Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

CHÚA MẠO HIỂM CHỌN CON SAO?-What the risk of Your choosing me, O Lord?-

“Hay có một thần nào đã nổ lực đi tiếp lấy cho mình một dân-tộc từ trong một dân-tộc khác bởi các thử-thách, bởi các dấu-hiệu và các điều kỳ-diệu và bởi chiến-tranh và bởi một bàn tay mạnh-mẽ và bởi một cánh tay vươn dài và bởi các sự khủng-khiếp lớn-lao, như mọi điều mà GIA-VÊ Đức Chúa TRỜI các ngươi đã làm cho các ngươi trong Ai-cập trước mắt các ngươi chăng? “ (Phục truyền 4:34).

“Has God ever ventured to go and take to Himself a nation in the midst of another nation by trials, by signs and worders….” (Deuteronomy 3:34).
Động từ “nổ lực” theo nguyên văn Hê-bơ rơ là nâsâh, đọc là naw-saw', có nghĩa: to test; by implication to attempt: - adventure, assay, prove, tempt, try.—để thí nghiệm, toan thử - phiêu lưu, mạo hiểm, khảo nghiệm, chứng minh, liều lĩnh, thử.
-
Ôi Chúa, sao mạo hiểm như thế,
Chọn cho Ngài một thế hệ nầy,
Một dân chẳng biết yêu Ngài,
Để làm chứng cớ hôm nay giữa đời.
-
Chúa liều chọn con hồi niên thiếu,
Làm chiếc bình thiên triệu từ trên,
Con ra chi Chúa gọi tên,
Cho làm lính giỏi ưu tiên mãn đời?
-
Sao Chúa chọn cuộc đời gai độc,
Giữa đồng hoang hằn học mọi người,
Lửa thần rực đỏ không nguôi,
Trở thành cái miệng nói lời sấm ngôn.
-
Chúa phiêu lưu chọn con sâu róm,
Hình thù xấu, mùi lợm giọng thay,
Cái bừa răng bén cho Ngài,
Tán đồi, phá núi đường ngay mở rồi.
(Ê-sai 41: 14-16)
-
Cậu thiếu niên tuổi đời quá trẻ ,
Chúa toan thử thay thế miệng Ngài,
Tường đồng, cột sắt lạ thay,
Địch cùng tăng lữ sạn chai giáo đường.
(Giê. 1: 6, 17-19)
-
Trong lòng mẹ tình thương Chúa lựa,
Thành bình đất chứa đựng kho tàng,
Con người nhỏ thó kém sang,
Ra đi rao giảng ngoại bang các miền.
Galati 1:15-16)
-
Ngư phủ thất học quen đánh cá,
Sao Chúa chọn, ôi quá lạ lùng,
Giảng rồi chịu trói sau lưng,
Dẫn đi đến chốn chết cùng Chúa thôi.
( Giăng 21: 18-19)
Hodos 19-9-2020

TRƯỜNG HỌC SỰ CÁM DỖ-,

 Bí quyết của một cuộc sống tin kính nằm trong Chúa Giê-su, Đấng sống trên đất như một Con người, và cũng bị cám dỗ theo mọi cách như chúng ta, nhưng không bao giờ phạm tội dù chỉ một lần trong suy nghĩ, lời nói, việc làm, thái độ, động cơ hay bất kỳ cách nào khác (1 Ti-mô-thê 3:16; Hê-bơ-rơ 4:15).

Cám dỗ không giống như tội lỗi. Gia cơ. 1: 14,15 làm rõ điều đó. Tâm trí của chúng ta phải đồng ý với sự cám dỗ trước khi chúng ta phạm tội. Rõ ràng trong Ma-thi-ơ 4 chép rằng Chúa Giê-su đã bị cám dỗ. Nhưng tâm trí của Ngài không bao giờ đồng ý với bất kỳ sự cám dỗ nào dù chỉ một lần. Vì vậy, Ngài không bao giờ phạm tội. Ngài giữ lòng Ngài trong sạch.

Chúa Giê-su bị cám dỗ về mọi mặt như chúng ta. Nhưng Ngài không phải mãi mãi chiến đấu với những cám dỗ tương tự. Nếu Chúa Giê-xu cũng bị cám dỗ như chúng ta, thì Ngài cũng phải bị cám dỗ như chúng ta trong lãnh vực tình dục. Nhưng Ngài phải hoàn thành lĩnh vực này trong chính những năm niên thiếu của Ngài, qua sự trung tín tuyệt đối của Ngài. Kết quả là, Ngài thậm chí không bị cám dỗ trong lĩnh vực này vào thời điểm Ngài bước vào chức vụ công khai của Ngài. Phụ nữ có thể lau chân Ngài và Ngài thậm chí không bị cám dỗ. Những người không trung thành với chính họ trong cuộc chiến chống lại cám dỗ trong lĩnh vực này không thể hiểu được sự thật này.

Trường học của sự cám dỗ cũng giống như bất kỳ trường học nào khác. Tất cả chúng ta đều phải bắt đầu ở lớp mẫu giáo. Chúa của chúng ta cũng phải bị cám dỗ trước những cám dỗ sơ đẳng nhất. Nhưng Ngài không bao giờ dành nhiều hơn thời gian tối thiểu cần thiết trong mỗi lớp học. Vào năm Ngài 33 tuổi, khi Ngài chết trên thập tự giá, Ngài có thể nói: "Thế là xong". Mọi cám dỗ đều đã được vượt qua. Mọi kỳ kiểm tra trong trường đều đã vượt qua thành công. Chúa  đã được trở nên hoàn hảo. Sự giáo dục của Ngài như một con người đã hoàn tất (Hê 5: 8,9).

Đối với một người không trung tín trong lớp mẫu giáo về sự cám dỗ (ví dụ như sự suy nghĩ bẩn thỉu về tình dục, tức giận, nói dối, v.v.) lại toan thử và hiểu những cám dỗ mà Chúa Giê-su phải đối mặt trong bằng Tiến sĩ. Là lớp học vừa nực cười vừa tự phụ. Nếu bạn trung thành với chính mình, bạn sẽ hiểu (Đó là điều Chúa Giê-su đã nói rõ ràng trong Giăng 7:17). Tuy nhiên, nếu bạn không trung thành trong những lúc bị cám dỗ, bạn sẽ không bao giờ hiểu được, cho dù bạn đã đọc bao nhiêu cuốn sách hay cuốn băng mà bạn nghe. Những bí quyết của Đức Chúa Trời không được nghe qua băng ghi âm hoặc từ sách vở nhưng trực tiếp từ miệng của chính Đức Chúa Trời qua Lời Kinh thánh của Ngài.

Đó không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời mà chúng ta phải chiến đấu với một tội lỗi cụ thể cả đời. Đức Chúa Trời mong muốn “mọi người khổng lồ trong Ca-na-an” đều bị giết. Ở mỗi giai đoạn phát triển của chúng ta - về thể chất và thuộc linh - chúng ta bị cám dỗ theo những cách mới. Một đứa trẻ bốn tuổi bị cám dỗ tức giận, nhưng không có sự ham muốn tình dục. Điều đó đến muộn hơn, trong những năm thiếu niên của anh ấy. Tuy nhiên, đó không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời mà một người nên bị đánh bại trong lĩnh vực tình dục năm này qua năm khác, chỉ đơn thuần thú nhận hy vọng rằng một ngày nào đó anh ta sẽ chiến thắng. Anh ấy có thể đi đến chiến thắng nhanh chóng, nếu anh ấy hết lòng.

Khi Sa-tan cám dỗ Chúa Giê-su vào cuối bốn mươi ngày của sự cám dỗ nghiêm trọng trong đồng vắng, Sa-tan biết rất rõ rằng cố gắng cám dỗ Chúa Giê-su trong lãnh vực tình dục và tiền bạc là vô ích, bởi vì Chúa Giê-su đã chinh phục những lĩnh vực đó một cách triệt để, nhiều năm trước đó . Ba cơn cám dỗ cuối cùng trong đồng vắng là những cơn cám dỗ có trật tự cao đến nỗi chúng ta chỉ có thể hiểu được những ẩn ý tinh vi của chúng khi chính chúng ta trung thành đi theo con đường mà Chúa Giê-su đã bước đi.

Tin tốt lành của phúc âm là bởi vì Chúa Giê-su đã trở thành một con người và bị cám dỗ như chúng ta trong mọi lĩnh vực và đãđắc thắng, chúng ta cũng có thể thắng Ngài đã thắng (Khải huyền 3:21).

Zac Poonen-

 

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2020

Chúa Giê-su đã đánh bại Sa-tan trên Thập tự giá-

Trận chiến vĩ đại nhất từng diễn ra trên trái đất này không được viết lại trong bất kỳ cuốn sách lịch sử nào trên thế giới. Đó là trên đồi Gô gô tha, khi Chúa Giê-xu qua cái chết của Ngài đã đánh bại Sa-tan, bá chủ của thế giới này. Một câu mà bạn không bao giờ được quên trong suốt cuộc đời mình là Hê-bơ-rơ 2: 14,15.  Tôi chắc chắn rằng Sa-tan sẽ không muốn bạn biết câu này. Không ai thích nghe về thất bại hay thất bại của chính mình, và Satan cũng không ngoại lệ. Đây là câu: "Thế thì, vì con-cái có chung trong máu và thịt, giống như vậy chính Ngài  (Chúa Giê-su) cũng tham-dự cùng một thứ, để qua cái chết Ngài đã làm bất lực kẻ có quyền về sự chết, đó là quỷ-vương, và đã giải-phóng những kẻ đã chịu làm nô-lệ trọn đời của họ do sợ chết".

Khi Chúa Giê-su chết, Ngài đã làm cho ma quỷ bất lực. Tại sao? Để chúng ta có thể vĩnh viễn thoát khỏi Sa-tan và sự trói buộc của nỗi sợ hãi mà hắn đã đeo bám chúng ta trong suốt cuộc đời. Có rất nhiều loại sợ hãi mà mọi người trên thế giới mắc phải - sợ bệnh tật, sợ nghèo đói, sợ thất bại, sợ loài người, sợ hãi về tương lai v..v. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi lớn nhất trong số tất cả các nỗi sợ hãi là nỗi sợ chết. Mọi nỗi sợ hãi khác đều thua kém nỗi sợ chết. Nỗi sợ hãi về cái chết dẫn đến nỗi sợ hãi về những gì sẽ xảy ra sau khi chết. Kinh thánh dạy rất rõ ràng rằng những người sống trong tội lỗi cuối cùng sẽ xuống địa ngục - nơi mà Đức Chúa Trời đã dành cho những người không ăn năn. Ma quỷ cũng sẽ ở vĩnh viễn trong hồ lửa, cùng với những kẻ mà nó đã lừa dối và dẫn đến tội lỗi trên trái đất này. Chúa Giê-xu đã đến thế giới để cứu chúng ta khỏi địa ngục vĩnh cửu đó, bằng cách nhận lấy hình phạt thay cho tội lỗi của chúng ta. Ngài cũng tiêu diệt quyền lực của Satan trên chúng ta để hắn không bao giờ làm hại chúng ta nữa.

Tôi muốn tất cả các bạn ghi nhớ một sự thật này trong suốt cuộc đời, ĐỨC CHÚA TRỜI SẼ LUÔN Ở BÊN CÁC BẠN CHỐNG LẠI SATAN. Đó là sự thật vinh quang đã mang lại rất nhiều sự khích lệ, an ủi và chiến thắng cho tôi, đến nỗi tôi ước mình có thể đi khắp nơi và nói với mọi tín đồ trên thế giới về điều đó. Kinh thánh nói "Hãy phục tùng Đức Chúa Trời. Hãy chống lại ma quỷ và nó sẽ chạy trốn khỏi bạn" (Gia-cơ 4: 7). Danh của Chúa Giê-su là Danh mà Sa-tan sẽ luôn luôn chạy trốn. Hình ảnh mà hầu hết các Cơ đốc nhân có trong tâm trí của họ là một hình ảnh trong những lần Sa-tan đang đuổi theo họ và họ đang chạy trốn khỏi hắn. Nhưng điều đó hoàn toàn ngược lại với những gì Kinh thánh dạy. Bạn nghĩ sao? Sa-tan có sợ Chúa Giê-su hay không? Tất cả chúng ta đều biết rằng Sa-tan đã sợ hãi khi đứng trước Đấng Cứu Rỗi của chúng ta. Chúa Giê-xu là Ánh sáng của thế giới, và bá chủ của bóng tối đã phải biến mất trước mặt  Ngài.

Chúa Giê-xu nói với các môn đồ của Ngài về việc Ngài đã thấy sự ngã té của Sa-tan trên trời. Và ở đó, Chúa Giê-su nói, rằng sự ngã đổ của Sa-tan “nhanh như chớp” (Lu-ca 10: 18), khi Đức Chúa Trời ném hắn ra. Khi Chúa Giê-su nói với Sa-tan trong đồng vắng, “Hỡi Sa-tan, hãy biến đi”, hắn cũng biến mất khỏi sự hiện diện của Chúa Giê-su với tốc độ như tia chớp. Và khi chúng ta chống lại Sa-tan trong Danh Chúa Giê-xu ngày nay, hắn cũng sẽ chạy trốn trước mặt chúng ta với tốc độ ánh sáng. Bóng tối chạy trốn trước ánh sáng. Sa-tan sợ Danh của Chúa Giê-xu. Anh ta sợ bị nhắc nhở về sự thật rằng Chúa Giê-su là Chúa. Những người bị quỷ ám sẽ không xưng nhận rằng Giê-su Christ là Chúa, họ cũng không thú nhận rằng Sa-tan đã bị đánh bại trên thập tự giá. Có quyền năng trong danh Giê Su Christ để đuổi bất kỳ con quỷ nào và khiến bất kỳ con quỷ nào cũng phải chạy trốn khỏi bạn - với tốc độ như tia chớp. Đừng bao giờ quên điều đó.

Bất cứ lúc nào trong cuộc sống của bạn, nếu bạn gặp khó khăn, hoặc đối mặt với một số vấn đề không thể vượt qua, khi bạn đang đối mặt với một điều gì đó mà dường như không có câu trả lời của con người, hãy kêu cầu Danh Chúa Jêsus. Hãy thưa với Ngài rằng: "Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đứng về phía con để chống lại ma quỷ. Xin giúp con ngay bây giờ". Và sau đó quay sang Satan và nói với nó, "Nhân danh Chúa Giêsu, ta chống lại ngươi, Satan". Tôi muốn nói với bạn rằng Sa-tan sẽ chạy trốn khỏi bạn ngay lập tức, bởi vì Chúa Giê-su đã đánh bại hắn trên thập tự giá rồi. Sa-tan bất lực chống lại bạn, khi bạn bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa Trời và chống lại hắn trong Danh Chúa Giê-Su.

Rõ ràng Satan không muốn bạn biết về thất bại của hắn và đó là lý do tại sao hắn đã ngăn cản bạn nghe về điều đó trong suốt thời gian dài. Đó là lý do tại sao hắn cũng ngăn không cho hầu hết những giảng sư rao giảng về sự thất bại của hắn. Tôi muốn tất cả các bạn biết điều này rõ ràng rằng Sa-tan đã bị đánh bại một lần và mãi mãi bởi Chúa Giê-su Christ trên thập tự giá. Bạn không bao giờ phải sợ Satan nữa. Hắn không thể làm phiền bạn. Hắn không thể làm hại bạn. Hắn có thể cám dỗ bạn. Hắn có thể tấn công bạn. Nhưng ân điển của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ sẽ luôn làm cho bạn chiến thắng hắn, nếu bạn hạ mình, phục tùng Đức Chúa Trời và bước đi trong ánh sáng của Ngài mọi lúc.

Zac Poonen-

Những suy nghĩ của bạn về trải nghiệm cận tử và lời chứng--

Mẹ tôi đã có một trải nghiệm như vậy khi bà suýt chết vì bệnh bại liệt năm 18 tuổi. Bà đã bất tỉnh, trong bệnh viện, đội ngũ y tế đang hoảng loạn vì bà đã tắt thở. Baà thấy mình từ trên cao nhìn xuống thân thể mình, khi bà lơ lửng dưới trần nhà. Bà có thể nhìn thấy rõ và nghe thấy những người y tế đang thảo luận về tình trạng của mình, cố gắng làm bà hồi sinh. Bà ghi nhận chính xác tất cả những từ ngữ được họ nói, kể cả nhiệt độ rất cao của mình.

Kinh nghiệm của bà chỉ đi xa đến đó, không có đường hầm hay đèn sáng. Ngoài ra, bà đã từng chỉ nói về điều đó một hoặc hai lần. Đó vẫn là một vấn đề rất cá nhân mà bà  chủ yếu giữ cho riêng mình. Bà nói rằng bà cảm thấy rất bình tĩnh vào thời điểm đó, không hề sợ hãi. Tôi không nghĩ là đức tin của bà đặt vào Chúa không sâu lắm.

Tôi đã nghe những câu chuyện về những người dường như 'nhảy ra khỏi cơ thể của họ' trong một chấn thương nghiêm trọng như tai nạn xe hơi chẳng hạn. Chỉ trong giây lát, với trải nghiệm sống như một ký ức kỳ lạ gắn liền với sự việc, mà không có bất kỳ lời giải thích rõ ràng nào. Đó có thể là một bí ẩn liên quan khác!

Đây là một chủ đề sẽ còn được tranh luận, nhưng tôi tự hỏi La-xa-rơ và những người khác mà Chúa Giê-su đã làm cho sống lại từ cõi chết có thể đã phải nói gì về kinh nghiệm của chính họ. Nó không được ghi lại trong kinh thánh, nhưng có thể đã được thảo luận vào thời điểm đó.

 Curious-

Thứ Tư, 16 tháng 9, 2020

PHÂN CHIA ĐÚNG ĐẮN LỜI LẼ THẬT-

Một hội chứng ngộ nhận lầm lẫn, nếu không muốn nói là chứng đau mắt thuộc linh loạn thị khi tôi thấy rất nhiều người phát biểu hồ đồ và sai lầm về ba từ ngữ “Israel”, “Hê-bơ-rơ” (Hi bá-lai) và “Do Thái”. Hễ nghe rằng Albert Eisntein là người Đức gốc Israel thì liền quy rằng ông là người Do thái, mới sơ bộ nghe rằng Vladimir Vladimirovich Putin, nước Nga, là người Israel, thì cũng kết luận ông là người Do thái. Khi được biết Donald Triump là người gốc Israel, cũng liền nói ông là người Do thái. Người ta thích chữ “Do thái” hơn chữ “Israel”.

Israel và Do thái khác hẳn nhau, bạn có biết không? “Hê-bơ-rơ” là chỉ danh của chủng tộc người Hi- bá- lai, nghĩa đen là “dân vượt qua sông Euphrates”,  của Israel, Tiếng Hê-bơ rơ là ngôn ngữ chính thức cổ truyền của Israel. Chúng ta không nên nói nước Hê bơ rơ. Theo các sách hậu lưu đày như E-xơ-ra, Nê hê mi, dân Israel hồi hương thường được gọi là dân Giu đa. Người Pháp phiên âm tiếng “Giu đa” là Juif, người Anh dịch âm là Jew, dân Trung Hoa  phiên âm là Do thái. Trong Lu ca 13:6-9, Chúa có nói cây vả (Giu đa) trong vườn nho (Israel), chứng tỏ Chúa có phân biệt  giữa Do Thái và Israel. Dân Do thái chỉ là một bộ phận nhỏ, dù đông và mạnh, trong quốc gia Israel. Mọi người Do thái đều là dân Israel, nhưng mọi người dân Israel không thể là người Do thái. Có đất Israel, có quốc gía Israel, chứ không có nước Do thái, hay là ngôn ngữ Do thái, quốc kì Do thái, mà có ngôn ngữ Hê-bơ-rơ. Các bạn phải xác định rõ rang ranh giới ý nghĩa khi phát biểu những chữ “Hê bơ rơ, Do thái, và Israel”, nếu không bạn biểu hiện mình là con người đang mang chứng đau mắt loạn thị mãn tính rồi.

Tôi cũng thấy nhiều mục tử, nhiều giáo sư kinh thánh bóp mép lời kinh thánh, hoặc xâm phạm những giới hạn trong khi luận giải lời Chúa, áp dụng những câu kinh thánh chỉ dành cho hội thánh Tân ước cho dân Israel, hoặc ngược lại, khiến tạo ra nhiều loại giáo lí lầm lạc, nếu không nói là giáo lí của tà giáo.

2 Ti-mô-thê 2:15, “Ngươi hãy cần cù trình diện mình chấp-nhận được đối với Đức Chúa TRỜI như là một công nhân, là kẻ không cần bị xấu-hổ, luận-giải chính-xác lời của lẽ thật” (TKTC).

 Câu “luận-giải chính-xác lời của lẽ thật” được bản Công Giáo dịch là “trung thực phân phát lời sự thật”, bản Darby dịch “cắt lời của lẽ thật theo đường thẳng”, bản Jubilee dịch” phân chia đúng đắn lời lẽ thật”. Nguyên văn Hi lạp viết, “keeping on the straight course the logos of the truth”. Ý nghĩa của nguyên ngữ Hi lạp minh họa hình ảnh người thợ mộc, phải cưa miếng ván, phải xẻ gỗ sao cho ngay với đường thẳng đã vạch trước mới đạt.

 Tôi muốn trình bày cách phân chia Lời Đức Chúa Trời cách ngay thẳng, đúng đắn theo giới hạn mà Đức Thánh Linh, Tác giả Kinh thánh, đã ấn định, đã phân chia cho mỗi lãnh vực khác nhau trong Kinh thánh.

Sứ đồ Phao-lô nhận được ánh sáng và sự khải thị lớn, ông phân chia ranh hạn ba hạng loại sự khải thị bao hàm trong Kinh thánh như sau:

 1 Cor 10:32, “Đừng xúc phạm người Do Thái hay người Hi Lạp hay Hội Thánh Đức Chúa Trời”.

Phao lô nhìn thấy mọi phát biểu, mọi lời dạy dỗ của Chúa được sắp xếp thành ba đường hướng, như ba hệ thống, (mà tôi không thích dùng chữ “hệ thống”) và được ghi lại trong toàn bộ Kinh thánh. – Các lẽ thật về dân Israel, các lẽ thật về các dân tộc, mà dân Hi lạp ở đây là đại diện, và các sự dạy dỗ về Hội thánh Tân ước, có bao hàm dân Israel trong đó.

Vào thế kỉ 4 S.C, giáo phụ Augustine tuyên bố lầm lạc rằng mọi lời, mọi lịch sử của Israel trong Cựu ước đều là sự minh họa của hội thánh Tân ước. Chúng ta có thể áp dụng những nguyên tắc sống của Israel Cựu ước cho hội thánh Tân ước theo cách thuộc linh, nhưng Israel Cựu ước tuyệt đối không phải là Hội thánh Tân ước. Sau khi Đức Chúa Trời loại bỏ dân Israel, như Mathio 23:37-39, và Rô ma 11: đã tuyên bố, Ngài cảm thúc cho các sứ đồ viết ra 27 sách Tân ước. Tôi quả quyết cùng anh em rằng bộ kinh Tân ước là phát ngôn của Chúa nói trực tiếp, nói thẳng thừng với dân các hội thánh Tân ước, mà trong các hội thánh ấy có dân Israel nhóm họp, nhưng khá nhớ kĩ rằng kinh Tân ước không chép ra và gởi cho nước Israel, không phán với dân Israel, đã bị loại bỏ. Chúa chỉ nói về dân Israel với hội thánh.

Tôi lược giải một số điểm tiêu biểu như sau:

1--Hai nhóm người 144.000:

Khải huyền 7 nói về 144.000 người Israel sẽ được Chúa cho đóng ấn, chắc là trước khi con thú lên ngôi. Họ là số người theo nghĩa đen, còn sống sót sau khi toàn bộ dân Israel trên mặt đất nầy bị tiêu diệt. Họ sẽ lập ra một tân quốc gia Israel vào đầu vương quốc Đấng Christ. Ê-sai 66: 7-8 chép, “Trước khi đau chuyển bụng Nàng đã sinh, Trước khi cơn đau kéo đến, Nàng đã sinh một đứa con trai. Ai đã nghe một việc như thế? Ai đã thấy những điều thế này, Có thể một đất nước nào được chuyển bụng sinh ra trong một ngày, Hay một nước nào được sinh ra trong một lúc không, Thế mà Si-ôn vừa chuyển bụng Đã sinh ra đàn con”.

 Còn Khải huyền 14:1-6 nói về đoàn người tín đồ Tân ước trưởng thành, được cất lên trời trước khi con thú đăng quang. Họ là trái đầu mùa. Con số 144.000 ở Khải. 7 là theo nghĩa đen, còn con số 144.000 ở Khải. 14 có ý nghĩa tượng trưng.

2--Hai Babylon:

Alexander Hislop có viết một tác phẩm nhan đề hai Babylon. Rất nhiều con dân Chúa còn lẫn lộn hai Babylon nầy.

Được sống trong thời cực thịnh của đế quốc Babylon, thời Nê bu cát nết sa, tiên tri Giê-rê- mi được Chúa khải thị cho thấy hai phương diện của Babylon, là hai Babylon như sau:“Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay CHÚA, Làm cho thế giới say mèm, Các dân tộc uống rượu của Ba-by-lôn, Vì thế chúng phát điên”.(51:7)- "Ngươi là cây búa, Là vũ khí chiến trận của Ta, Ta dùng ngươi đập tan các nước, Tiêu diệt các vương quốc” (51:20).

Khoảng 6 thế kỉ sau, sứ đồ Giăng đem hai ý tưởng nầy vào sách Khải huyền, vì Chúa cho ông thấy Babylon tôn giáo là ả kĩ nữ cỡi con thú (Khải 17), và Babylon chính trị, kinh tế là một nữ vương ngồi trên ngai cao sang (Khải 18). Babylon thứ nhất sẽ bị triệt tiêu về hình thức vào cuối 3,5 năm đầu, còn Babylon thứ nhì sẽ bị đốt cháy, rồi bị sụp đất, chìm xuống biển Địa trung hải. Việc nầy xảy ra trước hoặc sau trận chiến Hạt-ma-ghê- đôn, không ai biết được.

3--Các phiên tòa án của Chúa:

Tuần lễ trước đây có một mục tử gởi cho tôi những lời nầy về phiên toà xét xử chiên và dê trong Ma-thi-ơ 25:31-46. “Chiên là tất cả nhân loại sau khi Chúa Jesus tái lâm, họ đã sống tốt tiêu chuẩn lương tâm, nhưng chưa bao giờ nghe về Chúa Jesus. Dê là ngược lại, là người gian ác”.

Xin lỗi bạn tôi là người mục tử nầy, tôi nói rằng có nhiều thợ mộc xẻ gỗ đã không cut the straight on the line of the truth in the bible. Họ cầm cái cưa để xẻ gỗ, và phân giải Lời Chúa không theo đường thẳng.

 Có các phiên tòa án được Kinh thánh nói trước như sau:

-- Công vụ 10: 42b; 2 Ti. 4:1-- Phiên tòa xử án kẻ sống là phiên tòa mở ra theo ghi chép của Ma thi ơ 25:31-46. Các bị cáo là “các vua trên thế giới, các lãnh tụ, các tướng lĩnh, những người giàu có và quyền thế, tất cả nô lệ và người tự do đều ẩn trốn vào các hang hầm và các khe đá trên núi” (Khải 6:15). Họ là thiểu số trong nhân lọai hiện tại còn sống sót sau chiến tranh hạt nhân trong trận Hạt- ma- ghê- đôn. Họ được xét xử theo phúc âm đời đời giảng ra trong đại nạn (Khải 14:6-7). Các con chiên sẽ trở thành công dân của nước ngàn năm, bầy dê sẽ theo chân hai quan thầy, là con thú và tiên tri giả, mà vào hồ lửa khi họ còn sống.

Phiên toà xét xử “kẻ chết” cách xa phiên tòa xử án chiên dê 1000 năm sau. Khải huyền 20:11-15 miêu tả lại cảnh tượng phiên tòa chung thẩm đại hình đó mà chính mắt sứ đồ Giăng đã thấy xảy ra rồi trước đây chừng 1930 năm. Bị cáo là toàn thể nhân loại vô tín đang bị giam cầm trong âm phủ (hades) dưới lòng trái đất. Họ là quần chúng kể từ thời cụ A-đam cho đến ngày cuối cùng của cơn đại nạn.

Vị Thẩm Phán không phán quyết định mệnh chung thân đời đời của họ theo bản tánh tội lỗi bẩm sinh trong họ, hay những hành vi tội lỗi mà họ đã làm khi còn sống. Họ bị phán quyết ném vào hồ lửa chỉ vì một lí do duy nhất,“không được ghi tên trong sách sự sống”, có nghĩa là đã không tin Chúa Giê-su. Sau khi Chúa xét qua hành vi gian ác của họ để họ nhìn nhận mình  là tội nhân, nhưng xem xét không thấy tên của họ ghi trong sách sự sống, nên họ bị ném vào hồ lửa.

 Rô ma 2: 12-16 còn nói đến một phiên toà mở ra xét xử thế nhân không hề nghe phúc âm qua dân Israel trong thời Cựu ước, xét xử theo lương tâm của họ và phiên tòa nầy mở ra ngày nào tôi chưa dám quả quyết. Phải chăng chung một ngày với phiên tòa đại hình của vũ trụ trên đây, vì Kinh thánh chép,“vào ngày mà Đức Chúa Trời, bởi Chúa Cứu Thế Giê-su phán xét những điều kín giấu của loài người y theo Phúc Âm của tôi”?.

4. Các Dân tộc:

Kinh thánh thường dịch từ ngữ “các dân tộc” là “các dân ngoại”, là không chính xác. Trong Kinh thánh, Chúa có phán, có giảng giải rất nhiều về các dân tộc. Thí dụ Sáng thế kí 10:, Ê- sai 13:- 23; Giê rê mi 46:-51:, Ê-xê-chi-ên 25:-32:. Chúng ta không được thuộc linh hóa hay tượng trưng hóa các chương đó và áp dụng cho Israel hay cho Hội thánh Tân ước.

 Có một điểm mà dân Chúa không phân giải Kinh thánh cách chính xác là họ lẫn lộn trận giặc của Gót và Ma-gót trong Ê-xê-chi-ên 38-39  với trận Gót, Ma gót ở Khải huyền 20. Hai trận giặc nầy cách xa nhau khoảng 1000 năm, xảy ra trước và sau vương quốc 1000 năm của Đấng Christ. Nạn nhân trong trận giặc thứ nhất là dân Israel phục quốc sau năm 1948, còn nạn nhân của trận giặc thứ hai là đoàn thể thánh đồ, nói cách cụ thể là các thành viên trong triều đình của Chúa Giê-su, đã được bổ nhiệm cai trị vương quốc 1000 năm trên trái đất cũ. Khải 2:26-27.

--Khải 21:7 và 21;24 chép, “Người đắc thắng sẽ được thừa kế những điều này và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của người, còn người sẽ làm con Ta.-- Các dân tộc sẽ qua lại dưới ánh sáng nó (thành thánh); các vua trên thế giới sẽ mang vinh quang mình vào đó”.

Trước khi Chúa Giê su tái lâm, mọi Cơ Đốc nhân được gọi là con cái của Đức Chúa Trời và cũng là dân thánh của Ngài (1Giăng 3:1,1 Phi-e-rơ 2:10). Nhưng hai câu Kinh thánh trong Khải huyền 21 nói rằng sau khi Chúa Giê su tái lâm, Cơ Đốc nhân có thân thể phục sinh hơi giống thân thể vinh hiển của Chúa, thì họ được gọi là “con”, cư ngụ trên thiên đàng, như là tư gia đời đời, còn những người được kể là “chiên” trong Mathio 25:31-46 trở thành công dân vương quốc ngàn năm đó. Sau 1000 năm, sa tan được thả ra để trắc nghiệm số dân “chiên” đó, mà đã được sinh sản quá mức đông đảo trên mặt đất (Ê-sai 65:19-25; 11:). Những ai không theo sa tan phản loạn với Chúa, sẽ được chuyển qua trái đất mới, và cư trú ở đó đời đời. Nên Khải. 21:24 nói họ làm dân của Đức Chúa Trời đến đời đời. Cho nên mục tử nào giảng dạy các câu Khải 21: 3-4, 24-26, Ê-sai 11:6-12, 65: 18-25--- thí dụ như câu “Họ sẽ làm dân của Ngài, và chính Ngài sẽ ở với họ và Ngài sẽ là Đức Chúa Trời của họ. Ngài sẽ lau sạch tất cả nước mắt nơi mắt họ, sẽ không còn chết chóc, tang chế hoặc khóc than hay đau khổ nữa, vì những việc trước đã qua rồi”--- rồi áp dụng cho các Cơ đốc nhân, thì họ đã vi phạm nguyên tắc keeping on the straight course the logos of the truth—xâm phạm  các ranh giới của các lẽ thật riêng biệt rồi.

--5. Các Nơi Đến Của Tín Đồ-

Những tín đồ của Tân ước đi đâu sau khi chết? Sau khi toàn bộ hội chúng Đức Giê hô va trong Cựu ước, và quần chúng Tân ước sống lại, cộng với toàn bộ hội thánh Tân ước còn sống, được biến hóa, tất cả đều được cất lên hội ngộ với Chúa trên khoảng không trong một cuộc hội ngộ vũ trụ vĩ đại rồi, thì họ sẽ đi đâu (2 Tê. 2:1)? Tất cả sẽ ào ạt vào thiên đàng như giáo lí truyền thống dạy dỗ hay không?

Tôi đã thấy từ nhiều năm, các ông thợ mộc xẻ gỗ lệch đường thẳng, đã ru ngủ đa số thánh đồ, đã cho tín đồ uống thuốc an thần, ngậm thuốc bọc đường. Họ giảng “sau khi Chúa tái lâm, tất cả chúng ta sẽ vào thiên đàng làm vua, sống hạnh phúc đời đời, tối ngày chỉ vui ca hát…”.

 Tất cả con dân Chúa sẽ được vào thiên đàng ngay sau khi Chúa tái lâm không? Bạn đừng vội lên án tôi là giáo sư giả mà chưa đọc kĩ lời kinh thánh. Vì tôi đã nghiên cứu rất kỉ các khúc Kinh văn như 2 Cor 5:10, Mathio 24:45-51; Lu ca 13: 25-29…. Tôi chỉ thấy có hai nơi đến cho quần chúng thánh đồ Cựu và Tân ước là:  1/ vương quốc ngàn năm của Đấng Christ trên trái đất cũ nầy; 2/ Nơi kỉ luật khóc lóc nghiến răng, là chỗ tối tăm, ở bên ngoài vương quốc đó.

Những người được vào vương quốc ngàn năm thì có tư gia trên thiên đàng—vì “người công chính sẽ chiếu sáng như mặt trời trong nước của Cha họ”(Math 13:43). Nước đó ở đâu? Phao lô giải nghĩa, “Chúa sẽ …đem ta về an toàn trong Nước trên trời của Ngài”. Thật rõ ràng những tín đồ đắc thắng, thánh đồ trưởng thành sớm của cả Cựu và Tân ước được sống trên thiên đàng, và xuống trái đất cai trị các dân tộc “chiên” trong 1000 năm – Khải 2:26-27.

 Điểm bí của vấn đề là số lượng quần chúng được cứu của cả hai thời đại Cựu và Tân ước thì khổng lồ, có thể hàng tỉ người chăng?, Thì có bao nhiêu phần trăm tổng số được vào thiên đàng thường trú và xuống trái đất cai trị, còn bao nhiêu phần trăm tổng số quần chúng đó đã rớt kì thi vương quốc và bị xua đuổi vào chỗ tối tăm để chịu kỉ luật? Không ai có thể chối cãi sự thật phủ phàng như vậy, nhưng cũng không thể biết số phận của chính mình là phải vào nơi khóc lóc nghiến rang  hay vào vương quốc? Và khi vào chỗ kỉ luật rồi, thì phải chịu đựng đau khổ ở đó đến bao giờ? Cuối cùng số người đó sẽ được lên thiên đàng chừng nào đây? Tất cả những vấn nạn hóc búa nầy, không ai biết được, trừ ra Chúa Giê-su là Vị Thẩm Phán vô tư, công nghĩa, không vị nễ một ai.

 Sau khi Chúa tái lâm, bạn sẽ được Chúa chấm đậu để vào vương quốc ngàn năm, hay bạn bị đánh rớt và phải chịu đi vào chỗ kỉ luật mà lòng vẫn còn ấm ức Chúa khôn nguôi?

Gút lại, chúng ta đừng mở tưởng toàn bộ dân Chúa từ các thời đại sẽ ào ạt vào thiên đàng ngay sau khi Chúa tái lâm, chúng ta còn phải qua cửa ải gay go, là phải được tòa án Đấng Christ phê duyệt cho vào vương quốc mới đạt. Nếu không được Chúa phê chuẩn, chúng ta phải áo não, vì phải đi vào nơi kỉ luật vậy.

-6- Hội Chúng Israel Và Hội Thánh Tân Ước-

Trong Cựu Ước thánh dân được gọi là hội chúng của Đức Jehovah, dân trong Tân ước thì được gọi là Hội thánh của Đấng Christ. Hai tổng thể nầy khác nhau một số điểm như sau:

--Đền thờ:-- thời Cựu ước đền thờ vật chất là một thực thể tách rời với thánh dân. Thời Tân ước, không cần đền thờ vật chất, chỉ cần hội trường, hay phòng nhóm. Vì các thánh dân chính là đền thờ, nơi nào thánh dân họp lại, trên núi, bờ biển, thành phố, đó là đền thờ. Ngày nay, nhiều người chưa thấy điều đó ,nên mới có lễ cung hiến thánh đường, biến các phòng nhóm ngày nay thành bản sao của đền thờ thánh ở Jerusalem xưa kia.

--Giai cấp tư tế trung gian:--Hồi ban đầu (Xuất 19) Chúa muốn Israel là một nước thầy tế lễ, có nghĩa mỗi công dân đều có quyền trực tiếp tiếp cận Chúa. Sau biến cố bò con vàng, Chúa cho phép lập giai cấp tư tế trung gian. Đáng lẽ Hội thánh Tân ước cũng sống theo chế độ nước thầy tế lễ như vậy (1 Phiero 2:9), nhưng sau khi hội thánh trở thành quốc giáo năm 313 S.C, một hệ thống cấp bậc của đoàn tăng lữ đã xuất hiện… và càng ngày càng trở nên bình thường trong niềm tin và sự theo đuổi của mọi loại hệ phái. Người ta rao giảng bệnh vực địa vị độc tôn của các kẻ tạm được gọi  là kẻ “chịu xức dầu” của Chúa. Thật tối tăm thay trong ách nộ lệ vào đảng Nicola!

-- Bằng chứng sự chúc phước, sự  chấp thuận của Chúa là thánh dân trong Cựu ước phải thịnh vượng vật chất, kẻ nghèo là đang bị rủa sả.  Ngày nay người ta cũng tối tăm rao giảng phúc âm thịnh vượng cho hội thánh Tân ước và kết luận rằng tín đồ Tân ước nào nghèo khổ là đang bị rủa sả. Họ không thấy những câu Kinh thánh dạy rằng tiền bạc thuộc về thế giới, Cơ đốc nhân chỉ là quản gia của Chúa, và  dân Tân ước có khi được Chúa cho giàu có, cũng lắm khi họ sống cuộc đời khó khăn như Phao lô, chẳng hạng.

-7-Cựu Uớc Và Tân Ước-

Đa số tín đồ lẫn lộn Cựu ước và Tân ước. Họ xâm phạm những ranh hạn thẳng tắp mà Chúa phân chia cho hai giao ước nầy trong khi giải nghĩa Kinh thánh, nên phát sinh những giáo lí hầu như tà đạo là: chứng nhân Đức Jehovah, Đạo Sa- bát, Độc nhất thần luận, Tam Thần thuyết, giáo lí Hậu Thiên hi niên….

Tôi chỉ tóm tắt rằng mọi luật lệ trong Cựu ước về lễ nghi như tuân thủ ngày sa bát, lễ cắt bì, dâng của lễ bằng súc vật, quy chế về chế độ ăn uống, về sự thờ phượng theo lễ nghi, tất cả đều đã được bãi bỏ rồi. Mọi luật lệ về dân sự, mọi điều răn về lãnh vực luân lí đều phải duy trì và được Chúa Giê su và các sứ đồ nâng cấp đến tuyệt đối trong tiêu chuẩn. Thí dụ Xuất hành 20: 17 chép điều răn thứ 10: “Không được tham muốn… “. Tham muốn tức là tham lam, là ham muốn vô độ. TRong Cựu Ước, điều răn nầy chủ ý nói về sự tham muốn những điều vật chất. Trong Cô-lô-se 3:5, Chúa cho Phao lô gia cấp điều răn nầy như sau: “tham lam là thờ thần tượng” (Col. 3:5). Người tham muốn, tham lam, là người đang thờ thần tượng, là vật chất.

 Ngày nay chúng ta không nên tuân hành các luật lệ về lễ nghi, nhưng có thể áp dụng các nguyên tắc trong các lễ nghi đó. Thí dụ Phao lô ứng dụng sự cắt bì của dân Israel xưa là: “Vì chúng ta mới thật là những người được cắt bì, những người nhờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà thờ phượng, hãnh diện trong Chúa Cứu Thế Giê-su chứ không nhờ cậy vào thân xác phàm tục “ (Philip 3:3 NVB).

Kết Luận:

Cầu xin Chúa cho anh em chúng ta trở thành những công nhân không xấu hổ với Chúa mỗi ngày, những thợ mộc lành nghề xẻ gỗ ngay ngắn, những con người phân giải Lời kinh thánh cách thẳng thớm theo đúng ranh hạn mà Chúa đã quy định trong Kinh thánh về ba dòng lẽ thật như Israel, Hội Thánh, và các dân tộc. A-men.

 Minh Khải-  16-9-2020

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2020

Đức Chúa Trời quý trọng sự phá vỡ-

Có một bài học lớn mà chúng ta thấy trong lịch sử Hội thánh. Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời muốn làm điều gì đó cho dân Ngài, Ngài luôn bắt đầu với một người đàn ông. Ngài phải tìm một con người thích hợp trước khi Ngài có thể giải cứu dân Israel. Việc đào tạo người đàn ông đó mất 80 năm -- và đó không phải là đào tạo học thuật đơn thuần. Môi-se được đào tạo trong các học viện tốt nhất của Ai Cập, nhưng điều đó không giúp ông đủ điều kiện cho công việc của Đức Chúa Trời. Trong Công vụ 7:22, Ê-tiên nói rằng Môi-se rất “có năng lực trong cả lời nói và việc làm”. Ông là một người đàn ông mạnh mẽ và là một nhà diễn thuyết hùng hồn ở tuổi 40. Ông là một nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại, một người rất giàu có và được giáo dục với nền giáo dục tốt nhất mà đất nước tiên tiến nhất trên thế giới có thể cung cấp - vì Ai Cập là siêu cường duy nhất trên thế giới trong những ngày đó. Cuối cùng, anh ta không thích hợp để phụng sự Đức Chúa Trời. Ê-tiên nói rằng Môi-se nghĩ rằng dân Israel sẽ nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã dấy ông ông lên để giải cứu họ. Nhưng họ không công nhận ông là thủ lĩnh của họ. Tất cả danh vọng và khả năng trần thế của ông không thể chuẩn bị ông cho nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho ông.
Ngày nay, nhiều Cơ đốc nhân tưởng tượng rằng họ có thể phụng sự Đức Chúa Trời chỉ vì họ có kiến ​​thức Kinh thánh, khả năng âm nhạc và nhiều tiền. Nhưng họ đã nhầm. Họ cần phải học một bài học từ cuộc đời của Môi-se: 40 năm tốt nhất mà thế giới này có thể ban cho ông không thể chuẩn bị cho ông phụng sự Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời phải đưa Môi-se qua 40 năm nữa trong đồng vắng, trong một môi trường hoàn toàn khác với cung điện, để trang bị cho ông. Anh ta đã bị phá vỡ sức mạnh con người phàm nhân của mình. Và Đức Chúa Trời đã hoàn thành điều này bằng cách bắt anh ta chăm sóc đàn cừu và cho phép anh ta sống với bố vợ và làm việc cho ông ấy - trong 40 năm dài. Sống chung với bố vợ dù chỉ một năm có thể khá nhục nhã đối với một người đàn ông! Tôi biết rằng nhiều phụ nữ đã kết hôn ở Ấn Độ sống với nhà bố chồng cả đời. Nhưng sẽ khác biệt khi một người đàn ông phải sống với cha vợ mình và làm việc cho ông ấy. Đó có thể là một kinh nghiệm khá nhục nhã đối với một người đàn ông. Nhưng đó là cách Đức Chúa Trời phá vỡ Môi-se.
Đó cũng là cách Đức Chúa Trời phá vỡ Gia-cốp. Anh cũng phải sống với bố vợ trong 20 năm. Đức Chúa Trời sử dụng những người cha vợ và mẹ vợ để phá vỡ con cái của Ngài. Điều mà tất cả các trường đại học ở Ai Cập không thể dạy cho Môi-se, ông đã học được trong đồng vắng, chăm sóc đàn cừu và làm việc cho cha vợ. Vào cuối 40 năm đó, Môi-se suy sụp, đổ vỡ đến mức một con người đã từng có khẩu tài hùng hồn và từng nghĩ rằng mình có thể giải cứu được dân Y-sơ-ra-ên, giờ lại nói: “Chúa ơi, con không thích hợp. Con không thể nói năng đúng đắn. Hãy sai người khác dẫn dắt dân của Ngài”. Đó là lúc Chúa nói, “Cuối cùng thì con đã sẵn sàng rồi. Ta sẽ phái con đến gặp Pha-ra-ôn ngay bây giờ ”(Xuất hành 4: 10–17).
Chúng ta học được bài học nào từ Gia-cốp và Môi-se? Chỉ điều này: Khi bạn nghĩ rằng bạn đã sẵn sàng, thì bạn vẫn chưa. Khi bạn nghĩ rằng bạn có khả năng, rằng bạn mạnh mẽ, rằng bạn có kiến ​​thức, rằng bạn có thể giảng và hát hay, chơi nhạc cụ và làm những điều tuyệt vời cho Chúa, thì Chúa nói, “con không phù hợp. Ta phải đợi cho đến khi con bị phá vỡ”. Với Gia-cốp, quá trình đó mất 20 năm, với Môi-se là 40 năm, với Phi-e-rơ là 3 năm, và với Phao-lô ít nhất là 3 năm. Điều đó sẽ mất bao lâu với chúng ta? Điều đó phụ thuộc vào tốc độ chúng ta học cách phục tùng dưới bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời. Điều này có một thông điệp và một cảnh báo cho chúng ta. Chúa có thể có một kế hoạch cho cuộc đời bạn. Nhưng nó sẽ không bao giờ được hoàn thành cho đến khi bạn bị phá vỡ. Những gì Ngài đã định làm ở bạn trong 10 năm có thể mất 40 năm. Vì vậy, thật tốt nếu chúng ta luôn nhanh chóng hạ mình xuống dưới bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời-- điều này ám chỉ những hoàn cảnh mà Ngài gửi đến trên con đường của chúng ta.
Ca thương 3:27 nói, "Thật là tốt cho một người con mang ách (hạ mình và bị phá vỡ) khi còn trẻ." Hãy để Chúa phá vỡ bạn khi bạn còn trẻ. Đừng chiến đấu chống lại những trường hợp Chúa cho phép trong cuộc sống của bạn, vì điều đó sẽ chỉ làm trì hoãn kế hoạch của Chúa. Tất cả kiến ​​thức Kinh Thánh, khả năng âm nhạc và tiền bạc không thể trang bị cho bạn phụng sự Đức Chúa Trời. Sự đập vỡ là điều cần thiết. Nếu bạn muốn xây dựng Giê-ru-sa-lem, một hội thánh thật, bạn phải bị phá bỏ. Bạn phải hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời qua các hoàn cảnh và loài người. Nếu bạn không nổi loạn trong những trường hợp đó, Đức Chúa Trời có thể làm việc nhanh chóng trong bạn.
Chúng ta đọc trong Xuất hành 17: 6 rằng chỉ khi tảng đá được đập vỡ thì nước mới bắt đầu chảy. Nếu đá không bị đánh vỡ, nước sẽ không chảy. Khi người phụ nữ mang nước hoa đựng trong lọ bằng thạch cao, đập vỡ nó dưới chân Chúa Giê-su, thì chỉ lúc đó mùi thơm ngào ngạt mới tràn ngập khắp nhà. Không ai có thể ngửi thấy mùi đó cho đến khi cái lọ bị vỡ. Khi Chúa Giê-su cầm lấy bánh và ban phước cho nó, không có gì xảy ra. Nhưng khi Ngài bóp vỡ nó, năm ngàn người đã được cho ăn. Thông điệp trong tất cả các ví dụ này là gì? Phá vỡ là con đường của phước lành. Khi nguyên tử bị phân chia, sức mạnh lớn dường nào sẽ được giải phóng! Nó có thể cung cấp điện cho cả một thành phố! Hãy tưởng tượng sức mạnh được giải phóng khi một nguyên tử nhỏ - nhỏ đến mức bạn thậm chí không thể nhìn thấy nó dưới kính hiển vi - bị phá vỡ. Thông điệp trong cõi thiên nhiên cũng như trong Kinh thánh chỉ là thế này: Quyền năng của Đức Chúa Trời được giải phóng qua sự phá vỡ. Mong rằng thông điệp đó sẽ bám chặt cuộc đời bạn.
Zac Poonen- India.
Không có mô tả ảnh.

Hội Thánh Bắt Chước Thế Giới-


Có thể học được nhiều điều về dân chúng bằng cách quan sát họ bắt chước ai và những gì họ bắt chước. Chẳng hạn, kẻ yếu bắt chước kẻ mạnh; không bao giờ ngược lại. Người nghèo bắt chước người giàu. Những người tự tin được người rụt rè và không chắc chắn bắt chước, hàng thật bị hàng giả bắt chước, và mọi người đều có xu hướng bắt chước những gì họ ngưỡng mộ.
Theo định nghĩa này, quyền lực ngày nay nằm trong tay thế giới, không phải với hội thánh, vì chính thế giới khởi xướng và hội thánh bắt chước những gì thế giới đã khởi xướng. Theo định nghĩa này, hội thánh ngưỡng mộ cả thế giới. Hội thánh cảm thấy không chắc chắn và nhìn ra thế giới để tìm sự đảm bảo.
Một hội thánh yếu ớt đang bắt chước một thế giới mạnh mẽ về mặt những thú vui của những tội nhân thông minh mà chính thế giới cảm thấy họ mãi mãi xấu hổ.
Nếu bất kỳ độc giả nào có xu hướng tranh cãi những kết luận này, tôi yêu cầu anh ta xem xét xung quanh. Hãy xem hầu hết các ấn phẩm truyền giáo, duyệt qua các hiệu sách của chúng ta, tham dự các buổi họp mặt của giới trẻ, ghé thăm một trong các hội nghị kinh thánh mùa hè của chúng ta hoặc xem trang mạng online của bất kỳ tờ báo thành phố lớn nào của chúng ta. Những trang nầy trông giống trang sân khấu, nhất là trang dành cho các hội thánh, thường xuất hiện vào thứ bảy. Và sự giống nhau không phải ngẫu nhiên, mà là theo tính hữu cơ.

Sự bắt chước hoàn toàn lệ thuộc này đối với thế giới phần lớn được thực hành bởi những hội thánh tự nhận mình có trình độ thuộc linh cao siêu và mạnh dạn tuyên bố rằng họ bám sát Lời Kinh thánh. Trên thực tế, cả các hội thánh theo đường lối nghi lễ cũ hay những hội thánh theo chủ nghĩa tân phái hiện đại công khai, đều mắc tội tôn thờ thế giới một cách trắng trợn như các hội thánh phúc âm đã mắc phải.
A. W. Tozer-- Sermon: The Danger of World-Church-

Nguy cơ của sự lừa dối thuộc linh-

Trong sách Châm ngôn có chép rằng: “Kẻ ngoại tình sẽ săn lùng sự sống quý giá,” và “bánh ăn trong nơi kín đáo thì dễ chịu; Nhưng khách của cô ấy đang ở dưới đáy sâu của địa ngục, "Thật là một điều khó chịu khi tôi đến châu Âu khoảng 18 hoặc 19 năm trước và tôi phát hiện ra rằng một người đàn ông đã bị bắt tại một quốc gia cụ thể vì đã dụ dỗ một phần ba số cô gái trong trường Kinh thánh riêng của anh ta. Hội đã không bắt được anh ta. Cảnh sát đã bắt được anh ta và anh ta bị tống vào tù, và nó đã trở thành tiêu đề của các tờ báo. Mọi người đều biết ông là một nhà truyền giáo hàng đầu; Mọi người đều biết ông là một nhà lãnh đạo Cơ đốc. Bạn có thể tưởng tượng loại điều này gây sự thối lui cho Giáo hội của Chúa Giê Su Christ không?

Có thể những điều này sẽ không xảy ra nếu chúng ta với tư cách là những nhà lãnh đạo Cơ đốc sẽ ngồi xuống nhiều hơn và tính toán giá phải trả  và kiểm tra cuộc sống của chính mình để xem liệu có những lĩnh vực lừa dối nàođang xảy ra hay không, điều đó cuối cùng sẽ dẫn chúng ta đến sự sụp đổ cuối cùng, và tai tiếng mà một cú té ngã sẽ mang lại.

Tôi muốn chia sẻ với bạn chỉ 10 lĩnh vực của sự lừa dối. Tôi sẽ nói ngắn gọn, và bạn sẽ phải tự mình nghiên cứu một số điều này. Đây là 10 lĩnh vực mà tôi đã thấy ở hầu hết mọi quốc gia mà tôi đã đến thăm: Công việc lừa dối của Sa-tan.

C.S. Lewis cho biết tất cả chúng ta đều có xu hướng suy nghĩ, nhưng không hành động. Và nếu chúng ta cứ suy nghĩ và cảm nhận mà không hành động, một ngày nào đó chúng ta sẽ không thể có khả năng hành động. Tôi đã đọc điều tương tự trong A.W.Tozer Tập sách nhỏ tuyệt vời của Tozer “Các lối đường dẫn đến năng lực”. Ông cũng đưa ra nguyên tắc tương tự, đó là nếu chúng ta tiếp tục lâu dài mà không tuân theo những gì Chúa dạy, chúng ta sẽ sớm không thể vâng lời nữa. Chúng tôi phát triển cái mà tôi gọi là "tâm thần phân liệt thuộc linh". Nhiều nhà lãnh đạo Cơ đốc đã nói với tôi điều này đúng trong đời sống của họ. Họ có từ ngữ, họ có thuật ngữ, họ có thần học, nhưng họ không có lửa, họ không có chiến đấu, họ không có thực tế. Có sự lừa dối đang diễn ra. Nhiều người của Đức Chúa Trời có thể bị lừa dối. Một trong những người thuộc linh nhất của Chúa trong những năm năm mươi ở Hoa Kỳ đã trở thành người sáng lập ra một giáo phái sai lầm.

 

Tôi tin rằng chúng ta cần hiểu thêm về các mưu chước của Satan. Chúng ta đừng nhấn mạnh quá nhiều đến Satan. Tôi thích suy gẫm về các thiên thần hơn là về ác quỷ. Nhưng trong Lời Đức Chúa Trời có câu nói: “Chúng tôi không phải không biết gì về mưu kế của Sa-tan” và trong Ê-phê-sô, Phao-lô bảo chúng ta hãy lấy “tấm khiên của đức tin, nhờ đó các ngươi sẽ có thể dập tắt mọi mũi tên lửa của kẻ ác.” Đó là điều chúng ta cần biết. Những lĩnh vực này là gì? - Lời kinh thánh, lời cầu nguyện và sự thờ phượng-

1. Trước hết, lĩnh vực lừa dối lớn nhất là tôi tớ Đức Chúa Trời sẽ phản ánh qua Lời kinh thánh, lời cầu nguyện và sự thờ phượng cá nhân. Bạn nói điều này là vô cùng cơ bản.

2. Kỷ luật của thân thể-

Lĩnh vực lừa dối thứ hai mà tôi gọi là bỏ bê thân thể mình và bỏ bê kỷ luật cơ bản.

3. Đọc bài và học từ những người khác

4. Cuộc sống gia đình

Thứ tư, một trong những lĩnh vực lừa dối lớn nhất là liên quan đến gia đình và người vợ. Tôi ngạc nhiên làm sao những người của Đức Chúa Trời có thể bỏ bê gia đình của họ.

5. Truyền giáo và Tiếp cận Cá nhân. Phao lô thực hành chứng đạo cá nhân rất đặc biệt

6. Thức ăn, giấc ngủ, tình dục và tiền bạc

Thứ sáu, có sự bỏ bê kỷ luật rất lớn khi nói đến lĩnh vực ăn, ngủ, tình dục, tiền bạc và các chi tiết.

7. Phê bình

Thứ bảy, sự lừa dối trong lĩnh vực phê bình này, việc nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo không học được cách xử lý những lời chỉ trích. Thật là điên rồ khi đi vào thánh chức nếu bạn chưa sẵn sàng cho một chế độ bị chỉ trích. Đừng phản ứng quá mức với những lời chỉ trích. Học cách Chúa có thể sử dụng nó .

8. Tiếp tuyến và Cực đoan-

Sau đó, thứ tám, là mối nguy hiểm của chủ nghĩa tiếp tuyến và chủ nghĩa cực đoan trong giáo lí sai lầm .

9. Bươn tới cuối cùng-

Thứ chín, có sự thất bại trong việc tiến lên đến cùng. 1 Cor. 15:58 “Anh em hãy vững vàng, không lay chuyển, luôn làm công việc Chúa dư dật.” Có thể có ai đó ở đây hôm nay đang nản lòng?

10. Tình yêu thực sự

Và cuối cùng, thất bại trong việc vun đắp tình yêu thực sự. Tình yêu thương là đức tính cao cả nhất trong đời sống Cơ đốc nhân, và nếu không có tình yêu thương, chúng ta sẽ nghe những tiếng chũm chọe và leng keng vô nghĩa.

Tôi trao những điều này cho bạn, mười lĩnh vực dễ bị lừa dối này, với lời cầu nguyện rằng bạn sẽ đi đến kinh Tân Ước của mình một cách mới mẻ, với một cam kết mới để chống lại những mũi tên lửa của Satan và trở thành người của Đức Chúa Trời hoặc người phụ nữ của Đức Chúa Trời ở nơi bạn đang ở.

 

Thứ Hai, 14 tháng 9, 2020

Các đặc điểm của cuộc sống tràn đầy Đức Linh -

 

Chúng ta hãy xem xét bốn đặc điểm của đời sống đầy dẫy Thánh Linh từ cuộc đời của Sứ đồ Phao-lô.
1.Sự mãn nguyện hoàn hảo:
Cuộc sống tràn đầy Thánh Linh trước hết là một cuộc sống mãn nguyện hoàn hảo. Trong Phi-líp 4:11, Phao-lô nói: “Dù tôi ở trong tình trạng nào, tôi cũng hài lòng”.Và sự mãn nguyện như vậy mang lại cuộc đời tràn đầy niềm vui và bình an. Do đó Phao-lô nói về niềm vui và sự bình an trong câu 4 và 7 của cùng một chương. Chúng ta chỉ có thể ngợi khen Đức Chúa Trời khi chúng ta hoàn toàn bằng lòng với mọi cách Ngài đối đãi với chúng ta. Nếu chúng ta tin vào một Đức Chúa Trời là Đấng tể trị và Đấng có thể làm cho mọi thứ xảy đến với chúng ta cùng hiệp lại vì lợi ích của chúng ta, (Rô-ma 8:28) thì chúng ta có thể thực sự hài lòng trong mọi hoàn cảnh. Sau đó, chúng ta có thể ngợi khen Chúa, giống như Ha-ba-cúc, ngay cả khi cây cối trong vườn của chúng ta không kết trái, khi đàn chiên của chúng ta chết và khi chúng ta bị thiệt hại nặng nề về tài chính - hoặc trong bất kỳ hoàn cảnh nào (Ha-ba-cúc 3: 17,18). Ê-phê-sô 5: 18-20 chỉ ra rằng kết quả của việc tràn đầy Đức Thánh Linh là sự ngợi khen Đức Chúa Trời.
Sứ đồ Phao-lô có thể vui mừng ngay cả khi ông bị nhốt trong tù, với đôi chân của mình trong cùm (Công vụ 16:25). Ngay cả khi ở đó, ông ấy cũng hài lòng và không thấy gì phải phàn nàn. Đây là một trong những dấu ấn đầu tiên của cuộc sống tràn đầy Thánh Linh. Khi một Cơ đốc nhân thở ra tiếng lẩm bẩm, thì đó là dấu hiệu cho thấy anh ta, giống như những người Y-sơ-ra-ên đã lẩm bẩm chống lại Đức Chúa Trời trong đồng vắng, vẫn chưa bước vào miền đất hứa chiến thắng.
1. Tăng trưởng trong sự thánh thiện:
Thứ hai, đời sống đầy dẫy Thánh Linh là đời sống tăng trưởng trong sự thánh khiết. Khi cuộc sống của con người tăng lên trong sự thánh khiết thì sẽ có ý thức của anh ta về sự thánh khiết tuyệt đối của Đức Chúa Trời. Hai điều cùng đi với nhau. Trên thực tế, cái sau là một trong những bài kiểm tra xem một người có thực sự có cái trước hay không. 25 năm sau khi cải đạo, Phao-lô nói: “Tôi là người kém cỏi nhất trong các sứ đồ” (1 Cô 15: 9). Năm năm sau, ông nói, "Tôi kém hơn người kém cỏi nhất trong tất cả các thánh đồ" (Êph. 3: 8). Vẫn một năm sau, ông ấy nói, “Tôi (lưu ý, không phải là “tôi đã từng” mà “tôi đang là là thủ lĩnh của tội nhân” (1Ti-mô-thê 1:15). Bạn có thấy sự thánh thiện của ông trong những câu nói đó không? Phao-lô càng đi gần Đức Chúa Trời, ông càng ý thức về sự hư hỏng và gian ác của xác thịt mình. Ông nhận ra rằng không có điều tốt nào có thể tìm thấy trong xác thịt của mình (Rô-ma 7:18). Người đầy dẫy Thánh Linh không chỉ tìm cách gây cho người khác ấn tượng rằng anh ta đang lớn lên trong sự thánh khiết mà thực sự sẽ làm như vậy. Anh ta sẽ không làm chứng về những kinh nghiệm được cho là đã làm cho anh ta nên thánh hoặc cố gắng thuyết phục người khác về thần học nên thánh của anh ta. Anh ta sẽ có được sự thánh thiện trong cuộc sống của mình đến nỗi những người khác sẽ đến với anh ta, theo cách riêng của họ, và hỏi anh ta bí quyết của cuộc đời mình. Anh ta sẽ có cái mà J.B. Phillips dịch là, “sự thánh thiện không có ảo ảnh” (Eph.4: 24).
2. Đời sống bị đóng đinh:
Thứ ba, đời sống đầy dẫy Thánh Linh là đời sống bị đóng đinh. Phao-lô nói, “Tôi bị đóng đinh với Đấng Christ” (Ga-la-ti 2:20). Con đường thập tự giá là con đường đầy dẫy Thánh Linh. Thánh Linh sẽ luôn dẫn dắt chúng ta giống như Ngài đã dẫn Chúa Giê-xu đến thập tự giá. Thánh Linh và thập tự giá không thể tách rời. Thập tự giá là biểu hiệu của sự yếu đuối, xấu hổ và chết chóc. Sứ đồ Phao-lô có những nỗi sợ hãi, bối rối, buồn phiền và nước mắt trong cuộc sống của mình (Xin xem 2 Cô 1: 8; 4: 8; 6:10; 7: 5). Ông ta bị coi là một kẻ ngốc nghếch và cuồng tín. Ông thường bị người khác đối xử như đồ dơ bẩn và rác rưởi (1 Cô 4: 13). Tất cả những điều này không trái với sự đầy đẫy của Thánh Linh. Ngược lại, người đầy dẫy Thánh Linh sẽ thấy Đức Chúa Trời dẫn anh ta ngày càng xa hơn, càng đi xuống con đường nhục nhã và chết đối với mình.
4.Sự mở rộng liên tục:
Thứ tư, sự sống đầy dẫy Thánh Linh là một cuộc sống liên tục tìm kiếm những mức độ sung mãn lớn hơn. Phao-lô nói: “Tôi đang bươn tới,” gần ba mươi năm sau khi cải đạo, và khi ông sắp sửa đi đến cuối đời mình (Phi-líp 3:14). Ông ta vẫn chưa đạt được. Ông ta vẫn đang tìm kiếm mức độ sung mãn hơn của Thánh Linh Đức Chúa Trời trong cuộc sống của mình và do đó đang căng thẳng mọi cơ bắp thuộc linh để hướng tới mục tiêu này. “Tôi không hoàn hảo (trọn vẹn)” ông nói trong Phi-líp 3:12. Nhưng trong câu 15, dường như ông nói theo cách hoàn toàn ngược lại: “Như vậy, chúng ta hãy để ý đến những người hoàn hảo (trọn vẹn)”. Đây là nghịch lý của sự sống tràn đầy Thánh Linh - hoàn thành, nhưng chưa hoàn thành; nói cách khác, đầy đủ nhưng vẫn mong muốn một mức độ đầy đủ hơn. Trạng thái đầy Thánh Linh không phải là trạng thái tĩnh. Ngày càng có nhiều mức độ đầy dẫy hơn. Kinh Thánh nói rằng Đức Thánh Linh dẫn chúng ta đi từ mức độ vinh quang này sang mức độ vinh quang khác (2 Cô 3:18) - hay nói cách khác, từ mức độ sung mãn này sang mức độ sung mãn khác. Một cốc có thể chứa đầy nước; cái xô cũng vậy; cái bể cũng vậy và con sông cũng vậy. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa độ đầy dẫy của một cốc và sự đầy dẫy của một dòng sông.
Đức Thánh Linh không ngừng tìm cách mở rộng khả năng của chúng ta, để Ngài có thể lấp đầy chúng ta ở một mức độ lớn hơn. Đây là nơi thập tự giá bước vào. Không thể có sự mở rộng trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta tránh con đường thập tự giá. Nếu chúng ta chấp nhận thập tự giá một cách nhất quán trong cuộc sống của mình, chúng ta sẽ thấy cốc của chúng ta trở thành một cái xô, cái xô của chúng ta trở thành một cái bể, bể của chúng ta trở thành một con sông và con sông trở thành nhiều sông. Ở mỗi giai đoạn, khi dung lượng của chúng tôi mở rộng, chúng ta sẽ cần phải được lấp đầy lại. Như vậy, lời hứa của Chúa Giê-su sẽ được ứng nghiệm trong chúng ta, “Những dòng sông nước hằng sống sẽ chảy ra từ tận cùng của bất cứ ai tin vào Ta (Ngài đang nói về Đức Thánh Linh)” (Giăng 7:38, 39-LB) .
- Zac Poonen- Ấn Độ

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

Bạn Sẽ Chờ Đợi Bao Lâu?


-
Ông Nick Franks nói: “Thời gian phải trở thành tài nguyên chính của chúng ta để gặp gỡ Đức Chúa Trời chứ không phải là nguyên nhân chính khiến chúng ta mất kết nối với Ngài” -
Thời gian thật bí ẩn. Một giờ dành cho một cuộc theo đuổi thú vị có thể giống như một ngày nếu làm điều gì đó mà chúng ta không thích. Nếu tôi dành một tuần với thân nhân của tôi trên một hòn đảo, thì tuần đó sẽ bay qua. Một mặt khác nếu tôi dành một tuần khi bị giam cầm đơn độc, nó sẽ giống như một cõi vĩnh cửu chăng? Sự khác biệt giữa hai kịch bản không phải là thời gian, một tuần là một tuần bất kể bạn đang làm gì.
Tuy nhiên, chúng ta biết những gì chúng ta đang làm là một phần của sự tính toán thời gian thực sự trôi qua nhanh như thế nào trong tâm trí của chúng ta. Chúng ta được biết trong Kinh thánh rằng một ngày tại hành lang của Chúa tốt hơn một ngàn ngày khác. Chúng ta cũng biết rằng một ngày là một ngàn năm đối với Chúa. Thời gian được sử dụng cho Đức Chúa Trời là cách sử dụng thời gian cách hoàn hảo hơn mọi cách sử dụng khác, bất kể tốt đẹp, đạo đức hay cao quý, đều là một cái gì đó kém sút.
Những người biết điều gì đó về sự hiện diện của Chúa, người đã được chạm đến vinh quang, đã nếm trải những điều tốt đẹp của Chúa, thì chờ đợi Đức Chúa Trời có thể giống như một tuần bị biệt giam. Bạn sẵn sàng chờ đợi Đức Chúa Trời bao lâu? Làm thế nào để chúng ta sống khi Người Trồng Nho đã ra đi? Chúng ta có trung thành, kiên nhẫn chờ đợi, tiếp tục, khi biết Ngài sẽ trở lại không? Hay sau một thời gian, chúng ta bắt đầu hành động như thể Ngài sẽ không bao giờ trở lại?
Tôi không thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, tôi không thể nghe thấy tiếng nói của Ngài. Bạn đã đi qua các tình trạng như thế này chưa? Bạn dâng tiếng khóc của minh cho Chúa trong bao lâu? Thánh đồ ơi, bạn sẽ được trắc nghiệm về điều này. Bạn sẽ phục vụ Đức Chúa Trời với niềm vui, sự vui mừng và trung thành nếu bạn không bao giờ cảm nhận được sự hiện diện của Ngài một lần nữa trong cuộc sống này chăng? Bạn có yêu Ngài ngay cả khi bạn biết rằng trong suốt quãng đời còn lại, bạn sẽ không nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ của Ngài không? Môi-se lên núi và trong vòng chưa đầy 40 ngày, mọi người đã ném bỏ Chúa và tự tạo cho mình một thần tượng, cho phép họ chổi dậy và vui chơi.
Các thánh đồ của Đức Chúa Trời tôn thờ Ngài bất kể điều gì, đây là những gì phân biệt họ với các giáo sư giả. Họ đã được đóng ấn và đức tin của họ không phụ thuộc vào hoàn cảnh hoặc cảm xúc. Họ sẽ chờ đợi Đức Chúa Trời của mình, điều đó sẽ khó khăn nhưng họ biết trong tâm linh của mình rằng Đức Chúa Trời luôn hoạt động dù họ có nhìn thấy Ngài hay không, dù họ có cảm nhận hay không, dù họ có nghe thấy hay không. Lời Đức Chúa Trời là một ngọn đèn cho đôi chân và bánh cho tâm hồn đói khát của họ’ và nói theo cách ẩn dụ họ sử dụng ngọn đèn đó đi xuống bến cảng và quét đường chân trời cho tâm hồn mình để xem hôm nay có phải là ngày không. Với sự kiên nhẫn vô hạn, họ trung thành chờ đợi Chúa của họ.
Và mặc dù họ sẽ chờ đợi một ngàn năm, sự kiên nhẫn của họ được ban thưởng khi đột nhiên Ngài đến với họ trong sâu thẳm của tâm linh họ. Họ thấy mình ở bàn tiệc, ăn uống trước sự hiện diện của Ngài với một ngọn cờ tình yêu phất phới bên trên họ. Thời gian đứng yên, nó mất đi ý nghĩa của nó. Đó là một khoảnh khắc hay là một ngàn năm? Hãy trung thành chờ đợi Chúa, điều đó làm hài lòng Cha chúng ta trên thiên đàng khi Ngài thấy rằng dù thế nào đi nữa, chúng ta yêu mến Ngài vô điều kiện. Và khi chúng ta trải nghiệm sự hiện diện của Ngài, tất cả mọi sự đều vinh diệu hơn cho sự chờ đợi. Và ngày hiện đến cuối cùng của Chúa, khi Ngài đến với tất cả vinh quang của minh, tôi sẽ sớm tin rằng, vinh quang đó sẽ vượt lên trên tất cả những gì chúng ta có thể nghĩ hoặc tưởng tượng.