúa mì, có vụ thu gom các chùm nho chín mọng nước (đầy tràn tội lỗi) vào thùng ép nho theo sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Nho chín mọng ngụ ý dân thế giới họp quân tại trận Hạt ma ghê đôn, xứ Israel. Họ bị tiêu diệt trong thùng ép trận chiến và máu người chảy tràn đến 291 km chiều dài.

Bảy diễn tiến trên đây bày tỏ đa số tín đồ phải trải qua cơn đại nạn, và chỉ được Chúa cất lên trước khi trận Hạt ma ghê đôn nổ ra mà thôi.

Kết luận:
&.Lu ca 21:33-36, “Vậy, hãy giữ lấy mình, e rằng sự ăn uống quá độ, sự say sưa và sự lo lắng của đời sống nầy làm luỵ cho lòng các ngươi, và ngày ấy đến thình lình trên các ngươi như lưới rập chăng;  vì ngày đó sẽ đến trên mọi người ở khắp mặt đất cũng như vậy.  Vậy, lúc nào các ngươi cũng hãy thức canh và cầu nguyện, hầu cho ngươi đủ sức để thoát khỏi mọi điều phải xảy đến ấy và đứng nổi trước mặt Con người.”

Chúa nói điều kiện để được cất lên là những ai tình thức, đắc thắng cuộc đời xác thịt, sẽ được cất lên trước khi mọi điều đó ( đại nạn) xảy đến. Chắc chắc cả Hội thánh hiện tại không đủ điều kiện, chỉ một thiểu số sẽ được cất lên trước đại nạn là những trái đầu mùa mả thôi.

&. Khải thị 3:10, “Vì ngươi đã giữ lời của sự nhẫn nại Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sắp đến trong khắp thiên hạ, để thử những người ở trên đất. Ta đến mau chóng; hãy giữ vững điều ngươi đã có, hầu chẳng ai đoạt lấy mão miện của ngươi. Kẻ đắc thắng, Ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ Đức Chúa Trời Ta, và người không còn ra khỏi đó nữa; ta cũng sẽ lấy danh Đức Chúa Trời ta, và danh của thành Đức Chúa Trời Ta, là Giê-ru-sa-lem mới ở trên trời, từ Đức Chúa Trời ta mà xuống, cùng danh mới của Ta, mà viết trên người. Ai có tai, hãy nghe điều Thánh Linh phán cùng các Hội thánh.'
Theo văn mạch của Khải thị chương 2 và 3, bảy hội thánh địa phương được sắp xếp thành 4 loại hội thánh, sẽ tồn tại đến ngày Chúa tái lâm, như sau:
1.      Thiatiro: Công giáo.
2.      Sạt đe: Cải chánh, Tin lành.
3.      Philadenphi: Hội thánh khôi phục.
4.      Lao đi xê: Hội thánh tình thương anh em sa bại.
Trong bốn loại hội thánh đều có người đắc thắng. Khải thị 3:10 chỉ dành cho người đắc thắng trong Phi la đen phi. Tất cả những người đắc thắng nầy gộp lại thành người con trai trong Khải thị 12, hoặc trái đầu mùa trong Khải thị 14. Chỉ những ai trưởng thành thuộc linh và đắc thắng sớm hơn người khác mới được cất lên trước đại nạn.

Anh em đừng tưởng câu nầy (Khải thị 3:10) dành cho Hội thánh cách tổng quát và dễ dãi. Chỉ những người đắc thắng trong hội thánh mới được cất lên trước đại nạn. Lời hứa nầy hứa hẹn với “ngươi” là sứ giả của Hội thánh, mà Khải 1:20 nói “bảy ngôi sao là các sứ giả của bảy Hội thánh”. Anh em có sống tỏa sáng Chúa không, anh em có đắc thắng mọi sự tiêu cực mà Chúa đề cập đến trong bảy hội thánh nầy không?  Nếu anh em đắc thắng theo như các lá thư nầy nói, khi ấy anh em sẽ được cất lên “khỏi giờ thử thách, là giờ sắp đến trong khắp thiên hạ, để thử những người ở trên trái đất”. Chĩ những người đắc thắng thôi, còn toàn bộ hội thánh xác thịt, đời sống thuộc linh thất bại sẽ bị bỏ lại trong đại nạn.

Chúa tái lâm-

Chúa tái lâm vinh hiển vẻ vang.
Vinh cho các thánh, đổi trần hoàn.
Nay Sao mai mọc, chiếu người thức,
Lúc Thái Dương lên, sáng thế gian.
Kẻ Trộm ban đêm đột ngột đến,
Nhà Vua  buổi sáng cỡi mây ngàn.
Anh em hỡi, hãy mau tăng trưởng,
Chúa rước ta đi trước khổ nàn.

Minh Khải