HÀNH-TRÌNH ĐỨC TIN TRONG DANH CHÚA- 7-
Chủ Của Trái Đất—Giô-suê-
Trong nguyên ngữ
Hê-bơ-rơ của kinh Cựu ước có chữ Adonai (số nhiều), và chữ Adon (số ít) đều được
dịch là Chủ, trong nguyên văn Hi lạp của Kinh Tân ước có chữ Kurios được dịch
là Chúa.
Trong Hoa ngữ chủ và
chúa tương đương, nhưng trong Việt ngữ thì có khác nhau. Chủ nhật hay Chúa nhật
có khác nhau không đáng kể.
Từ ngữ Adonai, Chúa, hay
Chủ xuất hiện lần đầu ở Sáng thế kí 15: 8, “Nhưng Áp-ram thưa: “Lạy Chúa
Giê-hô-va, làm sao con biết rằng mình sẽ được thừa hưởng đất nầy?”.-Hợp danh “Adonai
Jehovah” xuất hiện 200 lần trong sách Ê-xê-chi-ên, ngụ ý Đức Jehovah là Sở hữu
chủ bất di dịch của dân Israel đến đời đời.
Có một hợp danh là “Adon của Trái đất”, là “Chủ của trái đất”
được khải thị cách đặc biệt cho Giô-suê, nhà lãnh đạo dẫn dân Israel chinh phục
đất hứa. Chỉ có bản TKTC dịch chính xác. Giô-suê 3:11,13 TKTC “Kìa, rương
giao-ước của Chúa của tất cả trái đất đang vượt qua ở phía trước các ngươi vào trong
sông Giô-đanh. Và sẽ xảy ra khi các lòng bàn chân những thầy tế-lễ khiêng cái
rương của Đức GIA-VÊ, Chúa của tất cả trái đất, sẽ đứng yên trong nước sông
Giô-đanh, nước sông Giô-đanh sẽ bị cắt đứt, nước đang đi xuống từ phía trên, và
chúng sẽ đứng thành một đống".
Trái đất nguyên thủy
thuộc về Chúa. Sau khi sáng tạo A-đam, Chúa giao quyền quản trị trái đất cho
ông, khi Ngài phán, “Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy
sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất;
hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển,loài chim trên trời cùng các vật sống
hành động trên mặt đất”.
Sa tan cám dỗ và chiếm hữu được loài người, do đó qua sự lan
tràn của loài người, vốn là nô lệ và là bình chứa đựng của sa -tan, sa tan chiếm
đoạt quyền sở hữu trái đất. Nhưng khi Chúa bắt đầu có dân Israel ra khỏi Ai-cập,
Ngài kể trái đất nầy thuộc về Ngài, Ngài lại muốn làm “Chủ trái đất” theo tư cách
Đấng cứu chuộc.
Nhắc lại, Khi vua Sa-lem là thượng tế Mên-chi-xê-đéc đón đường
chúc phuớc Áp-ra-ham sau cuộc chiến thắng quân thù, ông đã chúc phước: “Phước
ban cho Áp-ram của Đức Chúa TRỜI Chí-Cao, Sở hữu chủ trời và đất”. Áp-ra-ham được
ấn tượng về thành ngữ “Sở hữu chủ trời và đất”, nên ông dõng dạc tuyên bố trước
mặt vua Sô-đôm, một địa chủ của sa-tan,"Tôi đã giơ tay tôi lên cùng GIA-VÊ
Đức Chúa TRỜI Chí-Cao, Đấng sở hữu trời và đất, rằng: tôi sẽ không lấy một sợi
chỉ hay một dây da cột giày hay bất cứ cái gì của vua” (Sáng 14 TKTC).
Sáng-thế-kí 24 kể lại
rằng, nhiều năm sau, sau khi tiêu hóa lẽ thật về “Chủ trái đất”, Áp-ra-ham nói
với quản gia mình: "Xin đặt tay ngươi dưới đùi ta, và ta sẽ khiến ngươi thề
bởi Đức GIA-VÊ, Đức Chúa TRỜI của trời và Đức Chúa TRỜI của đất, rằng: ngươi sẽ
không được lấy vợ cho con trai ta từ các con gái của dân Ca-naan, mà ta sống ở
giữa”. Qua sự hiện diện của gia đình Áp-ra-ham, Chúa đã trở thành Đức Chúa Trời
của trái đất.
Danh xưng “Chủ cả trái
đất” xuất hiện lần đầu tiên ở Giô-suê 3:11,13. Danh nầy chỉ xuất hiện 4 lần nữa
ở: Thi thiên 97:5; Mi chê 4:13; Xa- cha-ri 4:14; 6:5. Tôi khuyên bạn chú ý 6
câu Kinh thánh nầy nói về Chủ của cả trái đất là Chúa Giê-su Christ.
Thời hậu lưu đày trong
hai sách E-xơ-ra và Nê-hê-mi, Israel không còn là chứng cớ của Đức Trời trên
trái đất. Chúa bị ép buộc rút về trời, nên Kinh thánh chỉ gọi Ngài là “Đức Chúa
TRỜI của trời” trong kinh nghiệm của Nê-hê-mi. “Bấy giờ xảy ra, khi tôi nghe
các lời nầy, tôi ngồi xuống và khóc và thương-tiếc nhiều ngày; và tôi đang
kiêng-ăn và cầu-nguyện trước Đức Chúa TRỜI của trời. Và tôi nói: "Con
van-nài Chúa, ôi GIA-VÊ Đức Chúa TRỜI của trời, Đức Chúa TRỜI vĩ-đại và đáng sợ…”
(Nê-hê-mi 1:4-5 TKTC).
Bốn trăm năm sau, theo Ma-thi-ơ 11:25, qua sự hiện diện của Chúa
Giê-su và những môn đồ, là dân tin Ngài, nên Chúa cầu nguyện với Cha là Đấng Tạo
Hóa “Lúc ấy Jêsus nói rằng: "Cha ơi, Cha là Chúa của trời đất, con khen tạ
Cha, vì Cha đã giấu những điều nầy với kẻ khôn ngoan thông sáng, mà bày tỏ cho
con trẻ”. “Cha là Chúa của trời đất” theo nguyên văn là: “Father, Lord of the
heaven and of the earth”.
Khải huyền 11:4 trích dẫn từ Xa-cha-ri 4:14; 6:5 khi viết,“Hai
người ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai giá đèn đứng trước mặt Chúa của trái đất”. Vào giờ cuối cùng, khi
đại nạn gần kết thúc, Chúa Giê -su trở nên Chủ Của Trái Đất cách hợp pháp. Lúc ấy
có tuyên bố từ trời vang lên, “Thiên sứ thứ bảy thổi lên, liền có những tiếng lớn
trên trời rằng:“Nước của thế giới đã trở nên nước của Chúa chúng ta và của Đấng
Christ của Ngài, Ngài sẽ làm Vua cho đến đời đời vô cùng”.
Ngay sau đó, bè lũ
Lucifer và các thiên sứ ác bị đuối xuống trái đất, rồi có thêm một tuyên ngôn,
“Tôi bèn nghe trên trời có tiếng lớn nói rằng: “Bây giờ sự cứu rỗi, quyền năng,
nước của Đức Chúa Trời chúng ta, và quyền
bính của Đấng Christ của Ngài đã đến” (Khải 12: 10). Bốn mươi hai tháng đại nạn
sau đó, chủ quyền trên trái đất nầy hoàn toàn thuộc về Chúa Giê-su, theo tư
cách Cứu Chúa, không theo tư cách Đấng Tạo Hóa, Ngài là Chủ cả trái đất mà
Giô-suê đã thấy từ khoảng 3500 năm trước.
Tiên tri Đa-ni-ên nói trước về ngày huy hoàng đó, “Bấy giờ nước,
quyền thế, và sự tôn đại của muôn nước ở dưới cả trời, sẽ được ban cho dân các thánh của Đấng Rất Cao. Nước Ngài
là nước đời đời, và hết thảy các quyền thế đều hầu việc và vâng lời Ngài” (Đa
7:27).
-@
Sau đây tôi ghi lại hồi
ức của Giô-suê, là con người đã khám phá
ra Danh hiệu của Chúa là “Chủ của cả trái đất”.
Tên cúng cơm của tôi khi còn thơ ấu là Hô-sê, về sau tên nầy
được Môi se sửa lại là Giô-suê “Môi-se đổi
tên Hô-sê, con trai Nun thành Giô-suê” (Dân 13:16). Thầy tôi rất thông minh,
quán thông cổ kim, nên ông nói với tôi rằng Giô-suê là tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng mẹ
đẻ của chúng tôi, nhưng trong tiếng Hi lạp thì từ ngữ Giô suê có thể chuyển thành
tiếng Giê-su. Và ông cũng cho biết Giô-suê và Giê-su đều có nghĩa là Jah saves-
“Đức Gia-Vê cứu”.
Tôi là một người Israel, thuộc chi phái Ép-ra im, được cha mẹ
tôi sinh ra tại Gô-sen, xứ Ai-cập.
Một ngày kia khi lên 18 tuổi, tôi cùng bọn trẻ đang đùa giởn
tại đầu ngỏ dẫn vào khu biệt lập Gô-sen của chúng tôi. Có một đoàn người đi vào
ngỏ. Hai ông già khoảng 80 tuổi, một bà già tuổi 60, và hai người con trai, tuổi
chừng 25, 30 mà về sau tôi mới biết tên là: Ghẹt-sôn (Khách Ngoại Bang) và
Ê-li-ê-se (Đức Chúa Trời vùa giúp). Hai người thanh niên là con của ông bà
Môi-se và Sê-phô-ra. Đoàn
người có 5 con lửa và hành lý bề bộn. Thấy vậy tôi tình nguyện xin vác phụ hành
lý về nhà của cụ A-rôn là người cao tuổi nhất trong đoàn, mà tôi biết nhà. Nhờ
dịp đó, cụ Môi se có cảm tình với tôi, và mở lời nói với tôi là khi nào rảnh lại
nhà cụ chơi với hai con trai cụ, vì hai anh còn xa lạ với cộng đồng dân Hê-bơ-rơ
của chúng tôi. Từ đó có một mối giây thân mật giữa cụ Môi-se 80 tuổi và tôi, một
thanh thiếu niên 18 tuổi.
Khi ra khỏi Ai-cập,
toàn dân chúng tôi đóng trại theo từng 12 chi phái tại chân núi Si-nai chừng 9
tháng. Cụ Môi se xin phép bố mẹ tôi cho tôi đến
trại của cụ để làm kẻ sai vặt của cụ trọn thời gian. Tôi ở bên cụ Môi-se
như bóng với hình. Tôi biết sử dụng vũ khí, nên cụ dùng tôi là người bảo vệ. Nhờ
sống bên cụ, như học trò, như bạn thân, nên tôi có được nhiều sự hiểu biết,
thông cảm và dự phần các kinh nghiệm của cụ ít nhiều.
Khi quân A-ma-léc khêu
chiến, cụ ủy thác cho tôi dẫn một đội quân không chuyên, nhưng đã đánh bại quân
A-ma-léc.
Cụ đã lên núi Si-nai
hai lần để diện kiến Chúa và nhận lãnh hai bảng đá chép 10 điều răn. Cụ vào
trong động đá đầy vinh quang gặp Chúa hai lần, mỗi lần 40 ngày đêm, không ăn
không uống. Vì không chuẩn bị đem lương thực theo, tôi ngủ ở ngoài trong một
hang đá khác, và ngày ngày phải kiếm trái cây, thú rừng để ăn, và uống nước suối
để có thể sống suốt 40 ngày đêm. Lần sau tôi có đem theo lương khô cho 40 ngày
đêm khi lên núi lần thứ nhì.
Trong trại quân tại
Si-nai và trại quân đóng tại Ca-đe, Cụ môi se đã để ra hai lần kiêng ăn và cầu
nguyện suốt 40 ngày đêm, lần nhất cho tội thờ bò con vàng, và lần nhì cho sự cứng
cổ của dân thánh không chịu vào chiếm đất hứa. Tôi ở bên cạnh để chăm sóc cụ suốt
thời gian và tôi không kiêng ăn nổi, nên có dùng chút đỉnh thức ăn, nhưng tôi
có tìm một góc trai để tự mình tập sự cầu nguyện cầu thay những nhu cầu mà cụ đang
cầu nguyện. Vì cụ có tỏ cho tôi biết nội dung sự cầu nguyện bền đổ của mình.
Điều lạ lùng là cụ Môi
se có ngủ ít tiếng đồng hồ mỗi đêm, nhưng cụ không ăn không uống suốt hai cơ hội
40 ngày đêm ấy, mà sức khỏe cụ vẫn bình thường. Về sau tôi mới thấm thía hiểu rằng:
người nào diện kiến mặt Chúa lâu ngày thì da mặt mình sẽ thật sáng rực, vì được
Chúa truyền dẫn cho sự sống, sức khỏe từ Ngài, nên cụ rất khỏe mạnh, dù nhịn ăn
uống suốt 40 ngày đêm.
Tôi ăn và ngủ gần bên cụ suốt 40 năm trong hành trình qua sa
mạc.Tôi đã cùng dân Chúa chịu cảnh lưu lạc trong sa mạc 40 năm. Khi thầy tôi là
Môi-se ra đi ở với Chúa, tôi được Ngài chọn lựa thay thế thầy tôi, vào năm tôi 58
tuổi.
Sau khi toàn dân Israel
vượt qua sông Giô-đanh, tôi đã dẫn dắt dân Israel trong khoảng 40 năm chinh phục đất hứa, chia xứ
ra cho các chi phái rồi tôi về an nghỉ hưu hạ tại thị trấn Thim-nát-Sê-rách. Tôi
viết “Khi người ta đã chia xứ theo giới hạn xong rồi, thì dân Y-sơ-ra-ên lấy ở
giữa mình một sản nghiệp mà cấp cho Giô-suê, con trai của Nun. Dân Y-sơ-ra-ên
vâng mạng của Đức Giê-hô-va, cấp cho người cái thành mà người xin,tức là thành
Thim-nát-Sê-rách trong núi Ép-ra-im. Người xây thành và ở tại đó” (Giô suê 19:49-50)..
Năm tôi được 100 tuổi,
tại tư gia của tôi tại thị trấn nầy, tôi bắt đầu viết lại câu chuyện dân Israel
từ sau ngày Môi-se qua đời cho đến ngày tôi họp toàn dân tại Si-chem. Tôi viết lại
trong quyển sách mang tên tôi mấy câu nầy để chấm dứt quyển sách: “Rồi Giô-suê
nói cùng cả dân chúng rằng: Kìa, hòn đá nầy sẽ dùng làm chứng cho chúng ta; vì nó có nghe mọi lời
Đức Giê-hô-va đã phán cùng chúng ta; nó
dùng làm chứng cho các ngươi, e các ngươi bỏ Đức Chúa Trời mình chăng. Đoạn, Giô-suê
cho dân sự trở về, ai nấy đều về trong sản nghiệp mình” (Giô-suê 24: 27-28).
Tôi có dặn thượng tế
Phi-nê-a rằng sau khi tôi chết, ông ấy phải viết vài câu về sự chết và chôn cất
của tôi cùng của thượng tế Ê-lê-a-sa, bố của Phi-nê-a, vào quyển sách Giô-suê nầy
để kết thúc câu chuyện liên quan đến tôi trong chuyển động của Chúa..
Tôi qua đời năm 110 tuổi. “Sau các việc đó, Giô-suê, con trai
Nun, đầy tớ CHÚA qua đời, thọ được một
trăm mười tuổi. Người ta an táng người
trong lãnh thổ cơ nghiệp người tại Thim-nát
Sê-rách, trên miền rừng núi Ép-ra-im,phía bắc núi Ga-ách”. (Giô-suê 24: 29-30)
Hodos Deng April 5, 2021