Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2022

Nhà Hội Satan - Ekklesia Của Chúa

Khải Huyền 2: 9; Hê-bơ-rơ 13:13l "nhưng chúng thuộc về nhà hội của Sa-tan".

Giáo hội của Đức Chúa Trời hằng sống không phải là sự tiếp nối của đạo Do Thái do Đức Chúa Trời thiết lập trong Cựu Ước; do đó các nguyên tắc của Do Thái giáo không thể được chuyển giao cho giáo hội hoặc áp dụng dưới bất kỳ hình thức nào. Giáo hội hoàn toàn trái ngược với Do Thái giáo.
Y-sơ-ra-ên hay Do Thái giáo là một tập thể trần thế, một xã hội trần thế, một dân tộc với những hy vọng trên đất. Có một giai cấp đặc biệt của các thầy tế lễ, khu thánh điện bên trong, nơi mà chỉ các thầy tế lễ mới có thể đến, và những người thờ phượng đứng từ xa. Có những sinh tế liên tục vì tội lỗi và một tấm màn ngăn người thờ phượng khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời.

Hội chúng Y-sơ-ra-ên là một tập thể hỗn hợp gồm những người có đức tin thật và những người không có đức tin thật và những người không có đức tin như nhau, cùng nhau thành lập một quốc gia và cố gắng tuân giữ luật pháp làm nền tảng cho sự chấp nhận của họ với Đức Chúa Trời. Thuật ngữ "nhà hội hay hội đường" có nghĩa là "tụ họp" và đó là nguyên tắc của Do Thái giáo, một tập hợp những người hỗn hợp với nguyện vọng quốc gia trên trái đất.

Giáo Hội của Đức Chúa Trời hoàn toàn trái ngược với tất cả các đặc điểm đã nói ở trên của Do Thái giáo. Nó bắt đầu với nền tảng của thập tự giá của Đấng Christ, một công việc hoàn thành và hoàn thành đối với tội lỗi, sự phục sinh và thăng thiên của Đấng Christ đối với chúng ta, là sự gai1ng lâm của Đức Thánh Linh, Đấng tạo thành một Thân Thể duy nhất và ở trong các tín hữu và kết hợp với họ với Đấng Phục sinh. và tôn vinh một Đầu hợp nhất trên trời.

Tấm màn che đã bị xé ra và tất cả những tín đồ chân chính trong Chúa Giê-su Christ đều là thầy tế lễ và có đặc ân đến gần Đức Chúa Trời trong nơi chí thánh nhờ huyết của Chúa Giê-su. Được kết hợp với Đấng Christ trong sự vinh hiển, Hội thánh được kêu gọi trở thành dân trên trời và có hy vọng ở trên trời là được ở với Chúa trong sự vinh hiển của Ngài. Những mong đợi và phước lành của họ không ở trần gian như dân Israel.

Từ ngữ "hội thánh" là được dịch từ chữ ekklesia, có nghĩa là "người được gọi ra." Đó chỉ ra một dân tộc được gọi ra khỏi thế giới để trung thành với Chúa bị từ chối của họ, kết hợp với Ngài trong vinh quang và chờ đợi sự trở lại của Ngài. Giáo Hội đích thực không thể là một tập thể hỗn hợp gồm những tín đồ đã được cải đạo và những người chưa được cải đạo hoặc những người tự nhiên như trong hội đường Do Thái. Vì vậy, chúng ta thấy rằng có một sự khác biệt lớn giữa Hội thánh của Đức Chúa Trời và Do Thái giáo với đền thờ và các giáo đường Do Thái giáo.

Ngày nay chúng ta thấy rằng gai1o hội tuyên xưng đã mất hầu hết các đặc điểm nên phân biệt với Do Thái giáo, và Cơ đốc giáo phần lớn được định tính chất bởi các nguyên tắc của Do Thái giáo. Họ đã trở thành một hội đường đơn thuần, một tập hợp hỗn hợp gồm những người tin và người không tin Chúa, cố gắng tuân giữ luật pháp điều răn để được cứu rỗi hoặc như một quy tắc của cuộc sống.
Giáo hội đã ổn định cuộc sống trên trái đất và không chờ đợi Chúa tái lâm. Họ đã trở thành một trại quân giống như Do Thái giáo, ngay cả khi bề ngoài nó khoác lên mình chiếc áo choàng của Cơ đốc giáo. Sự phục hưng của Do Thái giáo và sự kết hợp các nguyên tắc của người Do Thái vào giáo hội tuyên xưng đã phá hủy đặc tính thực sự của Cơ đốc giáo,

Và do đó, lời kêu gọi các tín đồ của những ngày trước đó là rời khỏi trại Do Thái giáo (Giăng 10: 1-5 và đi đến với Đấng Christ bị chối bỏ cũng áp dụng cho các Cơ đốc nhân ngày nay. Chúng ta hãy đi ra ngoài với Chúa Giê-su ở bên ngoài trại quân để mang theo sự việc bị sỉ nhục của Ngài (Hê-bơ-rơ 13:13). Người tín đồ chân thành muốn tôn vinh Đấng Christ và tuân giữ Lời Ngài phải đi đến với Đấng Christ bên ngoài trại quân của Cơ đốc giáo với các nguyên tắc Do Thái giáo của nó.

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2022

Sắt Mài Nhọn Sắt-

Châm ngôn 27:17, "Sắt mài sắt, Bạn rèn bạn."--"Sắt mài bén sắt,
bạn hữu giúp bạn hữu cải tiến".
Trong sách Châm-ngôn, Đức Chúa Trời chỉ cho chúng ta cách áp dụng sự khôn ngoan của Ngài vào những hoàn cảnh của cuộc sống thực tế của chúng ta. Tóm lại, đó là việc ban cho chúng ta sự khôn ngoan và hiểu biết để chúng ta có thể sống hạnh phúc, tôn vinh Chúa và được tránh khỏi tội lỗi. Châm ngôn còn được gọi là "Kho tàng sách khôn ngoan". Hôm nay chúng ta muốn nghĩ ngắn gọn về một viên ngọc trong cuốn sách kho báu. Chúng ta đọc Châm-ngôn 27:17:
--Sắt được mài bởi sắt, kẻ nầy mài (bổ dưỡng) mặt kẻ khác.
Vì vậy, sách Châm-ngôn nói về sự khôn ngoan thuộc linh. Một người khôn ngoan biết Đức Chúa Trời muốn gì ở mình. Anh ta nhận ra con đường và những nhiệm vụ của Đức Chúa Trời đối với cuộc đời mình. Ai khôn ngoan theo nghĩa Kinh thánh thì sống trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời và trong mối tương giao với Ngài. Sự khôn ngoan có nghĩa là Chúa Giê Su Christ, với tư cách là Chúa của chúng ta, có thể sử dụng chúng ta vì sự vinh hiển của Ngài trong việc phụng sự Ngài.
Bây giờ trong câu này một bức tranh được lấy từ cuộc sống hàng ngày để áp dụng cho các mối quan hệ của chúng ta với nhau. Một công cụ cắt phải sắc bén để cắt đúng cách. Nếu nó bị cùn, bạn không thể sử dụng nó đúng cách hoặc bạn phải dùng nhiều lực hơn. Đó là lý do tại sao Truyền-đạo 10:10 nói với chúng ta: “Nếu sắt đã cùn và không mài được cạnh, thì người ta phải dùng sức mình nhiều hơn; nhưng sự khôn ngoan có lợi trong việc sửa chữa một cái gì đó. "
Vì vậy, về việc có thể sử dụng lại một công cụ đúng cách, chẳng hạn như nếu vật đó đã trở nên cùn. Hồi đó sắt có công mài sắt. Bạn chỉ có thể mài sắt bằng vật liệu cùng loại hoặc cứng hơn. Vật liệu mềm hơn sẽ không bao giờ làm cho nó sắc nét. Nhưng cũng áp dụng: Bạn càng sử dụng thường xuyên một công cụ, nó càng nhanh chóng bị cùn và bạn càng phải dành nhiều thời gian để mài sắc.
Hai khía cạnh này rất quan trọng đối với đời sống đức tin của chúng ta: Một mặt, đó là việc để cho chúng ta được mài dũa bởi những người ít nhất được tạo nên bằng “cùng một chất liệu”. Một người tin Chúa không thể bị mài giũa bởi một người không tin Chúa, đúng hơn nó sẽ làm ngược lại. Những người tìm kiếm lời khuyên từ những người không tin Chúa thường nhận được những lời khuyên trái với Đức Chúa Trời. 1 Cô-rinh-tô 3:19 cho chúng ta biết: Vì sự khôn ngoan của thế giới này là sự ngu xuẩn đối với Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy được mài dũa bởi những ai bước đi trong mối tương giao với Chúa và trong sự tôn kính Chúa. Đưa ra lời khuyên tốt dựa trên Lời Chúa. Hoặc chúng ta hãy đi thẳng đến người có thể rèn giũa chúng ta tốt nhất: chính Chúa Giê-su. Nếu chúng ta học Lời Chúa và áp dụng vào chính mình, thì Lời Chúa sẽ rèn giũa chúng ta! Chúng ta có thể cầu xin Ngài giúp đỡ để Lời Ngài có nhiều ảnh hưởng hơn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
Thứ hai, chúng ta có thể làm việc và làm việc cho Chúa nhưng mất ít hoặc không mất nhiều thời gian để rèn giũa. Sau đó, chúng ta bị cùn mòn đi. Sự tươi mới bị thiếu mất đi và chúng tôi nhận ra rằng mình phải cố gắng như thế nào để hoàn thành một việc gì đó. Chúng ta nhanh chóng mệt mỏi và thậm chí có thể mất hoàn toàn niềm vui trong công việc. Do đó, điều quan trọng hơn hết là bạn luôn dành thời gian để "rèn giũa bản thân". Những ai cho phép mình được Lời Đức Chúa Trời mài dũa trước khi bắt đầu công việc sẽ có thể làm điều đó một cách mới mẻ và có năng lực.
Một hình thức đặc biệt để mài dũa nhau là cầu nguyện chung, bởi vì cầu nguyện kết nối. Nhưng trong khi cầu nguyện, chúng ta trực tiếp ở trong ánh sáng của Đức Chúa Trời. Sau đó, Ngài mở rộng trái tim của chúng ta để nói chuyện với chúng ta. Thật tuyệt vời làm sao khi chúng ta có một người bạn - anh chị em trong Chúa - người cầu nguyện với chúng ta và cũng có thể được dùng để “trau dồi” (mài giũa) chúng ta. Do đó, chúng ta muốn tự hỏi: Nếu có ai đó đến với chúng ta ngày hôm nay, chúng ta đã sẵn sàng để được “mài dũa” chưa?

NƠI DÀY VÒ-


Lu-ca 16: 19-31
Trong câu chuyện của người giàu và người nghèo, tên là La-xa-rơ, chính Chúa Giê-su cho chúng ta thấy những suy nghĩ và cảm xúc của những người không tin khi đã nhắm mắt, và chỉ mở mắt lại trong Âm-phủ
-Rên rỉ, dằn vặt. Rõ ràng, người đàn ông giàu có đang bị dày vò về thể xác. Anh khao khát có được làn nước mát lạnh trên đầu lưỡi để được giải thoát khỏi cái khổ. Nhưng nước không được cấp cho anh ta.
-Thất vọng, mất mát. Anh ta nhìn thấy Áp-ra-ham và một La-xa-rơ được an ủi và cảm thấy sự khác biệt so với tình trạng của chính mình.
-Nỗi sợ hãi . Người đàn ông giàu có nghĩ về những người anh em của mình và thật đau khổ với suy nghĩ rằng họ cũng phải đến nơi khủng khiếp này.
--Bất lực. Thời gian cầu nguyện đã qua đi vĩnh viễn. Anh ta đưa ra hai yêu cầu. Nhưng không một điều nào được cấp cho anh ta.
--Tính chất dứt khoát. Đối với anh ta, không có giải cứu và không thể quay lại. Anh ấy không hy vọng hoàn cảnh của mình sẽ thay đổi, nếu không thì anh ấy đã yêu cầu điều đó. Việc anh ta chỉ xin một giọt nước ở đầu ngón tay cho thấy anh ta có sự chắc chắn rằng mình phải ở lại nơi này vĩnh viễn. Các khái niệm về sự hủy diệt cuối cùng, luyện ngục, niết bàn, luân hồi hay những phát minh khác của con người không có chỗ ở nơi đây.
--Tự buộc tội. Ông nói về việc anh em của mình ăn năn về việc ông đã bạc đãi La-xa-rơ, trong trường hợp sống lại. Khi làm như vậy, anh ta cho thấy rằng anh ta biết con đường ăn năn, ngay cả khi anh ta không tự mình bước đi. Anh ta biết rằng sám hối sẽ không cứu anh ta khỏi nơi đau khổ đó. Y thức này gặm đã nhấm anh ta biết bao!
Một cuộc sống xa hoa không có Đức Chúa Trời đã đưa người đàn ông giàu có đến nơi đau khổ này. Cuộc sống của bạn không có Chúa cũng sẽ đưa bạn đến đó. Do đó, hãy hướng về Đức Chúa Trời để ăn năn tội lỗi của mình trước khi quá muộn.
Marco Lessmann

Kẻ Keo Kiệt Ở Marseilles.

Khải huyền 22:17, Thánh Linh và Cô Dâu cùng nói: “Hãy đến!” Người nào nghe cũng hãy nói: “Hãy đến!” Ai khát, hãy đến! Người nào muốn, hãy đến nhận nước sự sống miễn phí"

Giăng 4: 14, "nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ khát nữa. Nước Ta cho sẽ trở thành một mạch nước trong người ấy, tuôn trào đến tận sự sống đời đời.”
Cách đây rất lâu, ở Marseille, Pháp Quốc- có một người đàn ông tên là Guizon. Anh ấy luôn cần cù và dường như chỉ muốn tích lũy tiền nhờ siêng năng và tiết kiệm. Anh sống một mình, không có một chút xa hoa, tiện nghi nào cả. Ở Marseille, anh được biết đến như một người keo kiệt, và mặc dù anh luôn trung thành với nhiệm vụ của mình, nhưng mọi người lại khinh thường anh. Ngay khi anh ấy xuất hiện trên đường phố, lũ trẻ sẽ gọi theo anh ấy, "Ông già keo bẩn đi đây!"
Ông qua đời ở tuổi 80. Vàng và bạc trị giá vài trăm nghìn franc được tìm thấy trong tài sản của ông. Di chúc của ông có đoạn:
“Tôi nghèo và từng trải nghiệm rằng người dân Marseille đã phải chịu đựng rất nhiều vì thiếu nước sạch. Vì không có gia đình, tôi đã dành dụm đủ tiền để xây dựng một cầu dẫn nước. Nó nhằm cung cấp một nguồn nước sạch dồi dào cho thậm chí là người nghèo nhất trong thành phố.”.
Một mình và bị coi thường, anh sống và chết để đạt được mục tiêu cao cả đó là góp phần làm lợi cho những người đã hiểu lầm và ngược đãi, khinh khi ông.
Có một người đàn ông khác đã bị mọi người hiểu lầm và coi thường. Chúa Giêsu Christ đã trở nên nghèo khó vì con người, để nhờ sự nghèo khó của Người mà họ trở nên giàu có (2 Cor 8: 9). Nhưng họ chỉ nhạo báng Ngài. Đôi bàn tay thô bạo đã đóng đinh Ngài vào thập tự giá, và ở đó, cuối cùng Ngài đã chết, cô đơn và lẻ loi. Nhưng qua sự chết của Ngài, Chúa Giê Su đã dọn đường cho mọi người tin vào Ngài và được cung cấp nguồn nước trong sạch của sự sống đến nỗi họ sẽ không bao giờ cảm thấy khát nữa. Tình yêu thương dành cho những người khinh thường Ngài đã thúc đẩy Ngài thực hiện công việc quên mình này, hầu cho tội nhân đáng thương nhất cũng có thể được tha thứ và được sự sống mới.
Marcos Lessmann-

Người Phụ Nữ Tài Đức -3 - sự siêng năng của cô ấy


Châm ngôn 31: 13-15
"Nàng lo tìm lông chiên và sợi gai, Rồi vui vẻ bắt tay vào việc. Nàng giống như các tàu buôn, Từ xứ xa chở hàng về.". Trong Chúa Giê-su Christ, đó là “đức tin hoạt động bằng tình yêu thương.” Người vợ yêu thương làm việc với ước vọng. Tình yêu đích thực vẫn hoạt động cho đến khi không một nhu cầu nào của đối tượng tình yêu của cô ấy không được đáp ứng - đối với đối tượng tình yêu của cô ấy, họ vẫn hoạt động , một sự thèm khát.

Hình mẫu ngôi nhà do cô chăm sóc. Cô “tiết độ, trong trắng, đảm đang việc nhà ” là mệnh lệnh rõ ràng của Đức Chúa Trời dành cho những phụ nữ muốn làm vui lòng Ngài (Tít 2: 5). Cô ấy không đi lạc, không tham gia xã hội, không can thiệp vào công việc chung của thế giới, và không đòi hỏi sự bình đẳng với nam giới. Công việc của cô hoàn toàn là công việc nội trợ và cô luôn dốc hết sức lực vào lĩnh vực này, như bất kỳ người phụ nữ và người mẹ thực sự nào khác cũng vậy. Cô ấy hoàn toàn bận rộn với thực phẩm và quần áo cho gia đình mình — chuẩn bị len và lanh để vải dệt và khung dệt, và thực phẩm cho gia đình. Cô ấy cũng phân chia công việc giữa những người giúp việc của mình và không chấp nhận có một người nào lười biếng ngồi xung quanh.

Và Giáo hội của Chúa Giê-su cũng vậy- việc họ tham gia vào chính trị có phải là việc của họ không? Cô ấy có muốn cai trị thế giới, hoặc định hình hoặc ảnh hưởng đến dư luận? Không, cô ấy có một phạm vi khác và công việc của cô ấy có một tính cách hoàn toàn khác. Cô ấy phải tham dự vào các công việc của gia đình mình - "các thành viên trong gia tộc của đức tin", những người mà cô ấy cho ăn từ bánh của con cái ngồi trên bàn rơi xuống, và những người mà cô ấy thấy họ được mặc đẹp với sự công bình thiết thực và được trang điểm bằng chiếc áo choàng vinh quang trang nghiêm (Math. 15:26; Êsai 61:3,10).

"Từ xứ xa chở hàng về". Đó là lương thực mà thế giới không biết - "bánh từ trời," mà Đấng Christ đã ban cho trong quyền năng của Đức Thánh Linh từ trời xuống. Thành ngữ “từ xứ xa” gợi cho chúng ta nhớ đến lời của Môi-se trong bài ca của ông cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên: “Lời tôi nhỏ xuống như sương móc, Khác nào mưa phùn trên cỏ non, Như mưa rào trên cánh đồng xanh!" (Phục truyền 32: 2). Ê-li- hu được soi dẫn trong Gióp 36: 3 nói: “Tôi sẽ đem đến từ xa điều tôi hiểu-biết". "Bánh của con cái" (Mathio 15: 26". Không phải là truyện ngụ ngôn hay truyền thống, được hình thành và khắc sâu một cách xảo quyệt, mà là "giáo lý đúng đắn", được đúc kết từ Lời không thể sai lầm, là Kinh thánh, được Đức Chúa Trời cảm thúc. “Được nuôi nấng (hoặc được nuôi dưỡng) bởi những lời đức tin và sự dạy dỗ tốt lành” tương ứng với “bánh từ xa đến”, “lương thực cho nhà mình” đối với người phụ nữ tài đức này (xem 1 Ti 4: 6).

TRUNG TÍN SỬ DỤNG TIỀN BẠC-

“Vậy nếu các co không trung tín về của cải bất nghĩa, ai sẽ đem của cải thật giao cho các con? ” (Lu-ca 16:11)
Bất chính ở đây dùng để chỉ sự giàu sang hay của cải vật chất trên trần gian. Không ảo tưởng nào phổ biến hơn việc người đàn ông có nhiều của cải vật chất được coi là giàu có. Chúng ta nói nhà và đất là bất động sản vì chúng ta nghĩ đó là của cải thật. Chúng ta nói đến cổ phiếu và trái phiếu như chứng khoán vì chúng ta nghĩ rằng chúng cung cấp sự an toàn.
Nhưng trong Lu-ca 16:11, Chúa phân biệt giữa ma-môn bất chính và sự giàu có thật. Những thứ người ta nghĩ là giàu có hoàn toàn không phải là của cải thật.
Ông John là một Cơ đốc nhân tin kính, từng là người trông coi điền trang của một quý tộc giàu có. Một đêm nọ, John có một giấc mơ sống động, trong đó anh ta được cho biết rằng người đàn ông giàu nhất trong thung lũng nơi ông đang ở sẽ chết trước nửa đêm vào buổi tối hôm sau. Khi John gặp chủ của mình vào sáng hôm sau, anh ta chia sẻ giấc mơ với chủ. Lúc đầu, người triệu phú giả vờ hoàn toàn không quan tâm. Ông ta không bao giờ cảm thấy tốt hơn. Và dù sao thì ông ta cũng không tin vào những giấc mơ.
Nhưng ngay sau khi John rời đi, ông ta đã gọi tài xế chở ông đến văn phòng bác sĩ,. Ông ta nói với bác sĩ rằng ông muốn kiểm tra sức khoẻ toàn diện. Như mong đợi, mọi sự xét nghiệm bày tỏ sức khỏe ông ở trong tình trạng tốt tuyệt vời. Song le nhà quý tộc vẫn còn lo lắng về giấc mơ của John. nên khi rời văn phòng bác sĩ, ông nói; “Nhân tiện, bác sĩ ơi, ông có thể đến nhà tôi ăn tối vào buổi tối nay và sau đó sẽ thăm khám thêm cho tôi nữa không?” Bác sĩ đồng ý.
Bữa ăn tối diễn ra theo thói quen và họ nói chuyện về nhiều chủ đề. Vài lần bác sĩ bắt đầu từ giả ra về, nhưng mỗi lần đó người chủ nhà cố ép ông lại ở lại lâu hơn một chút.
Cuối cùng khi đồng hồ điểm nửa đêm, người đàn ông giàu có vô thần, nhà quý tộc, vô cùng nhẹ nhõm về giấc mơ của John, ông nói lời chúc ngủ ngon từ giả với bác sĩ.
Vài phút sau, tiếng chuông cửa nhà John vang lên, khi John ra mở cửa, cô con gái lớn của nhà quý tộc đã đứng đó và nói: "thưa ông John, mẹ tôi muốn cho ông biết rằng cha tôi bị đau tim và đã chết trước đây 5 phút".
Người giàu nhất trong thung lũng đã chết đêm đó. Bác sĩ cũng không cứu được.

THỊT 肉 FLESH-

Kinh thánh cho chúng ta biết về hoạt động mà Đức Chúa Trời thực hiện trên A-đam, kết quả là có người bạn đồng hành của ông, Ê-va, một người nữ.
"Giê-hô-va Đức Chúa Trời khiến cho A-đam ngủ mê, và lấy đi một xương sườn, rồi lấp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng chiếc xương sườn đã lấy từ A-đam dựng nên một người nữ và đưa đến cho A-đam. A-đam nói: “Bây giờ mới có người nầy, Là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là người nữ,Vì từ người nam mà có" (Sáng thế ký 2: 21-23).
Người Trung Quốc cổ đại ghi lại thao tác này của Chúa bằng từ ngữ 肉 mà học đọc là RÒU (nhục) , có nghĩa là THỊT. Nó bày tỏ một NGƯỜI được lấy ra từ BIÊN GIỚI, là bên hông của cơ thể NGƯỜI thứ hai, là A-đam. Đức Chúa Trời đã lấy một chiếc xương sườn từ bên sườn của A-đam, lấp thịt thế vào, và từ chiếc xương sườn đó Chúa đã tạo nên người phụ nữ.
Chữ tượng hình liên quan cơ bản đến RÒU (nhục) là từ nèi có nghĩa là BÊN TRONG. Hai ký tự kết hợp tạo nên tiếng nèi là ENTER ( Vào bên trong) và BORDER (biên giời). Lời tường thuật của Sáng thế ký 2: 21-23 nói rằng người phụ nữ đó "... đã bị lấy ra khỏi người đàn ông." Điều đó sẽ khiến cô ấy trở thành người đàn ông BÊN TRONG. Nèi vẫn được đàn ông Trung Quốc dùng để chỉ về vợ của họ, theo nghĩa đen, cô ấy là "người đàn ông BÊN TRONG của tôi."
@ Tiếng Hebrew: Tám trăm năm sau khi người Hoa sáng chế ra chữ 肉 (thịt), ông Môi se viết chữ "thịt" trong Sáng 2: 21-23. Chữ בָּשָׂר phiên âm là bâśâr, đọc là baw-sawr', nghĩa là flesh, là thịt trong tiếng Việt.
Xem hình chiết tự chữ 肉- nhục như dưới đây. Trong chữ nhục 肉, người trên là Ê-va, ra từ người nằm dưới ở bên trong là A-đam.
Không có mô tả ảnh.

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2022

Người Phụ Nữ Hiệu Quả -1-- 2

Châm ngôn 31:10, "Ai có thể tìm được một người nữ tài đức? Giá trị nàng trổi hơn châu ngọc".

Chữ "tài đức" trong nguyên văn ngụ ý sự "hiệu quả"
"Ai có thể tìm được một người nữ hiệu quả? Giá trị nàng trổi hơn châu ngọc"- người phụ nữ có năng lực (hoặc phẩm hạnh, có giá trị, xứng đáng), ai sẽ tìm thấy cô ấy?" Theo từ điển, từ ngữ được dịch là "có khả năng" còn có nghĩa là "có năng lực", "dũng cảm". Nó cũng có thể bao gồm cả ba ý nghĩa - đức hạnh, dũng cảm và có khả năng. Ai có thể tìm thấy một người phụ nữ như vậy? "Vì giá trị của họ vượt xa pha lê (ngọc)" - viên ngọc quý giá nhất thời cổ đại. Việc có được một kho báu như vậy là vô giá; Một người phụ nữ như vậy không thể mua được bằng vàng, giá trị của cô thì bạc cũng không thể cân xứng được.
Không thể được định giá bằng vàng của ô-phia, cũng như mã não hoặc sa-phia quý giá. Vàng và pha lê không thể được đánh đồng với cô ấy, và không thể đổi lấy cô ấy với những đồ trang sức bằng vàng ròng. Ngay cả ngọc trai cũng phải nhạt đi trước nàng, vì bản thân nàng là một viên ngọc trai, một loại ngọc mà đối với Đấng Christ đó là “ngọc trai đắt giá”: là hội chúng được yêu dấu và mua bằng máu của Ngài. Hoàng ngọc từ Ê-thi-ô-bi không thể sánh với giá trị của một người phụ nữ như vậy.
Mô tả về người phụ nữ kiểu mẫu này qua những nét đẹp đạo đức đi đôi với quyền lực, uy nghi, sự cai trị, ân sủng, công lý và sự thật - như nó vốn có, và vượt ra ngoài ngôn ngữ của con người. Và ở đây, trong mô tả này về người phụ nữ, người được coi là hình ảnh hội chúng của Chúa, cũng là cô dâu của Ngài.
--Bảy điều - con số hoàn hảo - được đặc biệt nhắc đến: trong cô
1. Lòng trung thành của họ (câu 11–12);
2. Sự siêng năng của họ (câu 13-15);
3. Cuộc gia tể của họ (câu 16-19);
4. Lòng bác ái của họ (câu 20);
5. Tầm nhìn xa của cô ấy (câu 21-25);
6. Vẻ đẹp đạo đức của họ (câu 26-27) và
7. phần thưởng của họ (câu 28-31).
-uuu
Người Phụ Nữ Đảm Đang (02) - lòng trung thành của cô ấy--
Châm ngôn 31: 11-12
"Lòng người chồng tin cậy nàng" Chúng ta nghe nói về một người đàn ông vắng mặt ở đây bởi vì anh ta rõ ràng không có mặt ở nhà đây. Thật là một bức tranh phù hợp về Chúa của chúng ta trong thời kỳ Ngài vắng bóng trên đất. Giống như người đàn ông thượng lưu trong câu chuyện ngụ ngôn, Ngài đã đi đến một đất nước xa xôi "Có một nhà quý tộc đi đến một xứ xa để được phong vương, rồi sẽ trở về" (Lu ca 19: 12) và khi vắng mặt Ngài, Ngài có thể tin cậy những người mà Ngài đã để lại để lo cho công việc của mình, cho đến khi Ngài quay lại
Đó là tấm lòng của anh ấy, để ý, tin tưởng vào cô ấy - chỗ dựa của tình cảm. Điều anh quan tâm nhất không phải là của cải của anh và sự quan tâm của cô ấy chăm sóc của cải, mà chính là tình yêu của cô. Đó là điều mà Ngài coi trọng hơn tất cả. Công nghiệp và kinh tế học và mọi thứ khác sẽ ra sao nếu không có thứ tốt đầu tiên này và nguồn cơ bản của mọi thứ khác?-- là tình yêu.
Trái tim anh hoàn toàn tin tưởng vào cô. Đó không phải là sự tin tưởng đặt nhầm chỗ - cô ấy sẽ không phản bội hay làm anh thất vọng. "Trọn đời nàng làm cho chồng được ích lợi, Chứ không gây tổn hại".
Đối lập với người vợ thủy chung này là người đàn bà có khuôn mặt xấc xược Châm ngôn chương 7. Chồng cũng vắng mặt: “Chồng vắng nhà, đi đường xa; anh ấy đã cầm trên tay chiếc ví rồi, đến ngày rằm anh ấy sẽ về ”. Chồng cô có thể cũng tin tưởng cô, nhưng anh đã làm như vậy một cách sai lầm - cô đã phản bội anh một cách đáng xấu hổ. Cô đã chứng minh mình không đúng sự thật, cũng như ở mức độ lớn nhất mà giờ đây một tập thể tự gọi mình là "Giáo hội chân chính duy nhất", là Rome, và ở mức độ lớn hơn bao giờ hết là "các cô con gái" của bà (Khải 17; 5). Mưu đồ tuyệt vời trong Khải huyền 17 là hình thức cuối cùng của sự lừa dối cơ bản này của người phụ nữ cám dỗ.
Nhưng người ta có thể hỏi rằng, dấu ấn đáng yêu của lòng trung thành với Đấng Christ ngày nay có được nhìn thấy ở đâu không? Và tiếc là nó vẫn còn là một câu hỏi! Có hình ảnh lý tưởng về hội thánh hay tập thể các Cơ Đốc nhân ở bất cứ nơi nào trên trái đất có thể nói năng cách chân thành với chúng ta chăng?
Tuy nhiên, đó phải là nỗ lực của mỗi cá nhân để phù hợp, ít nhất là ở một mức độ nào đó. Giáo hội ngày nay phải mô tả phẩm chất đầu tiên và đáng trân trọng đó của người phụ nữ xứng đáng, và không chỉ cho cô ấy, mà cho tất cả những người theo cô ấy, là hội chúng của Đấng Christ.


Đấng Christ Đã Bị Treo Lên Như Con Rắn Trong Sa Mạc-

 Giăng 3: 14-15, "Như Môi-se treo con rắn lên trong hoang mạc thể nào thì Con Người cũng phải bị treo lên thể ấy, để ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời"

Để cho những ai tin vào Ngài không bị hư mất mà được sự sống đời đời, Con người phải được treo lên (Giăng 3:14) - không phải lên ngôi vua Đa-vít trong vinh quang và quyền lực như dân Ngài mong đợi - nhưng là điều đó. Thập tự giá, lời nguyền rủa, cây cọc xấu hổ, để chịu sự phán xét của Đức Chúa Trời vì các tội lỗi của dân Ngài.
Và "sự treo lên cao" này phải xảy ra "như Môi-se treo con rắn lên cao trong đồng vắng." Vào thời đó, Đức Chúa Trời đã sai những con rắn lửa đến giữa dân chúng như một hình phạt cho những lời lằm bằm ô tội của họ. Nhiều người đã bị cắn và một số đã chết vì chất độc chết người trước khi mọi người cuối cùng đến với Chúa để xưng tội. Đức Chúa Trời không loại bỏ con rắn sống, nhưng chỉ thị cho Môi-se đặt một con rắn bằng đồng trên một cây sào. Mọi người nhìn con rắn này đều được chữa lành.
Chúa Jêsus so sánh việc con rắn được treo lên trên cột với việc Ngài được treo lên trên thập tự giá. Chúng ta sẽ không bao giờ dám so sánh như vậy, vì con rắn gợi lên chất độc chết người của tội lỗi, từ đó không có sự giải cứu ngoại trừ thông qua phương thuốc được cung cấp bởi chính Đức Chúa Trời. Con rắn là biểu hiệu của lời nguyền rủa tội lỗi. Qua sự cám dỗ của con rắn, Sa-tan, đã đầu độc cặp vợ chồng đầu tiên của loài người và đưa họ chịu khuất phục dưới lời nguyền rủa của một Đức Chúa Trời thánh. Và trên thập tự giá? Sau đó, Đấng thánh khiết và trong sạch đã trở thành tội lỗi và trở thành một lời nguyền rủa thay cho chúng ta (2 Cor 5,21; Gal. 3:13).
Môi-se đã không treo một trong những con rắn sống, mà là một mô hình rắn bằng đồng, không có nọc độc. Sự phán xét của Đức Chúa Trời không giáng xuống chính tội nhân — nó sẽ tiêu diệt anh ta — mà giáng trên Đấng đã đến có hình dạng “giống như xác thịt của tội lỗi” của con người. Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, Đấng không hề biết tội lỗi, nhưng đã trở nên tội vì lợi ích của chúng ta để chúng ta có thể thoát khỏi bạo lực hủy diệt của sa-tan (Ro 8: 3; 2 Cor 5:21).
Nhưng đồng của con rắn không chỉ nhắc nhở chúng ta về sự phán xét thần thượng mà Chúa Jêsus đã chịu cho chúng ta (xem Dân. 16:38; Khải 1: 15). Đồng là vật liệu chịu nhiệt. Bàn thờ của lễ thiêu được phủ bằng đồng (Xuất Ê-díp-tô Ký 27: 2) và chịu được ngọn lửa thiêu rụi trong của lễ thiêu. Điều này nói lên sự tinh khiết và sức mạnh của Chúa Jêsus, Đấng đã chịu đựng ngọn lửa thần thượng cho đến khi tất cả mọi sự hoàn thành, bởi vì trong Ngài không có gì có thể bị ngọn lửa đó thiêu rụi..
Con Người "phải" được treo lên cao. Không có ai thay thế. Nếu những lời tuyên bố về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời được thỏa mãn và tội lỗi được xóa bỏ, thì điều đó chỉ có thể được thực hiện qua sự hy sinh thay thế của Đấng thánh khiết và tinh khiết. Nhưng "phải" có một lý do khác, và chúng ta tìm thấy nó trong câu 16 của Giăng 3: Tình yêu thương vô hạn của Đức Chúa Trời khao khát có sự cứu rỗi của tội nhân. "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế nhân, đến nỗi đã ban Con một của Ngài."
Có thể là hình minh họa

Năm Cô Con Gái Của Xê-lô-phát-

Dân số ký 27 và 36-

Một minh họa tuyệt đẹp về đường lối của Đức Chúa Trời có với dân Ngài — sự việc Ngài sẵn lòng đáp ứng mọi nhu cầu của họ — được tìm thấy trong sự kết hợp của các đoạn Dân số ký 27 và 36. Trong Dân số ký 27, các con gái của Xê-lô-phát đến gặp Môi-se để phàn nàn. Cha của họ đã chết mà không để lại con trai, và họ hỏi: "Tại sao danh cha chúng tôi bị loại ra khỏi gia tộc chỉ vì không có con trai? Hãy cho chúng tôi phần đất làm sản nghiệp giữa các anh em của cha chúng tôi" (Dân.27: 4). Cho đến thời điểm này không có điều khoản nào cho trường hợp này.
Con trai được thừa hưởng quyền thừa kế của cha, nhưng không có gì được nói về trường hợp chỉ có con gái và không có con trai. Môi-se không hành động theo quan điểm riêng của mình hoặc theo những gì người khác nghĩ là công bằng và chính đáng, nhưng, biết rằng bản thân không có trí tuệ, ông đã trình sự việc lên Chúa. Mong tất cả chúng ta noi gương ông trong một lúc bối rối nào đó, chúng ta không thể phân biệt được ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúa lập tức cho ông ta một câu trả lời: "Các người con gái Xê-lô-phát nói có lý. Con phải chia cho họ đất làm sản nghiệp giữa các anh em của cha họ và chuyển giao cho họ sản nghiệp của cha họ" Nhân cơ hội Chúa ban hành một quy chế cho con cái Israel, quy chế này sẽ được áp dụng trong từng trường hợp như vậy.
Bây giờ chúng ta đến với Dân. 36, nơi chúng ta thấy rằng việc làm rõ câu hỏi này đã dẫn đến một sự bối rối khác. Những trưởng tộc của các con trai Ga-la-át đã đến gặp Môi-se về vấn đề này. Họ quan tâm đến cơ nghiệp của bộ tộc mình; vì nếu những người con gái này của Xê-lô-phát kết hôn với một trong những người con trai các bộ tộc khác của Y-sơ-ra-ên, thì họ lập luận rằng, "sản nghiệp của họ sẽ bị truất khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi và thêm vào sản nghiệp của bộ tộc nào mà họ kết hôn". Và hơn thế nữa, nếu họ rời đi, quyền thừa kế do đó bị tước đoạt cuối cùng sẽ trở lại bộ tộc mà họ đã kết hôn vào Năm Hân Hỉ. Một lần nữa Môi-se nhận được chỉ thị từ Chúa truyền rằng các con gái của Xê-lô-phát phải kết hôn như sau :"Họ muốn kết hôn với ai tùy ý, nhưng chỉ được kết hôn với một trong những gia đình của bộ tộc tổ phụ mình".
---Một vài nguyên tắc quan trọng đáng được xem xét trong những trường hợp này.
Nguyên tắc đầu tiên là hiển nhiên: không điều gì trong dân của Đức Chúa Trời có thể giải quyết được bằng sự khôn ngoan của con người. Mọi khó khăn, lúng túng đều phải trình lên Chúa.
Nguyên tắc thứ hai là khi chúng ta thiếu sự khôn ngoan, Chúa luôn sẵn sàng ban cho một cách tự do. Không có gì có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc của người dân của Chúa , lại coi là quá nhỏ mà không thể được trình bày cho Chúa. Và nếu chúng ta cố gắng hành động trước khi chúng ta biết ý muốn của Chúa, chúng ta đang chiếm lấy vị trí của Ngài.
Thứ ba, chúng ta nên lưu ý rằng Chúa đã không giải quyết khó khăn trước. Ngài biết điều đó sẽ nảy sinh, nhưng Ngài đợi cho đến khi tôi tớ của Ngài là Môi-se trình bày với Ngài, sau đó Ngài mới công khai ý muốn của Ngài. Chúa đã thấy trước câu hỏi thứ hai cũng như câu hỏi thứ nhất, nhưng Ngài muốn dân của Ngài tiếp tục phụ thuộc vào Ngài, và vì vậy Ngài chỉ đưa ra cơ hội cho thời điểm này - sự khôn ngoan bây giờ là cần thiết . Tương tự như vậy, nếu muốn trở thành người bắt chước Ngài, chúng ta không nên lường trước những khó khăn. "Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy".
Cuối cùng, thật tuyệt vời khi thấy tất cả mọi người sẵn sàng vâng phục lời của Chúa. Họ chỉ xin lời Ngài, và đã nhận được lời, họ sẵn lòng phục tùng Ngài. Những người trưởng tộc của Ga-la-át, các con gái của Xê-lô-phát và cả dân Y-sơ-ra-ên đã vâng theo lời của Chúa mà họ đã tiếp nhận được qua Môi-se. Thật vậy, cách vâng phục là cách được ban phước duy nhất.

CỤ GIÀ Si-MÊ-ÔN-

 Lu-ca 2: 25-35

Trong Lu-ca 2: 25-35, chúng ta tìm thấy một người đàn ông trung thành với Đức Chúa Trời tên là Si-mê-ôn. Đức Thánh Linh tường thuật một số điểm thú vị về ông, có thể được chia thành năm nhóm, mỗi nhóm có 3 điểm:
1. Tầm vóc đạo đức của ông ấy (câu 25)
Ông ấy công bằng
Ông ấy kính sợ Chúa.
Ông chờ đợi sự an ủi của Y-sơ-ra-ên
2- Mối liên hệ của ông với Linh của Đức Chúa Trời (các câu 25–26)
Đức Thánh Linh (về cơ bản) đã ngự ở trên ông
Thần Linh đã cho ôn một thông điệp đặc biệt
Ông đến đền thờ bởi Thánh Linh vào một ngày đặc biệt
3--Si-mê-ôn đã làm gì (câu 28)
Ông ẵm Chúa Giêsu bé bỏng
Ông ca ngợi Đức Chúa Trời
Ông đã nói đôi điều
4- Si-mê-ôn đã nói về điều gì (câu 29–32)
Xin Chúa cho con qua đời bình an
Vì mắt ông đã nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời
Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sự cứu rỗi này trước mặt muôn dân
5--Simeon đã nói gì với Ma-ri (câu 34–35)
Đấng Christ sẽ làm cho kẻ nầy ngã xuống, kẻ nọ dấy lên
Đấng Christ đó là một dấu hiệu mâu thuẫn
Một thanh kiếm sẽ xuyên qua tâm hồn của Ma-ri
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Ê-li-sê Và Quả Phụ-

2 Các Vua 4: 1-7

Chiếc áo choàng của Ê-li khi ông lên trời rơi trên người Ê-li-sê, và ông ấy nhận được một phần gấp đôi Thần Linh người tiền nhiệm. Điều này giải thích tính cách điển hình của chức vụ của ông - đó là quyền năng phục sinh. Điều này cần được ghi nhớ khi diễn giải sự kiện đẹp đẽ này trong phần kinh thánh này. Nhưng trước hết người ta phải hiểu hoàn cảnh của bà góa. Chồng của cô - người kính sợ Chúa - đã chết, để lại người vợ góa bụa trong nợ nần vô vọng đến nỗi chủ nợ đòi hai con trai của cô là đầy tớ cho họ.
Nói mặt khác, chủ nợ là ai? Tôi nghĩ cách sâu xa, đó là luật pháp, nó không hề biết đến lòng thương xót, đã liên tục khẳng định những yêu sách của nó. Do đó, nó đã mang đến cái chết cho người đàn ông (xem Rô-ma 7) và bây giờ tìm cách bắt hai người con trai làm nô lệ. Đừng ngạc nhiên khi người góa phụ nghèo này thở dài dưới gánh nặng không thể chịu đựng được của mình và cảm thấy buộc phải tìm kiếm một lối thoát.
Cô ấy tìm đến ai để được giúp đỡ và hỗ trợ? Đối với Ê-li-sê, một bức tranh của Đấng Christ phục sinh. Ông trả lời ngay lập tức và nói, “Tôi có thể giúp gì cho bà đây? Xin cho tôi biết, trong nhà bà còn có gì không? Bà thưa: “Tớ gái ông chẳng còn gì trong nhà, trừ một bình dầu nhỏ”. Lưu ý sự khác biệt giữa suy nghĩ của con người và suy nghĩ của Đức Chúa Trời. Hũ dầu chẳng là gì cả trong con mắt bà góa. Cô ấy không có gì "ngoài một lọ dầu." Tất cả những điều đó đều nằm trong tầm mắt của Đức Chúa Trời, và câu hỏi của Ê-li-sê là để gợi ra cho cô ấy nói lên sự thật rằng có hũ dầu đó trong nhà.
Dầu luôn là hình ảnh của Đức Thánh Linh trong Kinh thánh. Và bây giờ chúng ta sẽ thấy rằng việc sở hữu Đức Thánh Linh (chúng ta không nói về những kinh nghiệm cần thiết trước khi đạt được mục tiêu đó) là cách duy nhất để giải thoát thực tế khỏi ách thống trị của luật pháp. Cho đến thời điểm này, người đàn bà góa không biết giá trị của vật sở hữu duy nhất này trong nhà. Cô cũng không có tâm trạng để sử dụng những gì mình đã có.
Vì vậy, Ê-li-sê nói: “Hãy đi mượn thật nhiều bình không của những người láng giềng, đừng mượn ít. Khi trở về, bà và các con hãy vào nhà, đóng cửa lại, rồi đổ dầu vào tất cả các bình đó; bình nào đầy thì để riêng ra”. Ngay lập tức đức tin được khuấy động thành hoạt động sôi nổi. Cô tuân theo nhà tiên tri và cô phát hiện ra rằng nguồn cung cấp dầu là không giới hạn, hay đúng hơn là chỉ bị giới hạn bởi sức chứa của những chiếc bình rỗng của cô.
Vì khi các bình đầy, bà nói với con trai rằng: Hãy cho mẹ một cái bình nữa. Dầu liền ngừng lại. Bấy giờ, bà đến trình cho người của Đức Chúa Trời. Ông nói: “Hãy đem dầu đi bán mà trả nợ, rồi bà và các con sẽ sinh sống với số dầu còn lại".( Rôm 8:2) và bà phải tiếp tục sống trong quyền năng của cùng một Thần Linh (Rom 8:13; Gal. 5:25).
Một lời dạy khác nằm trên bề mặt nhiều hơn và tuy nhiên lại có tầm quan trọng lớn nhất. Người đàn bà góa, được Chúa dạy dỗ, nhận ra trong nỗi buồn sâu thẳm của mình rằng bà không bị giới hạn trong Chúa; rằng nguồn lực của Chúa dồi dào, vượt xa những gì cô ấy cần, và đức tin đó đã đưa cô ấy vào sự hiệp thông sống động với nguồn của mọi sự cứu trợ và giúp đỡ.
Chúng ta cũng biết rằng Đức Chúa Trời không bao giờ mệt mỏi trong việc đáp ứng các nhu cầu của chúng ta; rằng nhu cầu của chúng ta (được thể hiện bằng những chiếc bình rỗng) không bao giờ là quá nhiều bình không đối với Chúa. Chúng ta có thể đến với Chúa thường xuyên nếu chúng ta muốn, với bao nhiêu bình chứa mà đức tin của chúng ta có thể cung cấp; chúng ta cũng sẽ biết rằng kho ân điển và phước lành của Ngài có thể đổ đầy tất cả. Vì vậy, chúng ta nên há to miệng để Chúa có thể đổ đầy.-

Những Phụ Nữ Đã Xức Dầu Cho Chúa?

Ma-thi-ơ 26: 6-13; Mác 14: 3-9; Giăng 12: 1-8; Lu-ca 7: 37-50

Rõ ràng là có những điểm tương đồng nhất định trong các lời tường thuật về những người phụ nữ đã xức dầu Chúa. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các lời tường thuật trong Ma-thi-ơ 26: 6-13, Mác 14: 3-9 và Giăng 12: 1-8, và sự việc trong Lu-ca 7: 37-50. Bạn không nên coi người phụ nữ "là tội nhân" là đánh đồng với Ma-ri, em gái của La-xa-rơ. Hai người đó khác nhau. Người phụ nữ tội nhân trong Lu ca 7 là Ma-ri ma-đơ len.
Người phụ nữ trong Lu-ca có suy nghĩ hoàn toàn khác với Ma-ri , em gái La-xa-rơ khi cô đến gần Chúa. Được ân điển của Đấng Christ thu hút, cô ấy đã tìm thấy trong tấm lòng Chúa (và chỉ trong trái tim Đấng ấy) một thứ gì đó đáp ứng được nhu cầu sâu xa của tâm hồn cô ấy và ý thức đầy đủ về tội lỗi của cô ấy trước mặt Đức Chúa Trời. Do đó, việc rửa sạch và xức dầu cho bàn chân của Chúa Giê-su là sự bày tỏ lòng biết ơn và tình yêu kính của cô đối với Người mà tấm lòng đã trở thành nơi yên nghỉ của cô giữa gánh nặng tội lỗi của cô; vì khi biết điều đó, cô đã tìm thấy tấm lòng của Đức Chúa Trời của mọi ân điển trong trái tim của Chúa Jêsus. Bởi vì điều này, Chúa đã bảo vệ và xưng công bình cho cô khi bị chũ nhà sỉ nhục và cho cô ra đi trong bình an.
Ma-ri, em La-xa-rơ, có một cái gì đó hoàn toàn khác trong tâm trí. Dường như chỉ có một mình cô ấy đã hiểu được sự thật về cái chết của Đấng Christ, và do đó, như lời Chúa phán về cô, là cô đã xức dầu trước cho thân thể Ngài để chôn cất. Do đó, cô ấy phù hợp với những suy nghĩ của Chúa về cô ấy. Chúng ta không tìm thấy cô tại ngôi mộ vào buổi sáng phục sinh. Cô không tìm kiếm người sống giữa những người đã chết. Việc xức dầu của cô (lưu ý rằng cô không rửa chân cho Chúa bằng nước mắt của mình, chỉ lấy tóc mình lau chơn Chúa) là sự bày tỏ lòng tôn kính và thờ phượng của trái tim cô. Vì vậy, chúng ta đọc trong Nhã ca: “Trong khi vua ngự bàn ăn, Cam-tòng-hương tôi (là Ma-ri Bê-tha-ni) xông mùi thơm nó ra” (Nhã ca 1:12). Ma-ri thích hợp với câu Nhã ca 1;12 nầy.
Cũng có sự khác biệt giữa những lời tường thuật trong Ma-thi-ơ 26, Mác 14 và những lời tường thuật trong Giăng 12. Trong Ma-thi-ơ và Mác, đầu của Đấng Christ được xức dầu hai ngày trước lễ Vượt qua, còn trong Giăng nói xức dầu trên bàn chân của Chúa 6 ngày trước lễ Vượt qua. Điều này phù hợp với cách Chúa Giê-su Christ được trình bày trong mỗi phúc âm. Đầu của Ngài được xức dầu trong sách Ma-thi-ơ, nơi Chúa được trình bày như là Đấng Mê-si-a, cũng trong Mác với tư cách là tôi tớ Đức Chúa Trời; nhưng trong sách Giăng, nơi Ngài được thể hiện là Con đời đời, bàn chân được xức dầu — nơi duy nhất mà người thờ phượng Chúa được chạm đến khi quỳ lạy. Trong Lu-ca 7 cũng vậy, đó là bàn chân của Chúa, vì nó nói về hành động của một tội nhân ăn năn.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng những tư tưởng của Linh Đức Chúa Trời trong các sách Phúc âm được khám phá nhiều hơn trong những điểm khác biệt đặc trưng của chúng hơn nữa trong những nỗ lực hòa giải, tham chiếu những khác biệt của bốn sách.