Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2022

95 LUẬN ĐỀ CỦA TIẾN SĨ MARTIN LUTHER -1-

 

(Về Quyền Hạn và Hiệu Lực của sự Ân Xá)-

 

 Lời nói đầu:  Vào ngày 31 tháng 10 năm 1517, giáo sư thần học người Đức Martin Luther niêm yết 95 Luận ðề nơi cửa Thánh ñường Castle ở Wittenberg. Biến cố nầy là khởi ñiểm của phong trào Cải chánh (Protestantism), dẫn ñến sự thành lập Giáo Hội Tin Lành Lutheran và các hệ phái Tin Lành khác. Nhiều người cho là ông đã mang Cơ-Đốc giáo trở về với Thánh Kinh. Kẻ khác lại cho rằng ông có tánh tình không bình thường, bất mãn với Giáo Hội Công Giáo La Mã, vi phạm giáo ñiều và bị dứt phép thông công. Dầu đứng trong khuynh hướng nào, mọi người đều nhìn nhận rằng 95 Luận đề của Tiến sĩ Martin Luther là một tài liệu lịch sử quý giá, một cửa sổ mà chúng ta có thể nhìn về quá khứ để học hỏi và rút tỉa những bài học cho tương lai.

Qua 95 Luận đề của Tiến sĩ Martin Luther, chúng ta có thể hiểu biết một phần nào bối cảnh thời bấy giờ, lý do khiến ông lên tiếng chống đối việc bán thư ân xá để gây quỹ xây cất Vương Cung Thánh đường và sự xung đột nội tâm của giáo dân thời bấy giờ là phải đặt đức tin trong Cứu Chúa Jêsus hay vào thư ân xá. Tôi xin cám ơn nhiều ân nhân đã giúp ñỡ, khuyến khích trong việc dịch thuật, cám ơn những dịch giả đi trước đã mỡ đường để tôi có thể kết thúc công tác nầy. Mong rằng sẽ có những người,trong tương lai, sưu tầm, tu bổ và làm sáng nghĩa tài liệu nầy hơn nữa.

 

 Do lòng yêu mến chân lý và muốn làm sáng tỏ lẽ thật, những luận đề sau đây sẽ ñược bàn cãi tại Wittenberg, dưới sự chủ tọa của Đức Cha Martin Luther, Cao học Văn Chương và Thần học Bí tích, Giảng sư thực thụ về các môn trên tại Chủng viện Wittenberg. Ông yêu cầu quý vị nào không thể đến dự cuộc tranh luận nầy, có thể viết thư nêu ý kiến. Trong danh Đức Chúa Jêsus Christ. A-men.

 

1. Khi Đức Chúa Jêsus Christ, Thầy chúng ta phán “Hãy ăn năn...”, Ngài muốn rằng tín hữu phải ăn năn hối cải trong suốt cuộc ñời.

 

2. Lời phán nầy không có nghĩa là bí tích sám hối tức là việc xưng tội và đền tội do các Linh mục chủ lễ.

3. Vả lại, lời ñó không chỉ nói ñến sự ăn năn hối cải nội tâm; không, không có sự ăn năn hối cải trong lòng nào mà không được bày tỏ ra bằng những sự hành xác bên ngoài [2].

4. Cho nên, hình phạt [của tội lỗi] ñược tiếp tục song song với việc tự ghét mình; vì ñó là sự ăn năn thật trong lòng, và được tiếp tục cho ñến khi bước vào nước thiên đàng.

5. Đức Giáo Hoàng không có ý ñịnh, và không thể tha thứ hình phạt nào, ngoại trừ những hình phạt do Ngài áp ñặt qua thẩm quyền của Ngài hay Giáo luật.

6. Đức Giáo Hoàng không thể tha thứ bất kỳ vi phạm nào ngoại trừ việc công bố rằng Đức Chúa Trời đã tha thứ và thừa nhận sự tha thứ ấy; tuy nhiên, để cho ñược chắc chắn, Đức Giáo Hoàng có thể ban sự tha thứ trong những trường hợp dành cho Ngài phán xét. Nếu thẩm quyền tha tội nầy bị coi thường, tội lỗi vẫn không ñược tha.

7. Thượng ðế không tha thứ ai mà Ngài không đồng thời khiến họ hạ mình trong mọi việc và thuận phục trước vị đại diện của Ngài là các Linh mục.

8. Nghi thức đền tội [3] chỉ ñược áp dụng cho người sống, và cũng theo Giáo luật ñó, không một điều khoản nào có thể áp dụng trên người sắp chết.

9. Bởi vậy, Đức Thánh Linh trong Đức Giáo Hoàng rất nhân từ đối với chúng ta, vì qua các sắc lệnh, Đức Giáo Hoàng luôn xem các ñiều khoản nói về sự chết và nhu cầu cuối cùng trong cuộc sống là những trường hợp ngoại lệ.

10. Các Linh mục đã hành ñộng sai lầm và độc ác khi họ không áp dụng những hướng dẫn ăn năn tội cho những người sắp qua đời mà để dành đến khi họ vào ngục luyện tội [4].

11. Sự thay đổi hình phạt theo giáo luật thành hình phạt nơi ngục luyện tội thật giống như chuyện cỏ lùng được gieo trồng khi các Giám mục đang ngủ [5].

12. Trước đây, những hướng dẫn đền tội ñược áp đặt, không phải sau, mà là trước khi xá tội, để xem sự ăn năn thống hối có thật hay không

 

13. Người sắp chết được miễn tất cả mọi án phạt khi họ qua đời; họ đã chết đối với các giáo luật, và có quyền được miễn trừ khỏi các giáo luật đó.

14. Sự bất toàn [của linh hồn], nói một cách khác, sự thiếu kém về tình yêu thương của người gần cỏi chết đã mang đến những nổi sợ hãi lớn lao cho họ; và tình thương càng ít thì sự lo sợ càng gia tăng.

15. Nỗi sợ hãi và kinh khiếp nầy tự nó (không kể đến các việc khác) cũng đđể tạo thành hình phạt nơi ngục luyện tội, vì điều ấy rất gần với nỗi kinh khiếp của sự tuyệt vọng khi bị mất linh hồn đời đời.

16. Địa ngục, ngục luyện tội, và thiên đàng dường như khác biệt với nhau cũng như sự tuyệt vọng khi bị mất linh hồn đời đời, gần tuyệt vọng, và sự bảo đảm để ñược an toàn.

17. Với những linh hồn trong ngục luyện tội, dường như sự kinh khiếp cần phải ñược giảm thiểu và tình yêu thương gia tăng.

18. Dường như không thể dùng lý luận hoặc Kinh Thánh để chứng minh rằng các linh hồn trong ngục luyện tội không còn có khả năng tạo thêm công đức, nghĩa là không thể lớn thêm lên về tình yêu thương.

19. Lại nữa, dường như không thể chứng minh rằng các linh hồn trong ngục luyện tội, hay ít nhất tất cả các linh hồn đó, có thể chắc chắn hay ñược dảm bảo về ơn phước của họ, dù rằng chúng ta tin chắc về các phước hạnh đó.

20. Vậy nên khi Đức Giáo Hoàng nói về “sự tha thứ hoàn toàn tất cả mọi hình phạt”, ngài không có ý nói tha thứ “tất cả”, nhưng chỉ những án phạt do ngài áp ñặt.

21. Vì thế, những giảng sư về sự ân xá đã sai lầm khi nói rằng bởi sự tha tội của Đức Giáo Hoàng, người ta ñược thoát khỏi mọi hình phạt và được cứu;

22. Trái lại, Đức Giáo Hoàng không ân xá những án phạt nào cho các linh hồn trong ngục luyện tội, mà theo giáo luật họ đã trả xong khi còn sống.

23. Ví bằng nếu có thể ban sự ân xá cho tất cả mọi án phạt, thì chắc chắn chỉ có những người hoàn toàn nhất mới nhận được sự ân xá nầy, nghĩa là một số rất ít.

24. Vì thế nhiều người đã bị đánh lừa qua các lời hứa bừa bãi và rỗng không về sự tha thứ.

25. Nói một cách tổng quát, thẩm quyền của Đức Giáo Hoàng trên ngục luyện tội, cũng giống như quyền hạn riêng biệt của các giám mục, cha xứ trên giáo khu hay xứ đạo mình.

26. Đức Giáo Hoàng hành ñộng đúng khi tha thứ những linh hồn [trong ngục luyện tội], không phải bởi thẩm quyền của chìa khóa [6] (mà Ngài không có), nhưng bằng cách cầu thay.

27. Họ giảng đến đổi người ta nói rằng ngay khi đồng tiền vừa kêu leng keng trong hộp dâng, linh hồn liền bay thoát ra [khỏi ngục luyện tội].

28. Điều chắc chắn là khi đồng tiền vừa kêu leng keng trong hộp dâng, thì vật chất và lòng tham sẽ gia tăng, nhưng kết quả sự cầu thay của Hội thánh chỉ do quyền năng Đức Chúa Trời mà thôi.

29. Ai có thể biết chắc rằng tất cả các linh hồn trong ngục luyện tội đều muốn được mua chuộc khỏi nơi nầy, như trong truyền thuyết [7] của Thánh Severinus [8] và Paschal [9].

30. Không ai biết chắc rằng mình có thật tâm ăn năn; đừng nói chi ñến việc nhận được sự tha thứ hoàn toàn.

31. Có ít người thành thật ăn năn, cũng có ít người thật sự tin vào thư ân xá, nghĩa là những người nầy thật rất hiếm.

32. Họ cùng với thầy mình sẽ bị kết án đời đời vì đã tin chắc vào sự cứu rỗi bởi họ có thư ân xá.

Còn nữa)--