Thứ Sáu, 19 tháng 2, 2021

CHỊU LÀM NỘ LỆ SAU KHI ĐƯỢC TỰ DO-

 Ga-la-ti 5:1- "Đấng Christ đã giải phóng để chúng ta được tự do. Vậy hãy đứng vững, đừng đặt mình dưới ách nô lệ một lần nữa"..

-- Biết mình và dân Chúa chịu oằn oại dưới ách nô lệ của Mẫu hội La mã, Martin Luther, Huldrych Zwingli, John Calvin... đã dùng lời Kinh thánh giải phóng dân Chúa ra khỏi hệ thống tôn giáo đương thời
--Sau đó 1 thế kỉ dân Chúa mà đã được tự do lại sa vào ách nô lệ cho hình thức chủ nghĩa như làm báp têm cho trẻ sơ sinh, cấm cầu nguyện tự phát theo tấm lòng mình cảm xúc mà phải cầu nguyện theo bài cầu nguyện sắp đặt sẵn, không được giảng đạo trên đường phố, tại chợ búa, mà chỉ rao giảng lời Kinh thánh trên tòa giảng. -- là nơi chí thánh, chỉ có mục tử mới được phép bước lên đó.
Chúa dấy lên Thanh giáo, có John Bunyan, tác giả quyển Thiên Lộ lịch trình, phong trào tìm kiếm sự thánh khiết của anh em Wesley--- tất cả đã giải phóng anh em tín đồ Cải chánh ra khỏi hình thức chủ nghĩa chết chóc.
--Thế kỉ 19 và 20, Chúa dùng John Nelson Darby và các đồng công ở Anh quốc, và Watchman Nee ở Trung Hoa, Bakht Singh ở Ấn độ.... đã giải phóng dân Chúa ra khỏi sự đô hộ của đảng Ni cô la, hệ thống mục sư, khiến mỗi tín đồ hiểu mình đều là tôi tớ Chúa, là thầy tế lễ phổ thông, được tự do hầu việc Chúa mà không bị hình thức tôn giáo nào cầm tù hết cả.
--Nhưng tôn giáo vẫn còn theo dõi sự tự do của bạn và tìm cách, với nhiều sự kiên nhẫn, để lại bắt bạn làm nô lệ và kiểm soát bạn. Bạn có thể hít thở tự do hôm nay không? Đó là quyền trưởng nam của bạn và sự tự do thoát khỏi một hệ thống kiểm soát của tôn giáo đã từng nghiền nát bạn và hoạt động của họ là lấy con người làm trung tâm, lấy tên tuổi giáo chủ của mình tôn lên làm đầu trên cả trái đất.
Có một lọai giáo hội cho mình là Phi la đen phi a. Họ đã được tự do nhóm họp theo 1 Cô rinh tô 14:24, là kết quả của hội anh em.-- mọi tín đồ đều có quyền nói lời Chúa-- nhưng nay hội thánh ấy bắt ép tín đồ mình nói lại, nói nhại lời của giáo chủ như con vẹt, như cái máy. Họ không được tự do nói lời Chúa theo kinh nghiệm cá nhân. Trước kia đã thoát hệ thống tăng lữ độc tài La mã để theo hệ thống mục sư Tin lành, nay hội anh em hô hào bỏ hệ thống mục sư của Tin lành thì lại bị ép mình phục dưới hệ thống siêu ni- cô- la, đến nỗi những thanh niên nói năng như con vẹt. Họ học lời văn tự ở các trung tâm, ?rồi ngạo mạn tự xưng mình là sứ đồ, là nhân vật gì đó quan trọng lắm, không coi những bô lão trong hội thánh ra cái gì cả.
Siêu hệ thống tôn giáo sau cùng nầy có khả năng kiểm soát các thành viên, điều động kẻ nầy xoi mói người kia, kiểm soát lẫn nhau để tạo ra một bầu không khí sợ hãi bao trùm toàn thể dân Chúa.
Tóm lại là Cơ Đố nhân , bạn được tự do bao nhiêu phần trăm? Được tự do mà đang bị siêu hệ thống Người Mới hoàn vũ kiểm soát chăng?
Xin Chúa giải cứu chúng ta.
M.K. 18-2-2021

HÀNH- TRÌNH ĐỨC TIN TRONG DANH CHÚA-2-

 - Đức Jehovah Rapha-- Môi-se-

Tôi được sinh ra vào thời Pha-ra-ôn ra lệnh quăng các hài nhi nam mới sinh xuống sông Nile. Cha tôi là Am-ram (Dân được tôn cao) cưới mẹ tôi là Giô-kê-bết (Jah là sự tôn trọng). Bà vốn là cô ruột của ông, tuổi tác trang lứa. Ông bà sinh ra chị cả tôi là Mi-ri-am (Mập, Dầy, Mạnh) , và anh A-rôn (Được soi sáng, Sáng Tỏ).
Mẹ tôi là một phụ nữ kỉnh kiền, tháo vác, năng nổ, nên khi thấy tôi sinh ra mặt mày tốt đẹp phương phi lạ thường (Công 7:20), bà không nở quăng tôi xuống sông nhưng cố gắng giấu tôi trong ba tháng (Heb. 11:23).
Do sự suy gẫm, cầu nguyện bà nảy sinh một ý tưởng táo bạo. Số là công chúa Pha-ra-ôn thường xuống sông Nile tắm theo lễ nghi thờ sông Nile như là vị thần. Mẹ tôi canh ngày mà công chuá có thể đi tắm, nên bà đã làm sẵn chiếc rương bằng dây mây, trét chai vào. Đến ngày mà bà tin là công chúa sẽ đi tắm, bà lấy mền gối rồi đặt tôi nằm vào rương ấy. Bà lội xuống mé sông và đặt chiếc rương trong bụi lau sậy. Chị Mi-ri-am của tôi, một người chị có tính tình mạnh mẽ, được bà bố trí núp đâu đó để theo dõi điều gì sẽ xảy ra.
Công chúa cùng ít cô hầu và mấy tên lính đã đi trên đường cặp theo bờ sông. Lạ lùng thay, Công chúa lội xuống khúc sông có chiếc rương. Công Chúa kêu tì nữ lội vớt chiếc rương cho nàng. Khi mở rương ra, công chúa thấy tôi đang kêu khóc. Chúa mở lòng trắc ẩn của nàng, và nàng động lòng thương xót đến tôi, một bé trai kháu khỉnh. Chị tôi lẹ làng chen đám người và thưa cùng công chúa: "bà có muốn tôi đi kêu một phụ nữ Hê bơ rơ cho em bé bú không?". Công chúa nói "ừ". Chị Mi- ri- am chạy kêu mẹ tôi. Kết quả là công chúa mướn mẹ tôi nuôi tôi cách hợp pháp. Chúa đã dùng công chúa để hợp thức hóa sự hiện hữu của tôi, một em bé Hê-bơ-rơ bị định tội chết, được phép sống còn trên mặt đất. Cám ơn Chúa.
Công chúa đặt cho tôi một cái tên là Môi se (vớt lên khỏi nước).
Trong khi ở nơi cung điện vàng son của công chúa, tôi cũng thường về thăm cha mẹ ruột và nghe ông bà kể chuyện về lịch sử dân tộc Hê bơ rơ của tôi. Tôi tin và tiếp nhận Chúa là Đức Chúa Trời mình.
Chế độ ăn uống của tôi, thì ôi thôi đủ thứ sơn hào hải vị, các loại hương vị đặc sắc của Ai cập như cá sông, củ hành, củ kiệu, tỏi, dưa chuột, dưa gang... đủ mùi, đủ vị.
Sau sự cố tôi nông nổi với bầu nhiệt huyết thiên nhiên, đã giết một người Ai cập, tôi phải chạy trốn vào đồng vắng mà không kịp từ giả mẹ nuôi, công chúa và cha mẹ ruột, và cũng không còn gặp mặt ba người thân yêu nhất nầy của tôi nữa.
Khi chạy vào sa mạc Ma đi an, tôi cũng không biết mình sẽ đi đâu. Nhưng Chúa đã tể trị cho tôi gặp gia đình thầy tế lễ Giê trô. Ông tiếp nhận tôi làm con rễ ông và tôi ở đó suốt 40 năm dài đến mức độ chán ngán về cuộc đời, và cảm thấy tuổi 80 của mình là tuổi chết. Chắc tôi sẽ qua đời sau năm 80 tuổi.
Sau 40 năm sống trong sa mạc, ăn thức ăn của dân sa mạc, tôi được cai khỏi những hương vị khoái khẩu của Ai cập.
Năm tôi 80 tuổi, Chúa hiện ra trong bụi gai cháy,kêu gọi tôi, và tôi được Chúa dùng giải phóng dân tộc Hê bơ rơ của mình ra khỏi Ai cập, ra đi vào đồng vắng Si nai rồi đến đồng vắng Xin.
Tôi thấy vì phản loạn Chúa mà dân tộc tôi có lắm kẻ phát ra những chứng bệnh của Ai cập. Chứng bệnh mãn tính rõ nét nhất là họ cứ thèm ăn các thức ăn mà họ đã ăn tại Ai cập. Họ không đủ khả năng để kiêng khem, để cai nhưng món ăn khoái khẩu đó.
Họ phàn nàn Chúa, "Bọn dân tạp trong dân Y-sơ-ra-ên thèm muốn thức ăn đến nỗi dân Israel lại than khóc rằng: “Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? Chúng tôi nhớ cá mà chúng tôi ăn không phải trả tiền tại Ai Cập cùng với dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành và tỏi. Bây giờ thể xác chúng tôi hao mòn, không có gì ăn hết, chỉ thấy ma-na mà thôi” (Dân 11). Ma na không thể xóa bỏ sự thèm thuồng thức ăn Ai cập của họ. Họ coi xứ Ai cập là "xứ đượm sữa và mật" (Dân 14: 13).
Họ cạn tàu ráo máng với Chúa khi nói, "Ước gì chúng tôi chết bởi tay Đức Giê-hô-va trong đất Ai Cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh no nê! Nhưng hai ông lại dẫn chúng tôi vào trong hoang mạc nầy để cả đoàn dân phải chết đói.” (Xuất 16:2-3).
Những triệu chứng thèm ăn những món khoái khẩu của Ai cập là do những chứng bệnh mãn tính gây ra. Tôi đã được cai thức ăn Ai cập 40 năm trước, còn anh em đồng hương của tôi bị chứng bệnh đó hạnh hạ, và nhiều người phải bỏ mạng vì bệnh thèm ăn đó.
Đó là lí do Chúa có phán với chúng tôi. "Nếu các con chăm chú nghe lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con, làm điều ngay thẳng trước mặt Ta, lắng tai nghe các điều răn và gìn giữ mọi luật lệ Ta thì Ta sẽ không giáng trên các con một bệnh nào trong các bệnh mà Ta đã giáng trên dân Ai Cập. Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bệnh cho các con.” (Xuất hành 15:26).
Trong nguyên ngữ Hê bơ rơ, thành ngữ "Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bệnh" là "Jehovah Rapha"-- Jehovah Lương Y. Tôi đã kinh nghiệm quyền năng của Chúa Rapha suốt 40 năm trong đồng vắng, Ngài đã cất sự thèm muốn thức ăn khoái khẩu Ai cập khỏi tôi, và còn cho tôi trường thọ tiếp sau năm 80 tuổi đến 120 tuổi, mà lúc ấy mắt tôi không làn, sức tôi không giảm, trí khôn của tôi cũng còn minh mẫn.
Rất tiếc dân tộc tôi không có nhiều thì giờ để tin và vui hưởng Đức Jehovah Ra- pha, nên hơn 600 ngàn nam đinh từ 20 tuổi trở lên, kể cả ông anh của tôi là A-rôn, ngoại trừ hai người là Ca lép và Giô suê, tất cả đều ngã chết trong sa mạc do những cơn dịch bệnh thèm ăn phát tán giữa dân Chúa. Thật thảm thay!
Hodos 18-2-2021
Có thể là hình ảnh về đám mây và văn bản cho biết 'Jehovah Rapha - The Lord Who Heals Exodus 15:26'
Bạn, Thanh Huyền, Trần Xuân Mai và 1 người khác
4 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Hai Bức Tranh Cuộc Sống-

 Thi thiên 1:1-4, “Phước cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ,Chẳng đứng trong đường tội nhân, Không ngồi chỗ của kẻ nhạo báng; Song lấy làm vui vẻ về luật pháp của Đức Giê-hô-va, Và suy gẫm luật pháp ấy ngày và đêm. Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sanh bông trái theo thì tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo; Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng. Kẻ ác chẳng như vậy đâu; Nhưng chúng nó khác nào rơm rác gió thổi bay đi”.

-
Thi thiên 3:1, “Thơ Đa-vít làm, khi người trốn khỏi Áp-sa-lôm, con trai người. Đức Giê-hô-va ôi! Kẻ cừu địch tôi đã thêm nhiều dường bao! Lắm kẻ dấy lên cùng tôi thay!”
-
Thi thiên 73:2-3, “Thơ A-sáp làm--Còn về phần tôi, chân tôi đã gần vấp, Suýt chút bước tôi phải trượt. Vì khi tôi thấy sự hưng thịnh của kẻ ác…”.
Thi thiên 2: 6,12 “Dầu vậy, ta đã lập Vua ta Trên Si-ôn là núi thánh ta…Hãy hôn Con, e Người nổi giận, Và các ngươi hư mất trong đường chăng; Vì cơn thạnh nộ Người hòng nổi lên. Phàm kẻ nào nương náu mình nơi Người có phước thay!”.
BẠN THUỘC VỀ BỨC TRANh NÀO??
-
Thi thiên thứ nhất tỏ ra,
Cuộc đời thịnh vượng của nhà cựu dân,
Suy tư luật pháp nhiều lần,
Bình an cuộc sống muôn phần vui thay.
Người tôn luật pháp lên ngai,
Tin rằng mãi hưởng tháng ngày vui tươi,
Kẻ làm ác sống nổi trôi,
Rác rơm cơn gió cuốn lôi di dời!
Niềm tin nầy đã đổ rồi,
Chương ba người chạy thiệt thòi vì con,
Nhọc nhằn tìm chỗ dừng chơn,
Cuộc đời thánh thiện không còn phước chi,
Chứng minh A-sáp đúng y:
Người làm điều ác có kỳ hưng lên (!).
Thi thiên số một đổ liền,
Phúc âm sự thịnh vượng trên sai lầm!
Tuyên ngôn của Đấng siêu phàm,
Thi thiên hai đó, trung tâm lời Ngài.
Jesus sống lại lên ngai,
Là chỗ nương náu phước thay cho người,
Tuân hành luật pháp tạm thời,
Hôn Con, yêu Chúa đời đời phước an,
Ai không tin gặp tai nàn,
Sẽ như bình gốm vỡ tan sau nầy.
Tuyên ngôn của Chúa nào sai,
Người tin cùng hưởng đất nầy với Vua,
Phước ân trường cửu có thừa,
Dành cho chính bạn ngàn xưa đến giờ.
Tin lời Đa-vít hồ đồ,
Cuộc đời bạn sẽ bơ vơ thêm hoài;
Hãy tin lời Đấng trên ngai,
Hạnh vinh đời bạn trong Ngài vô chung.
Thiên Trinh- Feb. 2021

Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

HÀNH- TRÌNH ĐỨC TIN TRONG DANH CHÚA- 1-


 - Đức Jehovah Jireh-- Áp-ra-ham-

Tôi đã được sinh ra và lớn lên tại thành phố U-rơ (Sáng chói) tại xứ Canh đê, vùng đất Si-nê-a, hay Mê-sô-bô-ta-mi (Lưỡng hà), ở bên kia sông lớn Ơ-phơ-rát. Tổ phụ tôi thờ hình tượng từ nhiều đời tiếp sau cơn nước lụt (Giô suê 24;2).
Tôi lớn lên trong đất thờ thần tượng, mọi nhà đều thờ thần tượng, ngoại trừ một thiểu số của dòng tộc cụ Sem.
Ngày kia thình lình có một vị Thần với ánh sáng chói lòa đã hiện ra cho tôi vào năm tôi được 60 tưổi. Tôi không biết Ngài, nên tạm gọi Ngài là Đức Chúa Trời vinh hiển (Công 7:2). Ngài bảo tôi hãy ra khỏi vòng thân tộc, hãy bỏ quê quán mà đi đến một xứ ở vùng cao mà Ngài sẽ chỉ đường cho tôi từng bước một.
Sau đó, tôi từng tham kiến cụ Sem vì cụ còn sống mãi cả sau khi tôi vào xứ Ca na an rồi. Những cuộc hội kiến như vậy đã giúp ích cho tôi rất nhiều về sự hiểu biết Elohim (Đức Chúa Trời) mà chính cụ đã biết từ trước cơn nước lụt.
Tính tôi là ưa trù trừ do dự, không quyết đoán, nên cứ ở lại U-rơ vài ba mươi năm. Tôi tỏ bày sự việc cho thân phụ tôi là Tha-rê (Chậm trễ) biết. Ông tụ hội gia tộc, nói lời giải thích cuộc ra đi. Em ruột tôi là Na cô ở lại cùng gia tộc. Lót, con của Ha ran, cũng em tôi, (đã chết), là cháu nội thân phụ tôi phải ra đi theo ông. Thế rồi ngày chia li đến. khi cha mẹ tôi là ông bà Tha rê, với vợ chồng tôi, và Lót cháu ruột, kêu tôi bằng bác, đã cất bước li hương, đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Gia đình Na cô nghe biết ít nhiều về Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cho tôi tại U-rơ.
Sau khi chúng tôi ra đi rồi, tại U-rơ, Na cô có sinh được 8 cậu con trai. Con cả là Ut-xơ, lập ra cụm dân cư trong sa mạc (Sáng 22:20-24). Từ dòng dõi của Út xơ có xuất hiện một nhân vật đặc biệt là Gióp (Gióp 1: 1). Anh ta cũng là hậu tự trong chi tộc Tha rê của bố tôi. Còn con trai út thứ tám của Na cô, là Bê-tu ên. Ông nầy là bố của La-ban và Rê-be-ca. Cho nên về sau tôi sai người đến cưới dâu cho Y sac con tôi trong gia đình Bê tu ên, Na cô tại U rơ.
Chúng tôi ra đi, qua sông Ơ-phơ-rát rồi đi dọc theo bờ sông bên kia xứ Mê-sô-bô-ta-mi, chúng tôi đến Cha -ran là vùng đất phiá bắc nước Sy-ri-a. Thân phụ tôi không chịu đi nữa, do đó chúng ta sống tại Cha -ran cũng phải mấy mươi năm, nhưng không còn thờ hình tượng như khi còn ở U-rơ.
Vì lí do vượt qua sông cái Ơ-phơ rát mà dân Ca na an đặt cho tôi một nickname, một biệt hiệu để châm biếm là Hê-bơ rơ (Hi bá lai)- (Sáng 14:13). Nickname nầy ngụ ý "dân qua sông", nói lên hạng người mất gốc, bỏ ông bỏ bà đi theo thần ngoại quốc nào đó. Các dân tộc định cư cố định trên trái đất như Babylon, Ba tư, Ai cập đều khinh dể dân Hê bơ rơ chúng tôi, vì chúng tôi là người chăn chiên, là dân lang thang mà ảo tưởng tự xưng mình là lữ khách của thiên thành gì đó. Dân Ai cập rất gớm chúng tôi ( Sáng 43: 32), vì chúng tôi như người ảo tưởng, theo một vị Thần không thấy được, để tìm một quê hương tốt hơn xứ Ai cập (Hê 11;13-14) Họ cười vào mũi tôi là hoang tưởng đi tìm một thành phố có các nền tảng (Hê 11:10).
Về sau nầy, sau khi tôi bỏ xứ Cha ran và vào Ca na an, cả gia đình Bê-tu-ên, La ban đã đến cư ngụ ở trong cơ ngơi của chúng tôi tại Cha ran. Còn những 7 con trai của Na cô ở lại tại U-rơ hay đi đâu, dường như Kinh thánh không chép.
Đến năm tôi được 75 tưổi (Sáng 12:5) tuổi đức tin, còn tuổi của đời sống cũ là 135, thì chính năm đó thân phụ tôi qua đời trong niềm tin mà tôi truyền cho ông.
Chúa đã hiện ra lần thứ hai tại Cha-ran và phán với tôi: "Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước cho con, Làm rạng rỡ danh con, Và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, Nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con;
Mọi dân trên đất Sẽ nhờ con mà được phước” (Sáng 12:1-3).
Tôi liền dẫn vợ, Lót là cháu và người đầy tớ thân tín, người Sy-ri-a mà tôi đã mua tại Đa mách. (Sáng 15:2).
Sau khi ở trong xứ ca na an được 10 năm, vì không con thừa kế nên Sa-rai cưới A-ga, một phụ nữ Ai cập cho tôi làm thiếp, với mục đích nhờ nàng mà Áp-ra-ham sẽ có con nối nghiệp. Năm sau A-ga sinh cho tôi một con trai đặt tên là Ích-ma-ên (Đức Chúa Trời nghe).- Sáng. 16:3-
Trước khi Ich am ên sinh ra, trong xứ có cơn đói kém. Tôi cũng bắt chước dân Ca na an trong xứ, khi nào gặp khó khăn trong cuộc sống thì nên xuống Ai-cập để tìm sự trợ cấp. Trong thời đó tôi coi Ai cập như thiên đàng, vùng đất hứa đượm sữa và mật. Tôi đã để lại gương xấu là đi xuống, là chạy theo đế quốc để tìm sự an ninh và sự thinh vượng vật chất..
Sau khi từ Ai cập trở về, tôi chia tay với Lót, tiếp rước Chúa và hai thiên sứ đến thăm. Tôi đã cầu thay xin Chúa cứu Lót khỏi cơn hủy diệt tại Sô-đôm.
Sau khi vợ tôi là Sa ra sinh cho tôi một con trai thừa kế theo lời hứa của Chúa vào năm tôi 100 tuổi, tôi phải vâng lời Chúa cho hai mẹ con A-ga và Ích-ma-ên ra đi theo lệnh xua đuổi của A-ga.
Sau khi con đầu lòng yêu dấu của mình là Ích -am-ên ra đi rồi, Y-sác trở nên con cưng, là quý tử của tôi. Y-sác đã chiếm hữu lòng dạ, tâm tư và chi phối cả cuộc đời tôi, nên Chúa ghen tương. Ngài bảo tôi phải dâng hiến nó làm của lễ thiêu tại núi Mô-ri-a (Sáng 22:4; 2 Sử 3:1). Tôi gạt nước mắt, không dám bàn luận với vợ và mang con trai yêu quý lên đỉnh núi.
Sau khi bắt con chiên đực sừng mắc trong bụi cây để thay thế cho Y-sác, tôi nhận biết Chúa là Đức Jehovah Jireh. Chữ Jireh có nghĩa là thấy trước và dự bị trước, là quan phòng. Danh Jehovah Jireh là Danh thánh của Ngài mà tôi nhận được sự khải thị tại trên núi nầy. Chúa đã dự bị chính mình Ngài là sự thay thế mọi nhu cần cho tôi, cho dân tộc đức tin của tôi trong đời nầy và cho đến cõi đời đờ. Cám ơn Chúa trong suốt hành trình đức tin 180 năm dài theo Chúa, và 60 năm sống trong thế giới thần tượng, tôi đã thấy, hiểu và kinh nghiệm Ngài là Đức Jehovah Jireh.
Khải Đạo 16-2-2020- Đức Jehovah Jireh-- Áp-ra-ham-
Tôi đã được sinh ra và lớn lên tại thành phố U-rơ (Sáng chói) tại xứ Canh đê, vùng đất Si-nê-a, hay Mê-sô-bô-ta-mi (Lưỡng hà), ở bên kia sông lớn Ơ-phơ-rát. Tổ phụ tôi thờ hình tượng từ nhiều đời tiếp sau cơn nước lụt (Giô suê 24;2).
Tôi lớn lên trong đất thờ thần tượng, mọi nhà đều thờ thần tượng, ngoại trừ một thiểu số của dòng tộc cụ Sem.
Ngày kia thình lình có một vị Thần với ánh sáng chói lòa đã hiện ra cho tôi vào năm tôi được 60 tưổi. Tôi không biết Ngài, nên tạm gọi Ngài là Đức Chúa Trời vinh hiển (Công 7:2). Ngài bảo tôi hãy ra khỏi vòng thân tộc, hãy bỏ quê quán mà đi đến một xứ ở vùng cao mà Ngài sẽ chỉ đường cho tôi từng bước một.
Sau đó, tôi từng tham kiến cụ Sem vì cụ còn sống mãi cả sau khi tôi vào xứ Ca na an rồi. Những cuộc hội kiến như vậy đã giúp ích cho tôi rất nhiều về sự hiểu biết Elohim (Đức Chúa Trời) mà chính cụ đã biết từ trước cơn nước lụt.
Tính tôi là ưa trù trừ do dự, không quyết đoán, nên cứ ở lại U-rơ vài ba mươi năm. Tôi tỏ bày sự việc cho thân phụ tôi là Tha-rê (Chậm trễ) biết. Ông tụ hội gia tộc, nói lời giải thích cuộc ra đi. Em ruột tôi là Na cô ở lại cùng gia tộc. Lót, con của Ha ran, cũng em tôi, (đã chết), là cháu nội thân phụ tôi phải ra đi theo ông. Thế rồi ngày chia li đến. khi cha mẹ tôi là ông bà Tha rê, với vợ chồng tôi, và Lót cháu ruột, kêu tôi bằng bác, đã cất bước li hương, đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Gia đình Na cô nghe biết ít nhiều về Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cho tôi tại U-rơ.
Sau khi chúng tôi ra đi rồi, tại U-rơ, Na cô có sinh được 8 cậu con trai. Con cả là Ut-xơ, lập ra cụm dân cư trong sa mạc (Sáng 22:20-24). Từ dòng dõi của Út xơ có xuất hiện một nhân vật đặc biệt là Gióp (Gióp 1: 1). Anh ta cũng là hậu tự trong chi tộc Tha rê của bố tôi. Còn con trai út thứ tám của Na cô, là Bê-tu ên. Ông nầy là bố của La-ban và Rê-be-ca. Cho nên về sau tôi sai người đến cưới dâu cho Y sac con tôi trong gia đình Bê tu ên, Na cô tại U rơ.
Chúng tôi ra đi, qua sông Ơ-phơ-rát rồi đi dọc theo bờ sông bên kia xứ Mê-sô-bô-ta-mi, chúng tôi đến Cha -ran là vùng đất phiá bắc nước Sy-ri-a. Thân phụ tôi không chịu đi nữa, do đó chúng ta sống tại Cha -ran cũng phải mấy mươi năm, nhưng không còn thờ hình tượng như khi còn ở U-rơ.
Vì lí do vượt qua sông cái Ơ-phơ rát mà dân Ca na an đặt cho tôi một nickname, một biệt hiệu để châm biếm là Hê-bơ rơ (Hi bá lai)- (Sáng 14:13). Nickname nầy ngụ ý "dân qua sông", nói lên hạng người mất gốc, bỏ ông bỏ bà đi theo thần ngoại quốc nào đó. Các dân tộc định cư cố định trên trái đất như Babylon, Ba tư, Ai cập đều khinh dể dân Hê bơ rơ chúng tôi, vì chúng tôi là người chăn chiên, là dân lang thang mà ảo tưởng tự xưng mình là lữ khách của thiên thành gì đó. Dân Ai cập rất gớm chúng tôi ( Sáng 43: 32), vì chúng tôi như người ảo tưởng, theo một vị Thần không thấy được, để tìm một quê hương tốt hơn xứ Ai cập (Hê 11;13-14) Họ cười vào mũi tôi là hoang tưởng đi tìm một thành phố có các nền tảng (Hê 11:10).
Về sau nầy, sau khi tôi bỏ xứ Cha ran và vào Ca na an, cả gia đình Bê-tu-ên, La ban đã đến cư ngụ ở trong cơ ngơi của chúng tôi tại Cha ran. Còn những 7 con trai của Na cô ở lại tại U-rơ hay đi đâu, dường như Kinh thánh không chép.
Đến năm tôi được 75 tưổi (Sáng 12:5) tuổi đức tin, còn tuổi của đời sống cũ là 135, thì chính năm đó thân phụ tôi qua đời trong niềm tin mà tôi truyền cho ông.
Chúa đã hiện ra lần thứ hai tại Cha-ran và phán với tôi: "Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước cho con, Làm rạng rỡ danh con, Và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, Nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con;
Mọi dân trên đất Sẽ nhờ con mà được phước” (Sáng 12:1-3).
Tôi liền dẫn vợ, Lót là cháu và người đầy tớ thân tín, người Sy-ri-a mà tôi đã mua tại Đa mách. (Sáng 15:2).
Sau khi ở trong xứ ca na an được 10 năm, vì không con thừa kế nên Sa-rai cưới A-ga, một phụ nữ Ai cập cho tôi làm thiếp, với mục đích nhờ nàng mà Áp-ra-ham sẽ có con nối nghiệp. Năm sau A-ga sinh cho tôi một con trai đặt tên là Ích-ma-ên (Đức Chúa Trời nghe).- Sáng. 16:3-
Trước khi Ich am ên sinh ra, trong xứ có cơn đói kém. Tôi cũng bắt chước dân Ca na an trong xứ, khi nào gặp khó khăn trong cuộc sống thì nên xuống Ai-cập để tìm sự trợ cấp. Trong thời đó tôi coi Ai cập như thiên đàng, vùng đất hứa đượm sữa và mật. Tôi đã để lại gương xấu là đi xuống, là chạy theo đế quốc để tìm sự an ninh và sự thinh vượng vật chất..
Sau khi từ Ai cập trở về, tôi chia tay với Lót, tiếp rước Chúa và hai thiên sứ đến thăm. Tôi đã cầu thay xin Chúa cứu Lót khỏi cơn hủy diệt tại Sô-đôm.
Sau khi vợ tôi là Sa ra sinh cho tôi một con trai thừa kế theo lời hứa của Chúa vào năm tôi 100 tuổi, tôi phải vâng lời Chúa cho hai mẹ con A-ga và Ích-ma-ên ra đi theo lệnh xua đuổi của A-ga.
Sau khi con đầu lòng yêu dấu của mình là Ích -am-ên ra đi rồi, Y-sác trở nên con cưng, là quý tử của tôi. Y-sác đã chiếm hữu lòng dạ, tâm tư và chi phối cả cuộc đời tôi, nên Chúa ghen tương. Ngài bảo tôi phải dâng hiến nó làm của lễ thiêu tại núi Mô-ri-a (Sáng 22:4; 2 Sử 3:1). Tôi gạt nước mắt, không dám bàn luận với vợ và mang con trai yêu quý lên đỉnh núi.
Sau khi bắt con chiên đực sừng mắc trong bụi cây để thay thế cho Y-sác, tôi nhận biết Chúa là Đức Jehovah Jireh. Chữ Jireh có nghĩa là thấy trước và dự bị trước, là quan phòng. Danh Jehovah Jireh là Danh thánh của Ngài mà tôi nhận được sự khải thị tại trên núi nầy. Chúa đã dự bị chính mình Ngài là sự thay thế mọi nhu cần cho tôi, cho dân tộc đức tin của tôi trong đời nầy và cho đến cõi đời đờ. Cám ơn Chúa trong suốt hành trình đức tin 180 năm dài theo Chúa, và 60 năm sống trong thế giới thần tượng, tôi đã thấy, hiểu và kinh nghiệm Ngài là Đức Jehovah Jireh.
Khải Đạo 16-2-2020

TRÔNG ĐỢI CHÚA-

 Thi thiên 27:14 "Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; Hãy mạnh mẽ và can đảm! Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va".

Động từ trông đợi là "qâvâh" có nghĩa là: to expect: - gather (together), look, patiently, tarry, wait (for, on, upon).-- chờ đợi, nhìn về phiá đó cách kiên nhẫn.
Bản Việt văn dịch là "trông cậy" không đúng, mà phải dịch là "trông đợi", "trông chờ".
Kinh thánh minh họa những người thánh đồ trông đợi Chúa như sau:
--Áp ram cùng vợ là Sa rai và cháu và Lót vào xứ Ca na an khi ông 75 tuổi. Chúa hứa ban cho ông đứa con thừa kế, ông phải tin lời hứa của Chúa và trông đợi suốt 25 năm. Cuối cùng vào năm ông 100 tuổi, vợ ông sinh cho ông một con trai.
- - Đa vít được Chúa xức dầu làm vua tương lai của Israel vào năm ông khoảng 15, hay 16 tuổi. Ông phải trông chờ lời hứa ấy suốt 13 năm cho đến khi lên làm vua cả nước Israel.
-- Giô suê chương 6 kể lại Giô suê phải thấp thỏm trông đợi, trông chờ Chúa thi hành việc làm sụp đổ và chiếm hữu thành phố Giê ri cô bằng cách ông và các chiến sĩ khiêng hòm thánh đi quanh thành phố suốt 7 ngày. Ông chờ suốt 7 ngày.
Ngày nay anh em có trông đợi điều gì từ Chúa không? Trông đợi theo lời Chúa hứa không?
Hê bơ rơ 11:10-- Áp ra ham "mong đợi một thành phố có nền móng do Đức Chúa Trời thiết kế và xây dựng".-
Tín đồ trông đợi nước Chúa như Áp ra ham
Lu ca 21:26- Người ta ngất xỉu vì khiếp sợ và phập phồng chờ đợi các biến cố xảy ra trên thế giới--
Dân thế giới ngày nay đang lo âu trông chờ những biến cố kinh khủng sắp xảy đến.
Ngày nay dân thế giới vô tín đang phập phồng canh chừng những tai họa, dịch lệ sẽ xảy ra.
Tín đồ nên có thái độ của những người trông đợi, trông chờ Chúa như sau:
"Lưng các con phải thắt lại, đèn các con phải thắp lên.
Các con phải làm như những người đang chờ đợi chủ mình ở tiệc cưới về, để khi chủ về đến, gõ cửa thì mở ngay. Phước cho những đầy tớ ấy, khi chủ về thấy họ đang thức canh! Thật, Ta bảo các con, chủ sẽ thắt lưng mình, mời các đầy tớ ngồi vào bàn tiệc và đến phục vụ họ. Nếu canh hai, canh ba, chủ trở về thấy các đầy tớ như vậy thì thật là phước hạnh cho họ! Hãy biết điều nầy: Nếu chủ nhà biết được kẻ trộm đến giờ nào thì sẽ không để cho nó xâm nhập nhà mình. Các con cũng phải sẵn sàng, vì Con Người đến trong giờ các con không ngờ.” (Lu ca 12: 35-40).
Bạn trông chờ điều gì trong những tháng đầu năm 2021 nầy??
KĐ- 15-2-2021
Có thể là hình ảnh về bầu trời và văn bản cho biết 'Wait on the Lord. Be of good courage, And He shall strengthen your heart WAIT, I say, on the LORD Psalm 27:14'
Bạn, Samuel Nguyễn Trung, Trần Thị Ánh Nguyệt và 3 người khác
2 lượt chia sẻ
Thích
Thích
Bình luận
Chia sẻ

XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN-

 

Lu ca 11:1, "Đức Chúa Jêsus đang cầu nguyện ở một nơi kia. Khi cầu nguyện xong, một môn đồ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, như Giăng đã dạy các môn đồ mình vậy.

Bạn có kinh nghiệm nếp sống cầu nguyện đúng đắn theo như lời dạy dỗ của Chúa không?
Sa tan tấn công con dân Chúa, cản trở họ cầu nguyện. Những ai thắng đựợc các quỷ cản trở cầu nguyện sẽ lại gặp sự tấn công của các quỷ phá họ ngay vào lúc họ khởi sự mở miệng cầu nguyện, nhằm phá hỏng nội dung họ cầu nguyện, vô hiệu hóa thì giờ cầu nguyện đó.
1. Nghệ thuật cầu nguyện:
Cầu nguyện là một thao tác khó. Ngay khi bạn quỳ xuống nhắm mắt để khởi sự cầu nguyện sẽ vạch trần đời sống thuộc linh của bạn:
--Tâm trí bạn lang thang không tập trung cầu nguyện được. Bạn rất khó tập trung tư tưởng chừng 5 phút để cầu nguyện. Hôm nào bạn dùng chiếc đồng hồ canh giờ, coi trong 5 phút bạn sẽ cầu nguyện được bao nhiêu vấn đề.
--Dễ dàng tán gẫu với bạn bè hơn là cầu nguyện.
Nhiều bạn bè vì lâu ngày không gặp nhau nên khi gặp lại họ sẽ để ra hàng giờ đồng hồ để tâm sự cách dễ dàng, đầy lòng chân thành, nhưng bạn không có khả năng cầu nguyện chừng 15 phút với Chúa mà tâm trí mình không lang thang.
2. Công tác cầu nguyện-
Con dân Chúa có lòng kỉnh kiền luôn luôn muốn góp phần làm công việc gì cho Chúa, nhưng bạn ơi, sự cầu nguyện là công tác lớn nhất, quý nhất và khó làm nhất.
Bạn thử lập ra một sổ cầu nguyện cho công việc Chúa trên nước Việt nam, hoặc cả thế giới đi, điều đó sẽ bày tỏ con người thật của bạn là gì và tình trạng thuộc linh của bạn như thế nào.
Hãy ghi ra tên các nước và dân số của họ. Bạn có gánh nặng, có sự kiên trì và linh lực để cầu nguyện cho sự cứu rỗi của từng dân tộc hay một số nước nào đó trong 5 hay 10 năm chăng? Nên sự cầu nguyện cho công việc Chúa trong nơi kín nhiệm, không ai biết là một công tác cao quý nhất trong mọi công tác làm cho Chúa
Bạn có công tác cầu nguyện không?
3. Chiến trận thuộc linh trong sự cầu nguyện-
Ngay khi bạn nhắm mắt cầu nguyện các quỷ sẽ bắn hỏa mù vào tâm trí bạn, khiến bạn bối rối, khiến bạn quên hết những điều nên cầu nguyện, mà trước khi cầu nguyện bạn đã rất am hiểu và quyết tâm.
Thực ra các quỷ không đến gần tấn công tâm trí bạn khi bạn cầu nguyện đâu, nhưng sa tan đã cài sẵn năng lực, nhồi nhét trước tư tưởng của quỷ trong tâm trí của bạn từ trước khi bạn sinh ra rồi. Tâm trí của chúng ta chưa biến đổi, nên rất khó cầu nguyện thông suốt được.
Tóm lại, xin Chúa dạy chúng ta, huấn luyện chúng ta, xử lí chúng ta rất nhiều trước khi chúng ta có thể làm một chiến sĩ cầu nguyện thuần thục.
Hodos 15-2-2021