- Đức Jehovah Jireh-- Áp-ra-ham-
Tôi đã được sinh ra và lớn lên tại thành phố U-rơ (Sáng chói) tại xứ Canh đê, vùng đất Si-nê-a, hay Mê-sô-bô-ta-mi (Lưỡng hà), ở bên kia sông lớn Ơ-phơ-rát. Tổ phụ tôi thờ hình tượng từ nhiều đời tiếp sau cơn nước lụt (Giô suê 24;2).
Tôi lớn lên trong đất thờ thần tượng, mọi nhà đều thờ thần tượng, ngoại trừ một thiểu số của dòng tộc cụ Sem.
Ngày kia thình lình có một vị Thần với ánh sáng chói lòa đã hiện ra cho tôi vào năm tôi được 60 tưổi. Tôi không biết Ngài, nên tạm gọi Ngài là Đức Chúa Trời vinh hiển (Công 7:2). Ngài bảo tôi hãy ra khỏi vòng thân tộc, hãy bỏ quê quán mà đi đến một xứ ở vùng cao mà Ngài sẽ chỉ đường cho tôi từng bước một.
Sau đó, tôi từng tham kiến cụ Sem vì cụ còn sống mãi cả sau khi tôi vào xứ Ca na an rồi. Những cuộc hội kiến như vậy đã giúp ích cho tôi rất nhiều về sự hiểu biết Elohim (Đức Chúa Trời) mà chính cụ đã biết từ trước cơn nước lụt.
Tính tôi là ưa trù trừ do dự, không quyết đoán, nên cứ ở lại U-rơ vài ba mươi năm. Tôi tỏ bày sự việc cho thân phụ tôi là Tha-rê (Chậm trễ) biết. Ông tụ hội gia tộc, nói lời giải thích cuộc ra đi. Em ruột tôi là Na cô ở lại cùng gia tộc. Lót, con của Ha ran, cũng em tôi, (đã chết), là cháu nội thân phụ tôi phải ra đi theo ông. Thế rồi ngày chia li đến. khi cha mẹ tôi là ông bà Tha rê, với vợ chồng tôi, và Lót cháu ruột, kêu tôi bằng bác, đã cất bước li hương, đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Gia đình Na cô nghe biết ít nhiều về Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cho tôi tại U-rơ.
Sau khi chúng tôi ra đi rồi, tại U-rơ, Na cô có sinh được 8 cậu con trai. Con cả là Ut-xơ, lập ra cụm dân cư trong sa mạc (Sáng 22:20-24). Từ dòng dõi của Út xơ có xuất hiện một nhân vật đặc biệt là Gióp (Gióp 1: 1). Anh ta cũng là hậu tự trong chi tộc Tha rê của bố tôi. Còn con trai út thứ tám của Na cô, là Bê-tu ên. Ông nầy là bố của La-ban và Rê-be-ca. Cho nên về sau tôi sai người đến cưới dâu cho Y sac con tôi trong gia đình Bê tu ên, Na cô tại U rơ.
Chúng tôi ra đi, qua sông Ơ-phơ-rát rồi đi dọc theo bờ sông bên kia xứ Mê-sô-bô-ta-mi, chúng tôi đến Cha -ran là vùng đất phiá bắc nước Sy-ri-a. Thân phụ tôi không chịu đi nữa, do đó chúng ta sống tại Cha -ran cũng phải mấy mươi năm, nhưng không còn thờ hình tượng như khi còn ở U-rơ.
Vì lí do vượt qua sông cái Ơ-phơ rát mà dân Ca na an đặt cho tôi một nickname, một biệt hiệu để châm biếm là Hê-bơ rơ (Hi bá lai)- (Sáng 14:13). Nickname nầy ngụ ý "dân qua sông", nói lên hạng người mất gốc, bỏ ông bỏ bà đi theo thần ngoại quốc nào đó. Các dân tộc định cư cố định trên trái đất như Babylon, Ba tư, Ai cập đều khinh dể dân Hê bơ rơ chúng tôi, vì chúng tôi là người chăn chiên, là dân lang thang mà ảo tưởng tự xưng mình là lữ khách của thiên thành gì đó. Dân Ai cập rất gớm chúng tôi ( Sáng 43: 32), vì chúng tôi như người ảo tưởng, theo một vị Thần không thấy được, để tìm một quê hương tốt hơn xứ Ai cập (Hê 11;13-14) Họ cười vào mũi tôi là hoang tưởng đi tìm một thành phố có các nền tảng (Hê 11:10).
Về sau nầy, sau khi tôi bỏ xứ Cha ran và vào Ca na an, cả gia đình Bê-tu-ên, La ban đã đến cư ngụ ở trong cơ ngơi của chúng tôi tại Cha ran. Còn những 7 con trai của Na cô ở lại tại U-rơ hay đi đâu, dường như Kinh thánh không chép.
Đến năm tôi được 75 tưổi (Sáng 12:5) tuổi đức tin, còn tuổi của đời sống cũ là 135, thì chính năm đó thân phụ tôi qua đời trong niềm tin mà tôi truyền cho ông.
Chúa đã hiện ra lần thứ hai tại Cha-ran và phán với tôi: "Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước cho con, Làm rạng rỡ danh con, Và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, Nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con;
Mọi dân trên đất Sẽ nhờ con mà được phước” (Sáng 12:1-3).
Tôi liền dẫn vợ, Lót là cháu và người đầy tớ thân tín, người Sy-ri-a mà tôi đã mua tại Đa mách. (Sáng 15:2).
Sau khi ở trong xứ ca na an được 10 năm, vì không con thừa kế nên Sa-rai cưới A-ga, một phụ nữ Ai cập cho tôi làm thiếp, với mục đích nhờ nàng mà Áp-ra-ham sẽ có con nối nghiệp. Năm sau A-ga sinh cho tôi một con trai đặt tên là Ích-ma-ên (Đức Chúa Trời nghe).- Sáng. 16:3-
Trước khi Ich am ên sinh ra, trong xứ có cơn đói kém. Tôi cũng bắt chước dân Ca na an trong xứ, khi nào gặp khó khăn trong cuộc sống thì nên xuống Ai-cập để tìm sự trợ cấp. Trong thời đó tôi coi Ai cập như thiên đàng, vùng đất hứa đượm sữa và mật. Tôi đã để lại gương xấu là đi xuống, là chạy theo đế quốc để tìm sự an ninh và sự thinh vượng vật chất..
Sau khi từ Ai cập trở về, tôi chia tay với Lót, tiếp rước Chúa và hai thiên sứ đến thăm. Tôi đã cầu thay xin Chúa cứu Lót khỏi cơn hủy diệt tại Sô-đôm.
Sau khi vợ tôi là Sa ra sinh cho tôi một con trai thừa kế theo lời hứa của Chúa vào năm tôi 100 tuổi, tôi phải vâng lời Chúa cho hai mẹ con A-ga và Ích-ma-ên ra đi theo lệnh xua đuổi của A-ga.
Sau khi con đầu lòng yêu dấu của mình là Ích -am-ên ra đi rồi, Y-sác trở nên con cưng, là quý tử của tôi. Y-sác đã chiếm hữu lòng dạ, tâm tư và chi phối cả cuộc đời tôi, nên Chúa ghen tương. Ngài bảo tôi phải dâng hiến nó làm của lễ thiêu tại núi Mô-ri-a (Sáng 22:4; 2 Sử 3:1). Tôi gạt nước mắt, không dám bàn luận với vợ và mang con trai yêu quý lên đỉnh núi.
Sau khi bắt con chiên đực sừng mắc trong bụi cây để thay thế cho Y-sác, tôi nhận biết Chúa là Đức Jehovah Jireh. Chữ Jireh có nghĩa là thấy trước và dự bị trước, là quan phòng. Danh Jehovah Jireh là Danh thánh của Ngài mà tôi nhận được sự khải thị tại trên núi nầy. Chúa đã dự bị chính mình Ngài là sự thay thế mọi nhu cần cho tôi, cho dân tộc đức tin của tôi trong đời nầy và cho đến cõi đời đờ. Cám ơn Chúa trong suốt hành trình đức tin 180 năm dài theo Chúa, và 60 năm sống trong thế giới thần tượng, tôi đã thấy, hiểu và kinh nghiệm Ngài là Đức Jehovah Jireh.
Khải Đạo 16-2-2020- Đức Jehovah Jireh-- Áp-ra-ham-
Tôi đã được sinh ra và lớn lên tại thành phố U-rơ (Sáng chói) tại xứ Canh đê, vùng đất Si-nê-a, hay Mê-sô-bô-ta-mi (Lưỡng hà), ở bên kia sông lớn Ơ-phơ-rát. Tổ phụ tôi thờ hình tượng từ nhiều đời tiếp sau cơn nước lụt (Giô suê 24;2).
Tôi lớn lên trong đất thờ thần tượng, mọi nhà đều thờ thần tượng, ngoại trừ một thiểu số của dòng tộc cụ Sem.
Ngày kia thình lình có một vị Thần với ánh sáng chói lòa đã hiện ra cho tôi vào năm tôi được 60 tưổi. Tôi không biết Ngài, nên tạm gọi Ngài là Đức Chúa Trời vinh hiển (Công 7:2). Ngài bảo tôi hãy ra khỏi vòng thân tộc, hãy bỏ quê quán mà đi đến một xứ ở vùng cao mà Ngài sẽ chỉ đường cho tôi từng bước một.
Sau đó, tôi từng tham kiến cụ Sem vì cụ còn sống mãi cả sau khi tôi vào xứ Ca na an rồi. Những cuộc hội kiến như vậy đã giúp ích cho tôi rất nhiều về sự hiểu biết Elohim (Đức Chúa Trời) mà chính cụ đã biết từ trước cơn nước lụt.
Tính tôi là ưa trù trừ do dự, không quyết đoán, nên cứ ở lại U-rơ vài ba mươi năm. Tôi tỏ bày sự việc cho thân phụ tôi là Tha-rê (Chậm trễ) biết. Ông tụ hội gia tộc, nói lời giải thích cuộc ra đi. Em ruột tôi là Na cô ở lại cùng gia tộc. Lót, con của Ha ran, cũng em tôi, (đã chết), là cháu nội thân phụ tôi phải ra đi theo ông. Thế rồi ngày chia li đến. khi cha mẹ tôi là ông bà Tha rê, với vợ chồng tôi, và Lót cháu ruột, kêu tôi bằng bác, đã cất bước li hương, đi mà không biết mình sẽ đi đâu. Gia đình Na cô nghe biết ít nhiều về Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cho tôi tại U-rơ.
Sau khi chúng tôi ra đi rồi, tại U-rơ, Na cô có sinh được 8 cậu con trai. Con cả là Ut-xơ, lập ra cụm dân cư trong sa mạc (Sáng 22:20-24). Từ dòng dõi của Út xơ có xuất hiện một nhân vật đặc biệt là Gióp (Gióp 1: 1). Anh ta cũng là hậu tự trong chi tộc Tha rê của bố tôi. Còn con trai út thứ tám của Na cô, là Bê-tu ên. Ông nầy là bố của La-ban và Rê-be-ca. Cho nên về sau tôi sai người đến cưới dâu cho Y sac con tôi trong gia đình Bê tu ên, Na cô tại U rơ.
Chúng tôi ra đi, qua sông Ơ-phơ-rát rồi đi dọc theo bờ sông bên kia xứ Mê-sô-bô-ta-mi, chúng tôi đến Cha -ran là vùng đất phiá bắc nước Sy-ri-a. Thân phụ tôi không chịu đi nữa, do đó chúng ta sống tại Cha -ran cũng phải mấy mươi năm, nhưng không còn thờ hình tượng như khi còn ở U-rơ.
Vì lí do vượt qua sông cái Ơ-phơ rát mà dân Ca na an đặt cho tôi một nickname, một biệt hiệu để châm biếm là Hê-bơ rơ (Hi bá lai)- (Sáng 14:13). Nickname nầy ngụ ý "dân qua sông", nói lên hạng người mất gốc, bỏ ông bỏ bà đi theo thần ngoại quốc nào đó. Các dân tộc định cư cố định trên trái đất như Babylon, Ba tư, Ai cập đều khinh dể dân Hê bơ rơ chúng tôi, vì chúng tôi là người chăn chiên, là dân lang thang mà ảo tưởng tự xưng mình là lữ khách của thiên thành gì đó. Dân Ai cập rất gớm chúng tôi ( Sáng 43: 32), vì chúng tôi như người ảo tưởng, theo một vị Thần không thấy được, để tìm một quê hương tốt hơn xứ Ai cập (Hê 11;13-14) Họ cười vào mũi tôi là hoang tưởng đi tìm một thành phố có các nền tảng (Hê 11:10).
Về sau nầy, sau khi tôi bỏ xứ Cha ran và vào Ca na an, cả gia đình Bê-tu-ên, La ban đã đến cư ngụ ở trong cơ ngơi của chúng tôi tại Cha ran. Còn những 7 con trai của Na cô ở lại tại U-rơ hay đi đâu, dường như Kinh thánh không chép.
Đến năm tôi được 75 tưổi (Sáng 12:5) tuổi đức tin, còn tuổi của đời sống cũ là 135, thì chính năm đó thân phụ tôi qua đời trong niềm tin mà tôi truyền cho ông.
Chúa đã hiện ra lần thứ hai tại Cha-ran và phán với tôi: "Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: “Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước cho con, Làm rạng rỡ danh con, Và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, Nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con;
Mọi dân trên đất Sẽ nhờ con mà được phước” (Sáng 12:1-3).
Tôi liền dẫn vợ, Lót là cháu và người đầy tớ thân tín, người Sy-ri-a mà tôi đã mua tại Đa mách. (Sáng 15:2).
Sau khi ở trong xứ ca na an được 10 năm, vì không con thừa kế nên Sa-rai cưới A-ga, một phụ nữ Ai cập cho tôi làm thiếp, với mục đích nhờ nàng mà Áp-ra-ham sẽ có con nối nghiệp. Năm sau A-ga sinh cho tôi một con trai đặt tên là Ích-ma-ên (Đức Chúa Trời nghe).- Sáng. 16:3-
Trước khi Ich am ên sinh ra, trong xứ có cơn đói kém. Tôi cũng bắt chước dân Ca na an trong xứ, khi nào gặp khó khăn trong cuộc sống thì nên xuống Ai-cập để tìm sự trợ cấp. Trong thời đó tôi coi Ai cập như thiên đàng, vùng đất hứa đượm sữa và mật. Tôi đã để lại gương xấu là đi xuống, là chạy theo đế quốc để tìm sự an ninh và sự thinh vượng vật chất..
Sau khi từ Ai cập trở về, tôi chia tay với Lót, tiếp rước Chúa và hai thiên sứ đến thăm. Tôi đã cầu thay xin Chúa cứu Lót khỏi cơn hủy diệt tại Sô-đôm.
Sau khi vợ tôi là Sa ra sinh cho tôi một con trai thừa kế theo lời hứa của Chúa vào năm tôi 100 tuổi, tôi phải vâng lời Chúa cho hai mẹ con A-ga và Ích-ma-ên ra đi theo lệnh xua đuổi của A-ga.
Sau khi con đầu lòng yêu dấu của mình là Ích -am-ên ra đi rồi, Y-sác trở nên con cưng, là quý tử của tôi. Y-sác đã chiếm hữu lòng dạ, tâm tư và chi phối cả cuộc đời tôi, nên Chúa ghen tương. Ngài bảo tôi phải dâng hiến nó làm của lễ thiêu tại núi Mô-ri-a (Sáng 22:4; 2 Sử 3:1). Tôi gạt nước mắt, không dám bàn luận với vợ và mang con trai yêu quý lên đỉnh núi.
Sau khi bắt con chiên đực sừng mắc trong bụi cây để thay thế cho Y-sác, tôi nhận biết Chúa là Đức Jehovah Jireh. Chữ Jireh có nghĩa là thấy trước và dự bị trước, là quan phòng. Danh Jehovah Jireh là Danh thánh của Ngài mà tôi nhận được sự khải thị tại trên núi nầy. Chúa đã dự bị chính mình Ngài là sự thay thế mọi nhu cần cho tôi, cho dân tộc đức tin của tôi trong đời nầy và cho đến cõi đời đờ. Cám ơn Chúa trong suốt hành trình đức tin 180 năm dài theo Chúa, và 60 năm sống trong thế giới thần tượng, tôi đã thấy, hiểu và kinh nghiệm Ngài là Đức Jehovah Jireh.
Khải Đạo 16-2-2020