33. Người ta phải cẩn thận đề phòng những ai nói rằng sự ân xá của Đức Giáo Hoàng là quà tặng vô giá của Đức Chúa Trời nhờ ñó mà con người được làm hòa với Ngài.
34. Vì “những ơn ân xá” nầy của Đức Giáo Hoàng chỉ ñược áp dụng cho các hình phạt của bí tích đền tội, và các điều nầy do loài người lập nên.
35. Họ không giảng dạy lẽ đạo Cơ-Đốc khi cho rằng những người định mua linh hồn ra khỏi ngục luyện tội hay định mua thơ xưng tội không cần phải ăn năn.
36. Bất kỳ các Cơ-Đốc nhân nào thành thật ăn năn hối lỗi thì họ có quyền nhận sự tha thứ tất cả mọi hình phạt và vi phạm, dù không có thư ân xá.
37. Mọi Cơ-Đốc nhân thật, dù còn sống hay đã qua đời, đều được dự phần trong tất cả những phước hạnh từ Đấng Christ và Giáo hội; và điều đó được Đức Chúa Trời ban cho họ, mặc dầu họ không có thư ân xá.
38. Tuy nhiên, sự ân xá và phục hồi [trong phước hạnh của Giáo hội] được Đức Giáo Hoàng ban cho không vì lẽ gì mà bị coi thường, như tôi đã nói, đó là lời tuyên bố về sự ân xá từ trời.
39. Thật rất là khó cho ngay cả các nhà thần học uyên bác nhất trong cùng một lần, đồng một lúc, ngợi khen sự dư dật của thư ân xá và [sự cần thiết phải] ăn năn thật.
40. Sự ăn năn thống hối thật tâm tìm kiếm và mong muốn được sửa phạt, còn việc ân xá bừa bải chỉ làm hình phạt nhẹ đi và làm cho người ta không thích, hay ít nhất cũng gây cơ hội [để họ ghét sự ân xá].
41. Sự ân xá của Đức Giáo Hoàng phải ñược giảng dạy một cách thận trọng, kẻo người ta lầm tưởng nó có giá trị hơn các việc làm từ thiện tốt lành khác.
42. Cơ-Đốc nhân phải ñược dạy là Đức Giáo Hoàng không có ý cho rằng việc mua thư ân xá có thể so sánh với các công việc từ thiện.
43. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng ai bố thí cho người nghèo hoặc giúp ñỡ kẻ cùng túng là làm việc lành tốt hơn sự mua thư ân xá;
44. Bởi vì tình yêu thương được gia tăng lên qua việc từ thiện, và con người sẽ trở nên tốt hơn; nhưng họ không tốt hơn qua sự ân xá, mà chỉ thoát khỏi các hình phạt.
45. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng ai thấy kẻ lân cận mình trong cơn nguy khốn mà không giúp, và lại dùng [tiền mình] cho sự ân xá, thì chẳng mua ñược sự tha thứ của Đức Giáo Hoàng, mà chỉ chuốc lấy cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời.
46. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng trừ khi họ có tiền nhiều hơn nhu cầu, họ buộc phải cung ứng cho gia đình mình chi dùng đầy đủ, và không vì lý do gì mà hoang phí để mua thư ân xá.
47. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng việc mua thư ân xá là hoàn toàn tự nguyện, và không phải do lệnh trên truyền xuống.
48. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng Đức Giáo Hoàng, khi ban sự ân xá, cần và mong muốn họ chuyên tâm cầu nguyện cho Ngài hơn là số tiền họ mang đến.
49. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng sự ân xá của Đức Giáo Hoàng chỉ có ích khi họ không đặt lòng tin tưởng vào đó; nhưng trái lại thật là tai hại, nếu vì nó họ mất lòng kính sợ Đức Chúa Trời.
50. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng nếu Đức Giáo Hoàng biết rõ được sự đòi hỏi quá đáng của các giảng sư về sự ân xá, thì Ngài muốn thấy ngôi Vương Cung Thánh đường Phi-e-rơ (Phê-rô) [10] bị thiêu hủy thành tro bụi, còn hơn là được xây dựng lên bằng da, thịt và xương của các con chiên mình.
51. Cơ-Đốc nhân phải được dạy rằng đó là sự mong muốn của Đức Giáo Hoàng, cũng như đó là nhiệm vụ của Ngài, dùng chính tiền mình để trả lại cho những ai bị bọn bán buôn thư ân xá lường gạt, ngay cả khi cần phải bán ngôi Vương Cung Thánh đường Phie-rơ (Phê-rô).
52. Sự bảo ñảm ñược cứu rỗi bằng thư ân xá là luống công, dầu qua vị đại diện, không đâu, ngay cả khi chính Đức Giáo Hoàng đặt linh hồn Ngài để bảo đảm.
53. Những người nào truyền lệnh bưng bít lời Chúa tại một số nhà thờ, để giảng dạy về sự ân xá ở những nhà thờ khác là kẻ thù của Đấng Christ và Đức Giáo Hoàng.
54. Dành thì giờ nói ñến sự ân xá bằng hay nhiều hơn thì giờ học hỏi lời Chúa trong cùng một bài giảng là làm tổn thương ñến lời Đức Chúa Trời.
55. Ý ñịnh của Đức Giáo Hoàng là nếu sự ân xá, chỉ là một việc nhỏ, được ăn mừng với một tiếng chuông, một ñám rước lễ, một nghi lễ, thì lời Phúc âm, là điều cao quí nhất, phải được giảng dạy với một trăm tiếng chuông, một trăm đám rước lễ, một trăm nghi lễ.
56. “Kho tàng của Giáo Hội [11]” mà Đức Giáo Hoàng dùng để ban phát sự ân xá không được nói đến hoặc hiểu biết đầy ñủ giữa vòng Cơ-Đốc nhân.
57. Rằng thật nó không phải là kho tàng thế gian, vì những kẻ rao bán sự ân xá không muốn ban phát các kho tàng ấy ra một cách dễ dàng mà chỉ muốn thâu lượm thêm.
58. Kho tàng đó cũng không phải là những công đức của Đấng Christ và các Thánh [12], bởi vì ngay cả khi không có Đức Giáo Hoàng, nó luôn làm việc tốt lành trong lòng con người, còn thập tự giá, sự chết và địa ngục cho con người bề ngoài.
59. Thánh Laurence [13] gọi các giáo dân nghèo khó là những kho tàng của Giáo Hội, nhưng ông nói theo cách dùng từ ngữ thời bấy giờ.
60. Chúng ta có thể nói một cách thận trọng rằng chìa khóa của Giáo Hội, được ban cho qua công đức của Đấng Christ, mới là kho tàng của Giáo Hội;
61. Vì Đức Giáo Hoàng thật có đủ quyền tha các án phạt trong những trường hợp dành riêng cho ông.
62. Kho tàng thật của Giáo Hội chính là Phúc Âm Chí Thánh về sự vinh hiển và ân ñiển của Đức Chúa Trời.
63. Nhưng kho tàng nầy theo lẽ tự nhiên thật rất là đáng ghét, vì nó khiến người đầu trở nên rốt [14].
64. Mặt khác, kho tàng của sự ân xá đương nhiên ñược chấp nhận dễ dàng nhất vì nó khiến người rốt trở nên đầu.
65. Vậy nên, kho tàng của Phúc Âm là những cái lưới mà trước ñó thường ñược dùng ñể đánh lưới người
(còn nữa)