Khải Huyền 5: 1-7, “Một trong các trưởng lão bèn nói với tôi rằng: “Chớ khóc; kìa, sư tử thuộc chi phái Giu-đa, Cội gốc của Đa-vít, đã đắc thắng để mở sách và tháo bảy ấn ấy.”Tôi đã thấy chính giữa ngai và bốn sanh vật, cùng chính giữa các trưởng lão, có một Chiên Con đứng, hình như đã bị giết, có bảy sừng và bảy mắt”.
Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021
Sư Tử và Chiên Con-
Từ chương 4, Giăng,
người viết sách Khải Huyền, lên trên trời và từ đó, ông theo các giao dịch của
Đức Chúa Trời với trái đất này. Trước tiên, ông nhìn thấy ngai vàng của Đức
Chúa Trời, ngôi đó đứng vững chắc trên các tầng trời. Nó là điểm khởi đầu của
những cuộc phán xét sẽ giáng xuống trái đất trong một tương lai không xa.
Trong khi ở chương
4, ngôi của Đức Chúa Trời là trung tâm, thì ở chương 5, chúng ta thấy cuốn sách
ở tay hữu Đấng ngự trên ngai (câu 1). Cuốn sách này ghi lại các quyền của Chúa
Jêsus đối với cõi sáng tạo, mà Ngài đã có được qua sự đau khổ và cái chết của
mình trên thập tự giá. Một mặt, Đấng Christ, với tư cách là một con người, sẽ
thực hiện mọi tư tưởng của Đức Chúa Trời đối với trái đất này, theo hai cách:
Một mặt, Ngài là Thẩm Phán được Đức Chúa Trời chỉ định, Đấng sẽ xét xử và loại
trừ mọi điều ác trên trái đất, nhưng mặt khác, Ngài sẽ chổi dậy mở ra một thời
kỳ phước hạnh chưa từng có cho trái đất này, nơi đã chứng kiến rất nhiều đau
khổ và khốn khổ.
Cuốn sách mà Giăng
nhìn thấy trong tay phải của Đấng đang ngồi trên ngai vàng được viết từ trong
ra ngoài và được niêm phong bằng bảy con dấu (ấn). Điều này cho thấy rằng nghị
quyết của Đức Chúa Trời liên quan đến trái đất này là toàn diện, không thay đổi
và được thiết lập vững chắc. Nghị quyết đó sẽ được hoàn thành trong từng chi
tiết. Với mỗi con dấu trong bảy con dấu, một bệnh dịch mới được giới thiệu,
cuối cùng sẽ dọn đường cho bảy tiếng kèn, sau rốt “vương quốc của thế giới Chúa
chúng ta và Đấng Christ của Ngài” sẽ đến (Kh 11:15).
Sau khi mọi mắt của
mọi tạo vật được cho thấy rằng không có tạo vật nào trên trời và dưới đất xứng
đáng và có thể mở cuốn sách hoặc xem nó, Giăng khóc rất sâu (câu 3,4). Nhưng ông
không khóc được bao lâu. Một trong những trưởng lão nói với ông: “Đừng khóc!
Kìa, sư tử thuộc chi phái Giu-đa, Cội gốc Đa-vít đã thắng, để mở sách và tháo bảy
ấn của Ngài ”(câu 5; xem Sáng thế Ký 49: 9). Sau những lời này, chắc chắn Giăng
mong đợi một tầm nhìn về Chúa Giê-su quyền năng và sức mạnh - theo biểu hiệu
của con sư tử (Châm 30:30; Mi-chê 5,7). Nhưng những gì ông đã nhìn thấy không
phải là một con sư tử, mà là một con cừu non như thể bị giết thịt - biểu hiệu
của sự yếu đuối lớn nhất (câu 6).
Là Chiên Con, Chúa
Jêsus đã bị đóng đinh trong sự yếu đuối (2 Cô 13: 4). Nhưng chính cái chết đáng
suy ngẫm của Ngài trên thập tự giá là cơ sở cho chiến thắng vĩ đại của Ngài.
Công việc vĩ đại của Chúa trên thập tự giá theo một nghĩa, đó là công việc của
một con sư tử được một con cừu non thực hiện. Đó là một công việc vĩ đại (Sử Tử)
được thực hiện trong sự yếu đuối bên ngoài (Chiên Con). Những gì Chúa Jêsus đã
làm trên thập tự giá sẽ tồn tại trước mặt chúng ta cho đến đời đời. Những đau
khổ và cái chết của Ngài sẽ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ và tôn thờ cho đến
muôn đời sau.
Trước khi Chúa Jêsus
có thể lấy cuốn sách từ tay phải của Đấng ngồi trên ngai vàng, Ngài đã phải đau
khổ và chết trên thập tự giá của Gô-gô-tha. Ở đó, Ngài đã chinh phục sa tan như
Sư tử bằng cách bị giết thịt như Chiên con. Bằng cái chết của mình trên thập tự
giá, Ngài đã có được quyền chiến thắng mọi kẻ thù và thực hiện mọi nghị quyết của
Đức Chúa Trời. Với tư cách là Sư Tử, Ngài có thể, và với tư cách là Chiên Con,
Ngài xứng đáng nhận lấy sách nghị quyết của Đức Chúa Trời và mở các ấn. Nơi
Ngài, chúng ta tìm thấy cả khả năng và quyền thực hiện mọi nghị quyết của Đức
Chúa Trời. Bất kể nghị quyết của Đức Chúa Trời nói như thế nào, một ngày nào
đó, Chúa Giê-su sẽ làm cho niềm vui và sự hài lòng của Đức Chúa Trời đạt được.
“ý chỉ Đức Giê-hô-va nhờ tay người được thạnh vượng” (Ês 53:10).
Trái ngược với bản
chất của sư tử và cừu non, trong Chúa Giê-su, các đặc tính của cả hai loài vật
này bổ sung cho nhau một cách đáng kinh ngạc và hoàn hảo. Chúa là con sư tử
mạnh mẽ và con cừu bị giết thịt. Thân vị của Chúa chúng ta vinh hiển và vĩ đại
biết bao!
Liên quan đến điều
này, một suy nghĩ khác nảy sinh: Là Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus sẽ có quyền thực
hiện sự phán xét bất cứ lúc nào, nhưng sau đó - nói với vẻ kính sợ - Ngài như
không thể xóa bỏ tội lỗi của thế giới. (Giăng 1:29; xem Hê 9: 26). Chỉ có một
cách để làm điều này: Là Chiên Con thực sự của Lễ Vượt Qua, Ngài đã phải chịu
đau đớn và chết trên thập tự giá của (xem 1Cô 5: 7). Và khi thời điểm sẽ đến
khi sự phán xét của tội lỗi sẽ kết thúc và tội lỗi sẽ bị trục xuất vĩnh viễn
khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời, thì Chúa Jêsus sẽ đứng trước mặt chúng ta
với tư cách là Chiên Con như thể bị giết, và như Chiên Con phải chịu đựng và chết để đặt
nền móng cho mọi phước lành của cõi đời đời. Nguyện Ngài được ca tụng và ca
tụng về điều này mãi mãi!
Hai Danh Xưng Của Chúa-
Math. 1:21-23, “Nàng sẽ sanh một trai, ngươi hãy đặt tên là JÊSUS, vì chính Con ấy sẽ cứu dân mình khỏi các tội lỗi." Vả, mọi việc nầy xảy ra, hầu cho ứng nghiệm lời Chúa đã phán bởi đấng tiên tri rằng: "Kìa,gái đồng trinh sẽ thọ thai, sanh một trai, Người ta sẽ gọi tên con đó là Em-ma-nu-ên," dịch là, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.
Trong Ma-thi-ơ 1,
hai danh xưng của Chúa Jêsus được gọi để cho chúng ta thấy Ngài là Ai và Ngài
đã đến trai đất để làm gì. Ngài đến để cứu dân tộc của mình khỏi các tội lỗi
của họ ("Chúa Giêsu"). Nhưng Ngài cũng đến để mang Đức Chúa Trời đến
gần chúng ta hơn và để mặc khải Đức Chúa Trời cho chúng ta ("Em-ma-nu-ên").
"Jesus" có
nghĩa là "Chúa là sự cứu rỗi". Trong Chúa Jêsus, Đức Chúa Trời đã tỏ
mình là Đức Chúa Trời Cứu Chúa. Sự cứu rỗi chỉ có thể được tìm thấy trong thân
vị của Chúa Jêsus (xem Công-vụ 4:12). Không gì và không ai khác có thể cứu
chúng ta khỏi các tội lỗi của chúng ta và sự phán xét xứng đáng của Đức Chúa
Trời định cho chúng ta. Nhưng để tạo cơ sở cho những tội nhân bị hư mất trước
đây có thể được ban cho sự cứu rỗi và sự sống, Chúa Giê-su đã phải trở thành
người, chịu đau khổ và chết trên thập tự giá của Gô-gô-tha. Qua công việc cứu
chuộc đã hoàn thành của mình, giờ đây Đức Chúa Trời có thể ban sự cứu rỗi cho
tất cả mọi người.
"Em-ma-nu-ên"
có nghĩa là "Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta". Trong thân vị của Chúa
Jêsus, Đức Chúa Trời đã đến trái đất và cư ngụ giữa dân Ngài. Đức Chúa Trời đã
ở với dân của mình. Chúa Jêsus đã hoàn toàn bày tỏ Đức Chúa Trời và cho chúng
ta thấy Đức Chúa Trời là Ai. Mọi đặc điểm của Đức Chúa Trời đều có thể được
nhìn thấy nơi Ngài. Ngài có thể nói đúng: “Ai đã thấy Ta, là đã thấy Cha” (Giăng
14: 9). Để giúp chúng ta có được mối tương giao hoàn toàn với Đức Chúa Trời,
Chúa Jêsus đã phải chịu đau đớn, chết, và sau đó được phục sinh sau ba ngày.
Bằng cách đó, sự sống đời đời có thể được ban cho chúng ta, giúp chúng ta có
thể thông công với Đức Chúa Trời (Giăng 17:3),
Mô hình của trái đất-
Khải Huyền 4:11, “Lạy Chúa của chúng tôi, là Đức Chúa Trời của chúng tôi, Chúa đáng được vinh hiển, tôn trọng và quyền năng, Vì Chúa đã dựng nên muôn vật, Và ấy là vì ý chỉ Chúa mà muôn vật đã có và được dựng nên.”
Nhiều năm trước, một
nhà khoa học đã sở hữu mô hình của hệ mặt trời của chúng ta. Mọi thứ được kết
nối với nhau bằng các bánh răng, và ngay khi bạn quay một tay quay, mọi thứ đều
quay trong sự hài hòa hoàn hảo.
Một người quen vô tín
đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy mô hình hoạt động như thế nào và muốn biết ai đã
xây dựng nó. "Không ai cả", nhà khoa học đã trả lời một cách khô
khan, "tất cả các bộ phận đã tự ráp với nhau một cách tình cờ."
Khi người quen cau
mày, nhà khoa học nói: “Với sự bắt chước này, tôi không thể thuyết phục bạn
rằng nó được tạo ra mà không có nhà phát minh. Tuy nhiên, bạn khẳng định rằng
bản gốc tuyệt vời của nó đã thành hình mà không có người sáng tạo!"- Nhà
khoa học đúng là có tư duy chín chắn khi trả lời như vậy.rất chu đáo ...
Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021
Ngai vàng của Đức Chúa Trời-
Khải Huyền 4:1-11
Giăng, nhà tiên kiến thay đổi vị trí của mình: từ đất lên
trời. Từ ngai Satan (Khải. 2:13) đến ngai Đức Chúa Trời (Khải. 4: 2). Ngôi
này là chủ đề của Khải Huyền 4. Chúng ta được cho biết bảy điều quan trọng về
ngai vàng này:
--Trên ngai có Đấng có vinh quang ấn tượng (Khải. 4:3), Ngài
được tôn thờ, Đấng xứng đáng để thực thi quyền lực, và là Đấng Tạo Hóa (Khải. 4:8-11).
(Câu 2 và 3)
--Xung quanh ngai vàng (theo chiều dọc) là một cầu vồng giống
như một viên ngọc lục bảo. Điều này nói về việc Đức Chúa Trời nhớ đến lòng
thương xót trong sự phán xét và cuối cùng mang lại phước lành cho trái đất là
không bao giờ tận diệt muôn loài trên đất (Câu 3.)
--Xung quanh ngai vàng (theo chiều ngang) là 24 ngôi, trên đó
có 24 vị trưởng lão mặc áo dài trắng và đội mão miện vàng. Các trưởng lão là
hình ảnh của những thiên sứ trưởng đã cai vũ trụ từ ban sơ, không phải ac1c thánh
đồ. (Câu 4.)
--Chớp nhoáng, tiếng nói và sấm sét phát ra từ ngai vàng. Điều
này nói lên sự phán xét từ trên cao xuống (câu 5)
--Trước ngai vàng (ngay lập tức) thắp bảy ngọn đuốc rực lửa,
đó là bảy Linh của Đức Chúa Trời. Điều đó nói về Linh của Đức Chúa Trời; Đấng
hoàn hảo - điều mà số bảy nói đến - chiếu sáng mọi sự và phán xét mọi sự theo
các tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời (xem Heb. 12:29). (Câu 5.)
--Trước ngai vàng là một vật gì giống như biển thủy tinh,
trong như pha lê. Đây là dấu hiệu của sự trong sạch không thay đổi được, trái
ngược với sự ô uế của trần thế (xem 1 Các Vua 7: 23 ). (Câu 6.)
Ở giữa và xung quanh ngai vàng là bốn sinh vật. Họ thể hiện
các nguyên tắc của Đức Chúa Trời về sự cai trị: sức mạnh (Sư Tử), sự kiên trì (con
bò), sự khôn ngoan (con người) và tốc độ (đại bàng). (Câu 6-7.)
Thật tuyệt vời biết bao khi được một lần trải nghiệm khung cảnh
này!
--
Không quở trách, mà cảnh báo--
Khải Huyền 3: 7-13
“Hãy giữ vững điều ngươi đã có, hầu chẳng ai đoạt lấy mão miện
của ngươi”. Đó không chỉ là “một chiếc mão miện” mà họ có thể làm mất, mà đó là
“vòng hoa”- chiếc mão miện đặc biệt của riêng bạn. Điểm đặc biệt của người Phi-la-đen-phi
là họ coi trọng những lẽ thật về Đấng Christ và hội thánh, trong những ngày mà
những lẽ thật này bị phủ nhận khắp nơi. Sau khi hiểu và thực hành lẽ thật về
Chúa Giê-su Christ và hội thánh, có một nguy cơ liên tục là họ sẽ từ bỏ lẽ thật
đó và bị kéo lôi vào sự hư hỏng, không thực tế và có thái độ tự mãn, kiêu căng đối
với Cơ đốc giáo đang bao quanh họ. Do đó, lệnh là, "hãy giữ vững". Sa-tan
sẽ làm bất cứ điều gì để lấy lại từ những người Phi-la-đen-phi có, là những gì
đã được khôi phục một cách vinh quang.
Kẻ thù sẽ hoan hỉ đưa ra nhu cầu của các tín đồ và hoàn cảnh
của tội nhân nếu hắn có thể khiến những người người Phi-la-đen-phi từ bỏ những
gì họ có. Sa-tan sẽ lập luận rằng có một số tín đồ ở Sạt-đe không dính bẩn quần
áo và có những tín nhân cần sự cứu rỗi ở Lao-đi-xê là những người nghèo khổ, mù
lòa và trần truồng. Hắn sẽ nói, "Hãy đến Sạt-đe và giúp đỡ những người tín
đồ ở đó, hoặc đến Lao-đi-xê và tiếp cận những tín đồ tội lỗi!" Nhưng để trở
lại với những gì Chúa lên án dưới một lý do nào đó, thì là từ bỏ những gì Chúa
thừa nhận. Chúa chống lại mọi lời dụ dỗ của kẻ thù bằng những lời cảnh báo: "Hãy
giữ vững". Nếu người Phi-la-đen-phi
giữ vững, Chúa chắc chắn sẽ mở rộng cửa để giúp đỡ họ, dù họ có sống ở đâu.
Không phải lời mời gọi “hãy giữ vững” gợi ý rằng thời kỳ phục
hưng thường đi sau thời gian suy tàn, với một số người rút lui và mất mão miện
sao? Thật may mắn biết bao khi được trở thành một người Phi-la-đen-phi, nhưng Phi-la-đen-phi
không phải là nơi trú ẩn an toàn cho những tín nhân, mà là một cộng đồng được
ban phước với sự công nhận của Chúa Giê-su và do đó là mục tiêu đặc biệt cho
các cuộc tấn công của kẻ thù, là ma quỷ. Vì vậy, cần phải tiếp tục chiến đấu
cho đức tin và giữ lấy những gì mình đã nhận được.
Thứ Ba, 17 tháng 8, 2021
CHÚA GÕ CỬA-
Khải Huyền 3:20, “Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, thì Ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người và người với Ta”.
Trong câu này từ thư gửi cho sứ giả hội thánh Lao-đi-xê,
chúng ta tìm thấy một hoạt động gấp bảy lần của Đấng Christ:
--“Kìa—(nầy)” - Chúa là Đấng đòi hỏi chúng ta chú ý đến Ngài.
--“Tôi đang đứng ngoài cửa” – Ngài là Đấng kiên nhẫn chờ đợi.
--“Mà gõ” – Ngài mong muốn được bước vào.
--“Nếu ai nghe tiếng Ta” – Ngài phán với tấm lòng của chúng
ta.
--“Ta sẽ vào cùng người ấy” – Chúa là Đấng luôn sẵn sàng chúc
phuớc.
--“Ăn bữa tối với người” – Ngài là Đấng mà chúng ta có thể có
mối tương giao trong hoàn cảnh của mình.
--" và người với Ta" - Ngài là Đấng mà chúng ta được phép có mối tương
giao liên quan đến những sở thích, những sự quan tâm của Ngài.
Chúa cũng ở tại cửa tấm lòng của chúng ta. Ngài gõ cửa bao
lâu rồi? Chúng ta đã từ chối sự thông công của Ngài trong nhiều năm (trong một
số lĩnh vực nhất định của cuộc sống của chúng ta) phải không? Chúng ta có thờ ơ
như cô dâu trong sách Nhã ca mà chàng rể bị khước từ mở cửa (Nhã ca 5: 2)
không? Nhưng ân điển của Chúa thật tuyệt vời: khi cuối cùng chúng ta mở lòng ra
với Ngài, thì Ngài sẽ đến và chúng ta có thể được thông công với Ngài.
NÓNG CHÁY, LẠNH LÙNG, HÂM HẨM-
Khải huyền 3: 15-16 “Ta biết các công việc con; con không lạnh cũng không nóng; Ta ước gì con nóng hoặc lạnh hẳn thì hơn. Vì con hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh,nên Ta sắp nhổ con ra khỏi miệng Ta".
Đôi khi người ta nghe điều gì đó như sau về hai câu Kinh thánh
này:
Vấn đề của Lao-đi-xê là họ thờ ơ với
Đấng Christ: không có lòng sùng kính cháy bỏng đối với Đấng Christ (“nồng nhiệt”);
và không có sự từ chối ("lạnh lùng") – vì lạnh lẽo vẫn sẽ tốt hơn và
mang lại nhiều triển vọng cho sự chữa bệnh, hơn là sự thờ ơ, sự lãnh đạm kinh tởm.
Điều đáng ngạc nhiên là "lạnh lùng" đôi khi được hiểu
theo cách này. Bởi vì cái lạnh này thực sự có thể là ước muốn của Chúa Giê-su
(“Ồ, ngươi đã ...”!)? Có thể có một sự tận tâm cháy bỏng và một lời từ chối lạnh
lùng, cởi mở ở cùng một mức độ (và trên hết, sự lạnh lùng được ưu tiên chú ý đến
hơn sự nồng nhiệt)?
Ý nghĩa phải khác. Bối cảnh “lịch sử” rõ ràng có thể có lời
giải thích hữu ích ở đây: Thành phố Lao-đi-xê nhận được nước nóng và lạnh. Khi nước
chảy đến thị trấn, nước lạnh đã được làm nóng và nước nóng đã nguội - cả hai đều
ấm ấm. Lao-đi-xê cũng được cho là có suối nước âm ấm. Nước âm ấm là điều kinh tởm,
bạn nhổ nó ra một lần nữa (cư dân của Lao-đi-xê biết điều đó từ kinh nghiệm). Hoặc cái gì đó
phải lạnh thì cứ lạnh (ví dụ như một ly bia) hoặc một cái gì đó nóng thì phải nóng
(nghĩ đến một tách cà phê nóng) - nếu không thì nó vô dụng.
Và điều đó giờ đây có thể dễ dàng kết hợp với cộng đồng dân
Chúa ở Lao-đi-xê. Chúa không thể làm gì với giáo hội ấy, theo
bất kỳ cách nào. Vì vậy, Chúa sẽ cắt đứt mọi liên hệ với Lao-đi-xê. và từ chối
mọi sự thừa nhận rằng cộng đồng ấy là thứ dành cho Ngài.
Bức thư gửi cho Lao-đi-xê-
Khải huyền 3: 14-22-
Sau đây là phần khái quát ngắn gọn về những thông điệp chính
của bức thư gửi cho Lao-đi-xê. Thật đáng ngạc nhiên là làm thế nào mọi thứ có
thể được kết nối với thân vị của Chúa Giê-su.
Sự vinh hiển của Đấng Christ: Ngài là Đấng sẽ làm cho mọi sự
trở nên hoàn hảo, là Đấng hiện đang thành tín và thành thật và Đấng trong sự phục
sinh của Ngài là sự khởi đầu sự sáng tạo mới của Đức Chúa Trời. (Khải. 3:14)
Sự phán xét của Chúa Giê-su Christ:- các công việc tẻ nhạt, lời
nói tự kiêu và tình trạng được định tính chất bởi sự ngu dốt, nghèo đói, lõa lồ
và mù lòa (Khải. 3:15,16)
Lời khuyên của Đấng Christ: Nhận lấy của cải thật, sự che phủ
thích hợp và sự chữa lành bệnh đau mắt từ Chúa Jêsus. (Khải. 3:17,18)
Kỷ luật của Đấng Christ: Những ai được Chúa Jêsus yêu thương
vì mối quan hệ sẵn có sẽ bị kết tội bởi lời nói của Ngài và bị trừng phạt bởi
bàn tay của Ngài. (Khải. 3:19)
Sự theo đuổi của Đấng Christ: -Đấng Christ kiên nhẫn đứng và
gõ cửa cuộc đời của cá nhân, nói những lời đầy ân sủng. (Khải. 3:20)
Lời hứa của Đấng Christ: Ai chiến thắng sẽ được giống như
Chúa và được Chúa thưởng công: ngồi trên ngai vàng của Ngài. (Khải. 3:21)
SAO MAI-
--Ê-sai 14:12, “How art thou fallen from heaven, O Lucifer, son of the morning…”
Bản Hiệu đính, “Hỡi sao mai,
con trai của rạng đông, Sao ngươi từ trời rơi xuống”--Bản Công giáo, “Làm sao
ngươi đã từ trời sa xuống, hỡi Sao mai, con của hừng đông?”- Bản TKTC; “Ngươi
đã sa xuống từ trời như thế nào, Sao mai ôi, con trai của hừng đông!”
Trong tiếng Hê-bơ rơ, chữ “sao mai”ở đây là הֵילֵל đọc là hêylêl,
có nghĩa là: brightness—sự chói sáng. Bản Vulgate tiếng Latin dịch là Lucifer (kẻ
mang ánh sáng), còn các bản tiếng Anh khác dịch là “sao mai”. The
Hebrew for this expression is translated “Lucifer” (“light-bringer”) in The
Latin Vulgate. Chữ Lucifer tương đương chữ phōsphoros trong 2 Phi-e-rơ 1:19.
---Khải huyền 22:16, “Ta là
Jêsus, …Ta là Cội gốc và Hậu tự của Đa-vít, là sao mai sáng chói.”—Khải 2: 28, “Ta
sẽ cho người ngôi sao mai”—ngụ ý Chúa cho tín nhân đắc thắng ngôi sao mai, là được
Chúa cất lên trước khi mặt trời mọc, chứ người tín đồ không trở thành ngôi sao
mai.
--2 Phi e-rơ 1:19, “Chúng ta
lại có lời tiên tri càng chắc chắn hơn, là lời anh em đáng nên để ý đến, như ngọn
đèn soi sáng trong nơi tối tăm, cho đến chừng rạng đông và sao mai mọc lên
trong lòng anh em”.
Chữ “sao mai” ở đây theo nguyên ngữ là φωσφόρος
đọc là phōsphoros, Anh văn là phosphorus—Chữ nầy có nghĩa phốt -pho, chất phát
lân quang, thuốc diêm. Hầu hết các bản Kinh thánh Anh văn, Việt văn đều dịch
sai là “sao mai”.
Tóm lại chỉ có Chúa Giê-su là Sao Mai, tín nhân
chiến thắng sẽ thấy Ngài là Sao mai hiện ra trước khi mặt trời mọc. Còn sa- tan
chỉ là Lucifer, là kẻ mang ánh sáng, không phải sao mai. Còn 2 Phiero 1:19, nói
rạng đông và vì sáng, như lân tinh phát sáng
lên trong lòng người chuyên cần đọc Kinh thánh, nhất là đọc lời tiên tri, như sách
Khải huyền là chính yếu. Khải 1:3, “Phước cho kẻ đọc cùng kẻ nghe lời tiên tri
nầy, và giữ những điều đã chép ở trong đó; vì thì giờ đã gần rồi” -
Thứ Hai, 16 tháng 8, 2021
Đó Là Một Khoảng Thời Gian Tồi Tệ--
(Hội Thánh Lao-đi-xê)
Thẩm phán 17:1-21,25, “Đương lúc đó, không có vua trong Israel; ai nấy làm theo ý
mình lấy làm phải”
Khải Huyền 3: 14-22, “Ta biết
công việc của ngươi, ngươi không lạnh cũng không nóng. Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng!
Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng
không lạnh, nên Ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng Ta. Ngươi nói: Ta giàu rồi, ta đã được giàu có rồi,
không cần chi nữa,song ngươi không biết rằng mình là kẻ khốn khổ, đáng thương,
nghèo ngặt, đui mù, loã lồ”.
Chữ Lao-đi-xê là Λαοδικεύς đọc là Laodikeus gồm
hai chữ “lao” là dân chúng và dikeus là ý kiến, là phán đoán--- vậy “Lao-đi-xê”
có nghĩa là ý kiến, cách nhìn, cách đánh giá, cách phán đoán của dân chúng.
Theo lịch sử, những sự kiện
được mô tả trong các chương cuối cùng của sách Các quan xét đã xảy ra đều do nhiều ý kiến
khác nhau của dân chúng. Điều này rõ ràng khi các chương 17 và 18 nói về hậu tự
của Môi-se và các chương 19-21 về hậu tự của A-rôn. Chắc chắn có một số lý do cho
sự sai lệch này so với niên đại. Một trong số lí do, đó là có sự song song với
lịch sử giáo hội có thể được duy trì. Bởi vì toàn bộ sách Các thẩm phán có thể
được phù hợp với bảy lá thư trong Khải Huyền 2 và 3. Còn các chương 17-21 phù hợp
với hội thánh Lao-đi-xê, ở lá thư cuối cùng, và do đó 5 chương đó phải ở cuối
sách.
Chúng tôi muốn chỉ ra một số
điểm đáng chú ý từ Các Quan Xét 17:-21: cho thấy mối liên hệ với Lao-đi-xê và
cũng là “những ngày sau cùng” (Khải Huyền 3:14 ; 2 Ti-mô-thê 3: 1-5).—“ Hãy
biết rằng trong ngày sau rốt sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều sẽ ái kỷ, ham tiền, vênh vang,
kiêu ngạo, nhạo báng, bội nghịch cha mẹ, vong ân phụ nghĩa, không thánh khiết,
3 không thân tình, cừu hờn, hay nói gièm, không thìn mình, dữ tợn, không ưa mến
điều lành, lường thầy phản bạn, táo bạo,
lên mặt, ưa thích sự vui chơi hơn là kính mến Đức Chúa Trời, bề ngoài hình như kỉnh kiền, nhưng thực ra đã
chối bỏ quyền năng của sự ấy. Những kẻ thể ấy con hãy lánh xa đi”.
Những lời của Phao -lô ở 2
Ti-mô thê 3 phản chiếu tình trạng ở Các quan xét 17:21:, và cũng chi tiết hóa tình
trạng tồi tệ của giáo hội ngày sau cùng khi xuống cấp Lao-đi-xê như hiện nay.
Mi-ca, người từ vùng núi
Ép-ra-im, ăn trộm của mẹ mình (Các quan xét 17:2). Từ đó chúng ta thấy: có tình
trạng thiếu sự kính trọng đối với cha mẹ (xem 2 Ti-mô-thê 3:2).
Mi-ca và mẹ của anh hoàn
toàn không có ý thức gì về sự xấu xa của hành vi trộm cắp (Các Quan Xét 17:2).
Điều này cũng có thể được tìm thấy trong nhiều trường hợp ngày nay. Những lời
bào chữa đến từ lĩnh vực tâm lý học, nên họ ăn cắp, tham những kho thánh của Chúa
cách tự nhiên.
Mi-ca có nhà thờ phượng riêng
và một buổi lễ do anh tự nghĩ ra và sắp xếp (Các Quan Xét 17:4-6). Thật không
may, phong cách thờ phượng này cũng phổ biến ngày nay. Ngày nay mở một hội thánh
còn dễ hơn mở một quán ăn.
Một người thường tìm kiếm sự
thành công và sự công nhận của mọi người và hoàn toàn quên, giống như Mi-ca, đặt
câu hỏi về lời của Đức Chúa Trời và lấy đó làm cơ sở. Ngày nay người ta tự thiết
lập hội thánh, tự xưng ông nầy ông nọ, và phong chức thánh cho nhau cách bữa bãi.
Ý nghĩ rằng một người phụng
sự Đức Chúa Trời theo cách của mình và hoàn toàn hài lòng với chính mình (xem
Các Quan Xét 7:13; cũng lưu ý đến công thức trong 18:10 và 19:19! – “chẳng thiếu
gì cho chúng tôi cả” –và Khải
Huyền 3:17- “Ngươi nói: Ta giàu rồi, ta đã được giàu có rồi, không cần chi nữa”
--cũng có thể được thấy trong người Lê-vi trẻ tuổi, từ câu 7 và toàn bộ lời mô
tả cho đến hết chương 18.
Chương 19:2 kể về sự gian
dâm của vợ lẽ người Lê-vi. Hành động khủng khiếp này không được thương tiếc.
Không có sự ăn năn và hối cải từ chính người phụ nữ, từ người chồng và từ cha của
người phụ nữ (Các Quan Xét 19: 3). Tội gian dâm được xem nhẹ.
Khi người Lê-vi này đến thành
Ghi-bê-a, không ai mời anh ta vào nhà (Các quan xét 19:15, 18). Đó là chủ nghĩa
vị kỷ thuần túy ngày hôm nay. Chúng ta nghĩ về: “Người ta sẽ ích kỷ” (2
Ti-mô-thê 3: 2).
Khi đến thăm một ông già, người
Lê-vi phải trải qua một điều kinh khủng: khi những người đàn ông trong thành phố
vây quanh nhà và muốn quan hệ tình dục với khách lạ nam (Các Quan Xét 19:22). Đồng
tính luyến ái được thực hành một cách công khai tại Ghi-bê-a.
Người Lê-vi hi sinh vợ lẽ của
mình cho những kẻ gian ác này (Các Quan Xét 19:25). Đây là bằng chứng của một
cuộc hôn nhân đau khổ, trong đó không thể nói đến tình yêu đích thực. Tình yêu
tự nhiên vắng bóng (2 Ti-mô-thê 3: 3).
Người phụ nữ này sau đó bị
hãm hiếp đến chết (Các quan xét 19:25). Các phương tiện truyền thông thời đó phải
đưa tin lạm dụng tình dục nghiêm trọng dẫn đến tử vong.
Chồng của người phụ nữ sau
đó phân chia thi thể vợ bé và gửi đi khắp đất nước. Một cảnh như trong phim kinh
dị. Thật là vô nhân đạo!
Các chi phái khác trong nước
nổi dậy chống lại cái ác (Các Quan Xét 20: 1-2). Không có gì sai với điều đó.
Tuy nhiên, điều đáng nói là họ chỉ nổi dậy khi quyền con người bị xâm phạm, chứ
không phải khi luật pháp bị vi phạm (trong chương 17 và 18)! - Tuy nhiên, ít nhất,
còn một cảm giác với cái ác được tìm thấy trong các bộ tộc khác. Do đó, người
ta có thể so sánh những bộ tộc này phù hợp với “dân sót” từ Lao-đi-xê trong Khải
Huyền 3:19- “Phàm kẻ ta yêu mến thì ta bẻ trách sửa trị;vậy, hãy sốt sắng
và ăn năn đi”-. Dân sót này trong Lao-đi -xê ngày nay đang được Chúa thanh tẩy
- điều mà các bộ tộc Israel còn lại cũng phải học trong Các Quan Xét 20.
Trong Sách Các quan xét chương
21 sau đó, chúng ta thấy một cách tiếp cận hoàn toàn sai lầm khi chọn đối tác.
Và toàn bộ bức tranh đáng buồn
đó kết thúc với những lời: “Đương lúc đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy
làm theo ý mình lấy làm phải”(Các Quan Xét 21:25).
Ngay cả khi người ta không
thể hiểu trực tiếp sự song hành với Lao-đi-xê như vậy, thì những chương đáng buồn
này trong Sách Các Quan Xét có một địa chỉ rất rõ ràng đối với trái tim của
chúng ta mà chúng ta không nên bỏ qua. Chúng ta phải cẩn thận để không bị đồng
nhất với thế giới sa đọa, bạo hành, vô luân, lõa lồ này, mà phải làm cho tâm
trí minh được đổi mới bằng Lời Đức Chúa Trời (Rô-ma 12: 2).
Chủ Nhật, 15 tháng 8, 2021
Những Người Đắc Thắng Trong Phi-la-đen-phi-
Khải Huyền 3:12 “Kẻ đắc thắng, Ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ Đức Chúa Trời Ta, và người không còn ra khỏi đó nữa; Ta cũng sẽ lấy danh Đức Chúa Trời Ta, và danh của thành Đức Chúa Trời Ta, là Giê-ru-sa-lem mới ở trên trời, từ Đức Chúa Trời Ta mà xuống, cùng danh mới của Ta, mà viết trên người”(Khải Huyền 3:12).
Chúng ta tìm thấy trong mỗi
lá thư, người chiến thắng được ban cho một phần thưởng. Và phần thưởng này
tương ứng với những khó khăn phải vượt qua trong từng trường hợp của họ. Điều
này cũng áp dụng cho bức thư gửi Phi-la-đen-phi
trong câu Kinh thánh đã được trích dẫn ở trên.
Những tín nhân ở Phi-la-đen-phi
(và những người thuộc “Phi-la-đen-phi” trong lịch sử giáo hội) phải bằng lòng với
sức mạnh ít oi của mình (câu 8). Họ không có sự bày tỏ về quyền năng của Đức
Chúa Trời ở giữa họ và họ đã (và đang) ít được người ta chú ý. Nhưng Chúa sẽ biến
những kẻ chinh phục nầy trở thành cột trụ trong đền thờ (thành thánh) của Chúa --
cột trụ chắc chắn nói lên sức mạnh.
Có một hệ thống tôn giáo ở Phi-la-đen-phi
("nhà hội (Do thái giáo) của Sa-tan," câu 9), trong đó không có chỗ
cho các người trung tín. Ngược lại: bạn bị tấn công bởi những người tôn giáo này.
Họ tiếp lấy vị trí của mình “bên ngoài trại” và mang sự việc bị lăng nhục của Đấng
Christ (Hê-bơ-rơ 13:13). Nhưng những người đắc thắng sẽ không bao giờ thoát ra
ngoài đền thờ (thành thánh, không phải giáo hội) của Đức Chúa Trời.
Đối với các tín nhân ở Phi-la-đen-phi,
Chúa phán: “Các ngươi đã giữ lời Ta, không chối danh Ta” (câu 8) “... và [đã]
giữ lời nhẫn nạn của Ta” (câu 10). Chúa dùng từ ngữ “của Ta” ba lần -- dân Phi-la-đen-phi
đã có và rất quý trọng thân vị của Đấng Christ. Có đáng kinh ngạc không khi từ
ngữ “của Ta” xuất hiện năm lần trong phần
thưởng của những người chiến thắng tại Phi-la-đen-phi? Chúng ta đọc về "Đền
thờ của Đức Chúa Trời Ta ... Danh của Đức Chúa Trời Ta...
danh thành phố của Đức Chúa Trời Ta ... và Danh mới của Ta".
Đức Chúa Trời biết rõ những
khó khăn mà bạn đang gặp phải. Ngài biết những nan đề và thách thức chung trong
thời đại của chúng ta, cũng như những khó khăn cụ thể của bạn nơi Chúa đã đặt bạn
sống. Bạn có phải là một người đắc thắng không? Rồi Đức Chúa Trời sẽ ban cho bạn
một phần thưởng xứng đáng khiến bạn thích thú mãi mãi. Vâng, lòng trung thành có
giá trị của nó!
CON CỦA SA-LÔ-MÔN HAY CON CỦA NA-THAN
(Con của Giô -sép hay Con của Ma-ri?)
Đấng Mê-si-a (Đấng Christ), hay Đấng Cứu Thế được Đức Chúa Trời
hứa cùng A-đam, phải là hậu tự của người nữ. “Ta sẽ làm cho mầy và người nữ,
Dòng dõi mầy và dòng dõi người nữ thù nghịch nhau. Người ấy sẽ chà đạp đầu mầy,
Còn mầy sẽ cắn gót chân Người”.
Sau nhiều ngàn năm,
ngày nay dân Chúa biết rõ “mầy” là sa-tan, con rắn; “dòng dõi (hậu tự) mầy” là
antichrist, “dòng dõi người nữ” là Đấng Mê-si-a (Đấng Christ). Nhưng vào thời
Chúa Giê-su, dân Do thái không nhìn nhận “ người nữ” là Ma-ri. Họ không biết
Chúa Giê-su được trinh nữ Ma-ri sinh ra tại Bết-lê-hem. Họ tưởng Chúa Giê -su
là Con của Giô-sép qua Ma-ri là vợ. Họ nói, “Đó há chẳng phải là con thợ mộc
chăng? Mẹ người há chẳng phải là Ma-ri, và anh em người há chẳng phải là
Gia-cơ, Giô-sép, Si-môn, Giu-đa sao? Còn chị em người há chẳng ở với chúng ta
đây ư?”(Mathio 13:55-56). Dù tưởng lầm Chúa Giê-su là Con của Giê-sép, họ cũng
chối bỏ Ngài.
Vua Đa-vít sống với Bát-sê-ba
có 5 người con, chết một con đầu, còn 4 con trai là: “Đây là những con trai
Đa-vít sanh tại Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn, cộng được
bốn người, đều là con của Bát-sua, con gái của A-mi-ên” (1 Sử kí 3:5). Trong 4
người con trai muộn nầy của Đa vít, Sa-lô-môn, nhỏ nhất, lên làm vua kế vị
Đa-vít, còn Na-than chỉ làm hoàng tử, vương tử mà thôi.
Trong gia phả của Chúa
Giê-su do sứ đồ Mathio chép ở Mathio 1:17, Chúa ta thấy Giô-sép là con của
Đa-vít qua nhánh Sa-lô-môn, là nhánh dòng vua. “Gie-sê sanh Đa-vít là vua.
Đa-vít với vợ của U-ri sanh Sa-lô-môn---Gia-cốp sanh Giô-sép là chồng của
Ma-ri, còn Ma-ri thì sanh Đức Jêsus, gọi là Christ” (Mathio 1: 6,16).
Có 2 điểm chúng ta phải
lưu ý. Chúa Giê-su không thể người thừa kế vương quyền của vua Đa-vít qua
Giô-sép, dù sách Mathio gọi Ngài là “Con Đa-vít” đến 7 lần. Vì Ngài không phải
là Con theo huyết thống của Giô-sép. Hơn nữa, Giô-sép là một tội nhân. Điểm thứ
2 là vương vị của nhà Sa-lô-môn đã bị Đức Chúa Trời hủy bỏ vĩnh viễn. Cho nên,
nếu hoàn cảnh thuận tiện thì Giô-sép cũng không thể được Đức Chúa Trời chấp nhận
lên ngôi hoàng đế, dù ông là con chính thức của vua Sa-lô-môn.
Giê-rê-mi ghi lại phán
quyết cắt bỏ vương vị nhà Sa-lô-môn như sau, “Vậy Giê-cô-nia nầy há phải cái
bình khinh dể và bị bể sao? Há phải cái bình không ai ưa thích sao? Làm sao nó
và dòng dõi nó bị ném ra, bị quăng trong một xứ mình chưa từng biết? Đức
Giê-hô-va phán như vầy: Hãy ghi người này trong những kẻ không có con cái,
trong những kẻ cả đời không thạnh vượng; vì con cháu nó sẽ không một người nào
thạnh vượng, ngồi ngai Đa-vít và cai trị trong Giu-đa nữa!” (Giê. 22:28, 30).
Gia phả Mathio 1:11
chép về “Giô-sia sanh Giê-chô-nia và anh em người vào lúc bị dời qua Ba-by-lôn”.
Vua nầy là con của vua Giê-hô-gia-kim, có một tên khác nữa là Giê-hô-gia-kin.
Giê cô nia là con của vua Đa- vít qua nhánh Sa-lô-môn, là tổ phụ của Giô-sép, mất
vương vị đời đời.
Trong gia phả do Lu-ca
chép lại trong Lu ca chương 3, thì Ma-ri là con của vương tử Na-than, mà
Na-than là con của vua Đa-vít. Giô-sép là con rễ của Hê-li, nên đúng ra Lu-ca
phải chép tên Ma ri vào thay cho tên Giô-sép.
Đọc Gia phả trong Lu ca chương 3 chúng ta thấy Ma-ri và bố đẻ Hê -li,
cũng là các con của vua Đa vít, theo nhánh Na-than. Lu ca 3: 31 “Na-than con
Đa-vít”. Thế thì Giô sép, dù là con của Đa vít, nhưng vương vị dòng Sa-lô-môn bị
Chúa truất phế vĩnh viễn. Còn nói theo pháp lý, trinh nữ Ma-ri, con vua Đa-vít,
theo nhánh vương tử Na-than, nên Ma ri đích thực là công chúa, là nữ vương hợp-pháp.
Mà Chúa Giê-su là con của Ma-ri, sinh ra bằng một phép lạ, Ngài có đủ tư cách
thừa kế vương quyền nhà Đa vít qua mẹ mình vậy.
Thiên sứ Gáp -ri-ên nói cùng trinh nữ Ma-ri, “Nầy, ngươi sẽ
thọ thai, sanh một con trai, đặt tên là JÊSUS. Con ấy sẽ là lớn, được gọi là
Con của Đấng Chí Cao; Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi của Đa-vít tổ
phụ Ngài. Ngài sẽ làm Vua nhà Gia-cốp
cho đến đời đời, nước Ngài không cùng” (Lu ca 1:31-33).
Chúa Giê-su là hậu tự
người nữ, người nữ đó là trinh nữ Ma-ri, sinh con bằng phép lạ, nhưng cô đã không
truyền dòng máu và bản chất tội lỗi của mình cho Chúa Giê-su. Ma-ri chỉ cung cấp
“xương và thịt” cho Ngài mà thôi (Hê. 2:17, Lu. 24:39).
Nhưng có Gia-cơ, con
ruột của Giô-sép, em của Chúa Giê-su, lại không hiểu những lời chúng ta tương
giao trên đây, nên ông tưởng mình là “hoàng đế” thuộc dòng dõi Sa-lô-môn, và đã
cậy quyền thế của Anh mình và tác quái tại hội thánh Jerusalem cùng gây khủng bố
các hội thánh dân ngoại. Ông đã “thanh trừng” sứ đồ Phi-e-rơ, đuổi Phi-e-rơ đi
Babylon, Iraq. Gia cơ đã cầm quyền chủ trì giáo hội nghị lần I (Công 15) và cai
trị các hội thánh tại xứ Giu-đê, (Galati 2:9). Những kẻ từ Gia cơ gây khủng bố, đem sự khiếp sợ trên các
hội thánh mọi nơi, “Bởi trước khi mấy kẻ từ Gia-cơ chưa đến, thì ông (Phi-e-rơ)
ăn chung với người Ngoại bang nhưng khi họ đã đến thì ông lại lui riêng ra, vì
sợ những kẻ chịu cắt bì” (Galati 2: 12).
Tóm lại Chúa Giê-su là Con của Vua Đa-vít, theo nhánh Na-than
và trinh nữ Ma-ri. Ngài là hậu tự người nữ đồng trinh Ma-ri, không phải là con
của Giô-sép, hay là Con của Sa-lô-môn. Ngài là Đấng Mê-si-a chân chính của
Israel, là Đấng Christ, là Cứu Chúa chân thật của cả nhân loại.
August 14, 2021
BẠN CÓ ĐỊNH CƯ TRÊN TRÁI ĐẤT NẦY?
Có một phương pháp học bất cứ sách nào trong Kinh thánh là bạn tìm ra những từ ngữ chủ yếu của sách đó, rồi nghiên cứu ý tưởng trọng tâm mà từ ngữ đó đóng góp vào quyển sách đó. Hôm nay tôi tương giao về từ ngữ katoikeo--to settle down --định cư-- trong sách Khải huyền. Kinh thánh Việt nam chỉ dịch từ ngữ nầy là “ở”, mất hết ý nghĩa. Từ ngữ nầy xuất hiện đúng 12 lần trong Khải Huyền.
--Khải. 2:13, “Ta biết nơi
ngươi (ở) định cư, tức là chỗ có ngôi của Sa-tan;…”
Sống trong thành phố có ngôi
của sa-tan, mà tín nhân Hội thánh Bẹt găm lại định cư ở đó.
--Khải. 3:10, “Vì ngươi đã
giữ lời của sự nhẫn nại ta, ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách, là giờ sắp
đến trong khắp thiên hạ, để thử những người ở (định cư) trên trái đất”.
Đại nạn sẽ đổ xuống trên thế
nhân định cư, còn thiên dân trưởng thành sẽ được biến hóa, cất lên thoát đại nạn.
--Khải. 6:10, “Chúng đều kêu
lớn tiếng rằng: “Lạy Chủ Tể, là Đấng Thánh và chân thật, Ngài không xét đoán và
chẳng báo trả huyết chúng tôi nơi những kẻ ở (định cư) trên trái đất cho đến chừng
nào?.
Những thánh đồ đã tử đạo khiếu nại Chúa báo
thù cho họ nơi những kẻ định cư trên trái đất.
--Khải 11:10 a, “Những kẻ ở
(định cư) trên trái đất đều vui vẻ về họ, mừng rỡ và tặng lễ vật cho nhau…”.
Thế nhân định cư trên trái đất
vui mừng khi Ê-li và Môi-se bị giết trong đại nạn, xem Khải 11.
--Khải. 11:10 b, “bởi hai
tiên tri đó đã làm thống khổ cho những kẻ ở (định cư) trên trái đất”-
Lời giảng của hai tiên tri
gây khổ não cho dân cư thế giới. Sứ đồ Giăng nhấn mạnh chữ “định cư” đến 2 lần
trong câu Kinh thánh nầy.
--Khải 13: 8, “Hết thảy những
kẻ ở (định cư) trên trái đất đều sẽ thờ lạy nó (antichrist)”.
Dân thế giới định cư trên đất
đều thờ lạy antichrist.
--Khải 13:12, “Nó khiến trái
đất và những kẻ ở (định cư) trên đó thờ lạy con thú thứ nhứt, là thú có vít
thương đến chết đã được chữa lành”.
Là tôn
giáo vụ của tiên tri giả-
--Khải. 13: 14 a, “Nó lừa dối
những kẻ ở (định cư) trên trái đất bằng những dấu lạ nó đã được phép làm ra trước
mặt con thú”.
Thế nhân là dân định cư bị sa tan lừa dối, tín
nhân không bị lừa.
--Khải 13:14 b, “và bảo những
kẻ ở (định cư) trên trái đất phải tạo hình tượng cho con thú đã bị thương bằng
gươm mà lại còn sống”
Bản Việt Văn dịch sót câu: “những
kẻ ở (định cư) trên trái đất” lần hai.
--Khải 14: 6, “Tôi đã thấy một
thiên sứ khác bay giữa trời, có Tin Lành đời
đời, để giảng cho những kẻ ở
(định cư) trên trái đất”.
--Khải. 17:2, “Các vua trên trái
đất đều hành dâm với nó, và những kẻ ở (định cư) trên trái đất đều bị say sưa
vì rượu dâm loạn của nó”.
--Khải 17: 8, “Những kẻ ở (định
cư) trên trái đất, mà từ buổi sáng thế không có ghi tên trong sách sự sống, khi
thấy con thú, thể nào nó trước có, rày không, sau lại hiện đến, thì đều sẽ lấy
làm lạ”.
Xưa kia tổ phụ đức tin của chúng ta, là Áp-ra-ham,
đã “ở trong trại --tự nhận mình là lữ khách và kiều dân trên trái đất” (Heb 11:
8, 13). Sứ đồ Phi-e-rơ cũng khuyên các Cơ Đốc nhân ngày nay, “Hỡi kẻ rất yêu dấu,
anh em như lữ khách, kiều dân…”(1 Phiero 2:11).
Tôi không cuồng tín, mê muội khuyên anh chị em
sống trong lều trại theo nghĩa đen tạm bợ. Chúng ta phải xây nhà cửa vững chắc,
đẹp đẽ, hợp vệ sinh, kiên cố để chống trộm đạo, tránh mưa tránh nắng. Nhưng đáng
tiếc là nhiều tín nhân giàu có vật chất ngày nay, bỏ mất nếp sống lữ khách, như
tín đồ hội thánh Bẹt găm, họ đã định cư trên trái đất nầy, là chỗ có ngôi của
sa-tan. Rất nhiều tín đồ ở vùng sâu vùng xa có chỗ ở tạm bợ là những ngôi nhà lợp
tranh, nền đất và vách bằng đất nhồi rơm. Còn rất nhiều tín nhân đại gia lại xây
gia cư của họ thành biệt thự, như dinh thự, cung điện của vương hầu khanh tướng.
Họ muốn định cư trên trái đất nầy cách lâu dài. Ngày kia khi tai họa đến, họ sẽ
bị chôn chân, hai chân mọc rễ, như bà Lót tại Sô-đôm, ngã chết, không thể được
biến hóa cất lên trời được.
Anh chị em ơi, các bạn là lữ
khách, là kiều dân hay là thiên dân mà định cư trên trái đất nầy?
August,13, 2021
CON TRAI VÀ CON CÁI—(SON and CHILD)
Để am hiểu phúc âm Mathio, các bạn phải thông hiểu hai từ ngữ “con” và “con cái” theo nguyên ngữ Tân ước Hi lạp. Các bản kinh thánh Việt văn, và cả đến bản King James dịch rất sai lầm, cho nên dân Chúa ngộ nhận ý nghĩa, rồi các giảng sư cũng giảng dạy lời Kinh thánh không thấu tình đạt lý được. Tôi không kiêu ngạo, khoe khoang hay hồ đồ nói như vậy. Thực ra các bản dịch sai lầm, lẫn lộn là vì người dịch Kinh thánh không hiểu ý nghĩa hai tiếng Hi lạp nầy mà thôi.
Có hai từ ngữ được sử dụng nhiều lần trong
sách Mathio và Kinh tân ước là :
1/.Con hay Con trai : Chữ Hi
lạp là υἱός, đọc là uihos, có nghĩa là son, tiếng Việt là con, hay con trai.
Nhiều bản Việt văn dịch chữ Son nầy là con cái (child). Vì Son, là con, nói lên
người con đã trưởng thành, có quyền thừa kế, có danh phận, có quyền, có địa vị làm
con đúng pháp lý thế giới, cũng được gọi là Con trưởng thành của Đức Chúa Trời.
2/.Con Cái: Chữ Hi lạp là Τέκνον
đọc là teknon, dịch ra Anh văn là child, con cái, con trẻ. Child nói lên người
con được sinh ra theo huyết thống, mang bản chất di truyền của cha đẻ. Child là
con cái, con còn nhỏ, chưa trưởng thành. Tự điển Lạc Việt online định nghĩa chữ
“child” là con trai hay con gái dưới tuổi dậy thì.
Các bạn cần lưu ý một điều hệ trong nữa, trong
ngôn ngữ Hê-bơ-rơ Cựu Ước và tiếng Hi lạp Tân ước không hề có chữ “cháu”.
Thí dụ bạn và các con bạn đã tin Chúa, tất cả đều
là con của Đức Chúa Trời, đừng ngang hàng trước mặt Ngài, do Chúa trực tiếp
sinh lại từng người.
Lót là cháu Áp-ra-ham mà
Sáng thế ký 14:14 chép, “And Abram heard that his brother was taken captive”—"khi
Áp-ra-ham đã nghe anh em mình (Lót) đã bị cầm tù”-
-- Mathio
1:1, “Gia phổ Đức Chúa Jêsus Christ, con cháu Đa-vít và con cháu Áp-ra-ham”(Bản
TT). -Bản truyền thống dịch sai câu nầy. Theo nguyên văn câu nầy là “Gia phổ của
Jêsus Christ, Con (Son) Đa-vít và Con (son) Áp-ra-ham”. Vì nếu Chúa Giê-su là
con cháu (child) của Đa-vít, của Áp-ra-ham thì Ngài đã mang huyết thống, chung
một dòng máu, chịu di truyền bản chất tội lỗi của hai tổ phụ đó hay sao? Đó là
tà thuyết, phạm thượng vào thần vị (deity) và thần tánh (divinity) của Chúa
Giê-su. Còn nhân tánh của Ngài cũng là con người vô tội.
--Mathio 1:21, “Nàng sẽ sanh
một trai (son), ngươi hãy đặt tên là JÊSUS, vì chính Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi
các tội lỗi của họ” (Gk). Nếu bạn dịch hay hiểu rằng Con ở đây là Child, thì bạn
xúc phạm Đức Chúa Trời, vì như vậy Chúa Giê-su là con cái (child) của Ma-ri,
Ngài phải mang bản chất, huyết thống của tội nhân Ma-ri rồi.
Có một điểm lý thú tại đây là ngành pháp y
tuyên bố rằng máu của bị cáo chắc chắn phải cùng dòng máu, cùng ADN (chất liệu
di truyền) của bố đẻ, chứ không phải của mẹ đẻ bao giờ. Các giáo sư bác sĩ sản
khoa đều nói rằng máu của thai nhi và máu của thai phụ là hai dòng máu khác
nhau, không hòa lẫn vào nhau bao giờ. Cho nên máu của Chúa Giê su là máu do Đức
Chúa Trời mới sáng tạo bằng một phép lạ trong dạ con của Ma-ri, không phải máu
của Ma-ri, xem Công vụ 20: 28. Bà Ma-ri sinh ra son (Con) Giê-su, chứ không
sinh ra child (con cái) Giê su bao giờ.
--Mathio 5: 9, “"Phước
cho kẻ giải hoà, vì sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời!”. Con ở đây đúng là son,
con trưởng thành, mới không sống cuộc đời đòn xóc hai đầu, đâm bị thóc, chọc bị
gạo người khác, nhưng tìm mọi cách làm cho các anh em đang chia lìa với nhau, sớm
được giải hòa với nhau, phục hòa những ai đang giận nhau, đã cách biệt nhau. Đó
mới là son, là con trưởng của Đức Chúa Trời. Tín nhân trưởng thành mới có cuộc
sống giải hoà người khác do các con cái (child) gây bất hòa ra như vậy.
--Mathio 3:9, “Đức Chúa Trời
có thể từ đá nầy dấy lên con cái (child) cho Áp-ra-ham được”
--Mathio 27:25, “Hết thảy dân
chúng đều đáp rằng: "Huyết nó đổ lại trên chúng tôi và con cái (children)
chúng tôi!"
Hai từ ngữ “con cái” trên
đây nhất định phải là child, children, là con cái theo huyết thống rồi.
Đó là lí do mà các bạn, là học viên lớp Mathio
nầy, tôi mong các bạn phải hiểu sâu xa
Giăng 1:12, “Nhưng hễ ai đã tiếp nhận Ngài, thì Ngài ban cho thẩm quyền trở nên
con cái (children) của Đức Chúa Trời, tức là cho những kẻ tin đến danh Ngài”.
Những ai mới tin Chúa thì chỉ
là con cái, (child) của Đức Chúa Trời, chưa có thể là Con trai, hay con trưởng
thành (son) của Ngài được.
Tôi xin thành thật hỏi các bạn một câu: - “các
bạn là con cái (child) còn ngây dại của Chúa hay bạn đã là son, con trưởng thành,
già dặn thuộc linh của Ngài?
August 13, 2021.
GIỮ LỜI TA-
Khải Huyền 3:8 “Ta biết công việc ngươi, ngươi có ít năng lực, mà đã giữ Lời Ta, chẳng chối danh Ta; kìa, Ta để trước mặt ngươi một cái cửa mở ra, chẳng ai có thể đóng được” (Khải 3: 8).
Những lời khen ngợi này dành
cho cộng đồng Phi-la-đen-phi. Chúng ta có thể nghĩ: lời đó có tầm quan trọng đến
mức: "ngươi đã giữ Lời Ta và không từ chối Danh Ta"? Rốt cuộc, họ đã
không làm được những công việc lớn lao. Họ chỉ có "ít năng lực".
Những lời này của Chúa rất
quan trọng. Nếu mọi người xung quanh không coi Lời Kinh thánh là quan trọng,
thì chính họ là người đã giữ Lời đó. Nếu mọi người trên thế giới phỉ báng danh
Chúa Giê-su Christ, thì chính họ đã không phủ nhận danh xưng đó.
Trước mặt Đức Chúa Trời, cầu
nguyện cho lửa từ trời rơi xuống, như Ê-li đã làm, thì không vĩ đại bằng việc
giữ lấy lòng trung thành khi nhiều tín nhân khác đã trở nên bất trung.
Vào thời Ê-li, vẫn còn lại
7.000 người chưa tham gia “thánh chức” thờ lạy Ba-anh. Đức Chúa Trời phán về họ:
“Nhưng Ta đã để dành lại cho Ta trong Israel bảy ngàn người không có quì gối xuống
trước mặt Ba-anh, và môi họ chưa hôn nó” (1 Các vua 19:18). Câu họ đã “không có quỳ gối trước mặt
Ba-anh" đây dường như là những lời ít quan trọng. Nhưng Đức Chúa Trời
không thể coi điều gì là đẹp đẽ hơn những người này, bởi vì xung quanh họ toàn là
những người phải quỳ gối trước thần Ba-anh. Sự thật này quan trọng đối với Đức
Chúa Trời đến nỗi Ngài đã viết nó ra trong Lời của Ngài.
Bạn có quỳ gối trước Ba-anh ma môn hay loại
Ba-anh nào khác không?
MỘT CHỖ TRỐNG-,
2 Sa-mu-ên 23: 16-23, “Bấy giờ, có ba người quan tướng đầy lòng gan dạ,xông ngang qua trại quân Phi-li-tin, múc nước giếng ở bên cửa thành Bết-lê-hem,rồi đem về dâng cho Đa-vít; nhưng người từ chối không uống, bèn rảy nước đó ra làm lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi! Tôi hẳn không uống đâu. Nước nầy khác nào huyết của ba người nầy, liều mạng sống mình đặng đi đến nơi kia. Vậy người không chịu uống. Đó là sự của ba người tướng mạnh bạo ấy đã làm. A-bi-sai em Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, làm tướng của ba người dõng sĩ; người dùng cây giáo mình đánh chết ba trăm người, và có danh tiếng trong ba người dõng sĩ ấy. Trong cả ba, A-bi-sai có danh hơn hết, và người làm đầu họ. Dầu vậy, người không bằng ba người kia. Lại có Bê-na-gia ở Cáp-sê-ên, con trai của Giê-hô-gia-đa, là một người mạnh bạo, nổi tiếng vì các công lớn của mình. Người đã giết hai người Mô-áp mạnh bạo hơn hết. Trong một ngày tuyết kia, ấy cũng người nầy đi xuống một cái hầm chứa nước, có con sư tử, và giết nó đi. Lại người cũng đánh giết một người A-cập, có bộ tướng đáng sợ hãi. Người Ai-cập cầm nơi tay một cây giáo; còn Bê-na-gia cầm một cây gậy xuống đón người. Người rứt cây giáo khỏi tay người Ai-cập, rồi dùng một cây giáo ấy mà giết hắn đi. Đó là công việc Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đã làm; người được nổi tiếng trong ba người tướng gan dạ kia. Trong bọn ba mươi người, Bê-na-gia có danh tiếng hơn; song không bằng ba người trước. Đa-vít nhận người vào trong bàn mật nghị mình”.
Khải Huyền 3:11, “Ta đang đến
mau chóng; hãy giữ vững điều ngươi đã có, hầu chẳng ai
đoạt lấy mão miện của ngươi”
2 Sa-mu-ên 23: 18-23 có chép
rằng Đa-vít có ba vị anh hùng khác. Người
đứng đầu ba người này là A-bi-sai, em trai của Giô-áp. Một anh hùng khác được đặt
tên là Bê-na-gia. Trong khi đọc, bạn đợi một cái tên thứ ba được nhắc đến.
Nhưng vô ích. Một chỗ vẫn còn để trống.
Ở cuối chương này, người ta
nói rằng có tổng cộng 37 anh hùng (câu 39). Nhưng nếu bạn đếm lại chỉ thấy có
36. Một cái ghế để trống - tại sao?
Bạn không dễ nhớ rằng nơi
này được "dành riêng" cho Giô-áp sao? Nhưng vì anh ta đã làm đổ máu
vô tội và cuối cùng quay lại chống lại vua Đa-vít, anh ta phải bị từ chối nơi
danh dự này. Những người khác nghĩ rằng đây là nơi Đa-vít muốn đặt người bạn Giô-na-than
của mình.
Một điều chắc chắn: không
gian trống rỗng này tỏ vài lời cùng trái tim của chúng ta. Chúng ta có thể đánh
mất phần thưởng mà Chúa đã ban cho chúng ta. Khi Chúa tái lâm, chúng ta không có
được "vị trí danh dự". Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa dạy: “hãy giữ vững
điều ngươi đã có, hầu chẳng ai đoạt lấy mão miện của ngươi ” (Khài. 3: 11)