Bất cứ lập trường nào các tín đồ nhường cho
các ác linh đều xui khiến các ác linh công tác. Trong tất cả các lập trường
này, lập trường quan trọng nhất là sự thụ động vì sự thụ động biểu hiện thái độ
của ý muốn, và ý muốn đại diện cho cả con người. Sự thụ động có thể khiến các
ác linh công tác tự do. Tất nhiên, một công tác như vậy luôn luôn được ngụy
trang bên ngoài để các tín đồ không nhận thức rằng các ác linh đang công tác.
Các tín đồ lún sâu vào trong sự thụ động qua sự thiếu hiểu biết. Khi họ hiểu
lầm vị trí của tâm trí trong nếp sống thuộc linh, cho nó quá quan trọng hoặc
kém quan trọng, họ sẽ để cho tâm trí của mình lún sâu vào trong sự thụ động.
Khi đó, họ bước theo các ý tưởng của tâm trí thụ động. Do đó, việc nhìn thấy
cách dẫn dắt của Đức Chúa Trời là tuyệt đối cần thiết.
Tâm trí trở nên thụ động là do sự hiểu sai ý
nghĩa của sự hiến dâng cho Đức Chúa Trời và vâng phục Thánh Linh. Nhiều tín đồ
nghĩ rằng các ý tưởng của họ là các sự ngăn trở cho nếp sống thuộc linh. Họ
không biết rằng sự ngăn trở thật là khi
đầu óc họ ngừng làm việc hoặc khi nó làm việc trong sự lộn xộn. Họ không nhận
thức được rằng sự tác nhiệm đúng đắn của cái đầu là điều ích lợi và cần thiết
vì chỉ bởi tác nhiệm theo cách này, một người mới có thể cùng lao tác với Đức
Chúa Trời. Trước đây chúng ta đã nhấn mạnh rằng cách đúng đắn để bước theo sự
dẫn dắt của Đức Chúa Trời là lệ thuộc vào trực giác chứ không lệ thuộc vào tâm
trí. Điều này rất trọng yếu và chúng ta không nên quên. Một tín đồ phải bước
theo sự khải thị trong trực giác chứ không theo các ý tưởng trong tâm trí.
Những ai bước đi theo tâm trí đều đang bước đi theo xác thịt. Nó dẫn đến con
đường sai trật. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tâm trí vô dụng trong
những điều thứ yếu. Nếu xem tâm trí là một cơ quan chỉ đạo sự tương giao với
Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự khải thị
thì chúng ta hoàn toàn sai. Nhưng điều này không có nghĩa là tâm trí không được
thực hiện phần công việc của nó hoặc giúp đỡ trực giác. Trực giác là cơ quan
nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhưng chúng ta vẫn cần tâm trí để kiểm tra
xem cảm nhận của chúng ta ra từ trực giác hay là sự giả mạo của chính tình cảm
chúng ta. Chúng ta phải biết cảm nhận
bên trong có phải là ý muốn của Đức Chúa Trời và phù hợp với Kinh Thánh không.
Chúng ta nhận biết rằng trực giác, nhưng chúng ta xác nhận bằng tâm trí. Chúng
ta dễ có xu hướng phạm sai lầm biết bao!. Nếu chúng ta không có sự hỗ trợ của
tâm trí thì thật khó để chúng ta quyết định điều gì thuộc Đức Chúa Trời.
Để bước theo sự hướng dẫn cách đúng đắn cần
phải có tâm trí. Trong nhiều trường hợp, sự hướng dẫn của trực giác trái với lý
lẽ, và chúng ta không nên sử dụng tâm trí để cãi lại trực giác của mình; đúng
hơn, chúng ta nên sử dụng tâm trí mình để nghiên cứu xem điều đó có ra từ Đức
Chúa Trời hay không. Tâm trí nhận biết ý muốn của Đức Chúa rất nhanh chóng,
nhưng chúng ta cần thời gian để suy xét và cân nhắc bằng tâm trí xem điều chúng
ta biết có ra từ trực giác và Thánh Linh hay không. Nếu điều đó ra từ Đức Chúa
Trời, đang khi chúng ta suy xét và cân nhắc, trực giác sẽ cho chúng ta cảm nhận
xác định hơn và khiến chúng ta có đức tin sâu hơn để tin rằng điều đó ra từ Đức
Chúa Trời. Loại công tác này – và chỉ có loại kiểm tra này – bởi tâm trí mới là
điều ích lợi và đúng đắn. Nếu sự vận dụng này ra từ các ý tưởng và cảm nhận
thuộc xác thịt, thì việc kiểm tra sẽ khiến lương tâm phản đối. Vì vậy, một sự
điều tra hợp lý vì chủ đích hiểu biết xem một điều gì đó có ra từ Đức Chúa Trời
hay không thì không phải là một sự ngăn trở, mà là cơ hội để trực giác, nó sẽ
không sợ bất cứ sự điều tra nào bởi lý lẽ trong tâm trí. Trái lại, nhiều sự dẫn
dắt e ngại sự điều tra có lẽ là bắt nguồn từ bản ngã! Tâm trí không nên nắm
quyền dẫn dắt, nhưng tâm trí nhất định cần thiết trong việc kiểm tra mọi loại
dẫn dắt xem điều đó có ra từ Đức Chúa Trời hay không.
Loại dạy dỗ này phù hợp với Kinh Thánh vì
Kinh Thánh nói: “Vậy nên đừng ngu dại, mà
phải hiểu ý muốn của Chúa là gì” ….”Hãy
chứng thực điều gì là đẹp lòng Chúa” (Eph. 5:17, 10) Chức năng của tâm trí
không thể bị chôn vùi. Đức Chúa Trời không phủ nhận quan năng của hồn người;
đúng hơn, Ngài đổi mới và sử dụng nó. Đức Chúa Trời muốn các tín đồ nhận biết
điều họ đang làm khi vâng phục Ngài; Ngài không muốn có sự vâng phục vô cảm và
mù quáng. Đức Chúa Trời không muốn các tín đồ u mê trong những điều họ đang
làm. Ngài không muốn họ nghe hoặc cảm nhận một điều gì đó rồi cứ cho rằng họ
sáng tỏ về ý muốn của Đức Chúa Trời và hành động theo đó. Đức Chúa Trời cũng
không muốn trực tiếp điều khiển bất kỳ tín đồ nào chỉ để người ấy vâng phục
cách thiếu hiểu biết trong sự tăm tối. Đức Chúa Trời muốn tín đồ hiểu biết ý
muốn của Ngài và tự vận dụng để vâng phục cách có ý thức. Một người lười biếng
không muốn gánh bất cứ trách nhiệm nào về chính mình; người ấy chỉ muốn để cho
Đức Chúa Trời sử dụng mình hoặc các chi thể của mình cách thụ động. Nhưng Đức
Chúa Trời muốn con người chủ động tìm kiếm ý muốn của Ngài và vận dụng ý muốn
của mình và chính mình để vâng phục Ngài. Đức Chúa Trời muốn trực giác của con
người tán thành với ý thức của người ấy.
Tuy nhiên, các tín đồ không nhận thức rằng
đây mới đúng là đường ray cho sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Họ để cho chính
mình lún sâu vào trong sự thụ động, hi vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ đặt ý muốn của Ngài vào trong tâm trí họ.
Họ có thể nhận được một sự dẫn dắt siêu nhiên nào đó và có thể bước theo cách
mù quáng mà không kiểm tra bằng tâm trí xem sự dẫn dắt này có ra từ Đức Chúa
Trời hay không. Họ có thể vận dụng các chi thể mình cách thiếu suy xét và không
hiểu biết sáng tỏ về ý muốn của Đức Cháu Trời, hi vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ bằng
cách nào đó sử dụng các chi thể của họ mà không cần sự nỗ lực có ý thức của họ.
kết quả của hành vi này là bị quỷ ám. Điều kiện để quỷ ám là sự thụ động trong
con người (chúng ta sẽ nói chi tiết về điều này ở phần khác). Khi con người
không sử dụng tâm trí mình, Đức Chúa Trời cũng sẽ không sử dụng, vì làm như vậy
là trái với nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời. Kết quả là các ác linh sẽ
chớp lấy thời cơ để chiếm hữu tâm trí tín đồ. Vô số tín đồ không biết rằng có
các ác linh trong thế giới và các ác linh này đang dốc sức để lừa dối con cái
Đức Chúa Trời. Nếu các tín đồ đáp ứng đủ điều kiện để các ác linh công tác,
chúng sẽ công tác. Hơn nữa, chúng ở khắp mọi nơi đang rình rập và tìm cơ hội để
bước vào chiếm hữu các tín đồ. Vì vậy, để cho tâm trí của mình lún sâu vào
trong sự thụ động là một điều hết sức ngu dại.
Có một vấn đề khác mà chúng ta phải biết:
điều kiện để các ác linh công tác. Chúng ta đã nói vắn tắt về sự thụ động. Tuy
nhiên, chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu thêm nữa về điều đó. Trong thế giới,
có một số người rất có hứng thú tương giao với các ác linh. Không một người
bình thường nào muốn bị quỷ ám, nhưng những người này sẵn lòng bị quỷ ám. Đây
là các đồng bóng, những người cầu cơ, đồng cốt, gọi hồn (những kẻ “đem” các
linh xuống). Nếu cẩn thận xem xét lý do họ bị quỷ ám, chúng ta có thể hiểu nguyên tắc cho mọi trường hợp bị quỷ ám vì mọi trường hợp bị quỷ ám đều
tuân theo cùng một nguyên tắc. Những người này bảo chúng ta rằng để bị quỷ, mà
họ gọi là thần ám, ý muốn của họ phải hoàn toàn không kháng cự. Điều này nghĩa
là họ phải sẵn lòng chấp nhận bất cứ điều gì đến với thân thể họ. Tuy nhiên, để
ý muốn của họ trở nên thụ động, tâm trí họ phải trống không và hoàn toàn không
tác nhiệm, vì chỉ có sự trống rỗng của tâm trí mới sản sinh sự thụ động của ý
muốn. Hai điều này là các điều kiện cơ bản để bị quỷ ám. Đây là lý do tại sao
một kẻ gọi hồn phải lắc đầu và xõa tóc, và cứ làm như vậy trong thời gian dài
cho đến khi người ấy hoàn toàn tê liệt trong đầu mình. Chỉ khi đó người ấy mới
có thể bị ám bởi cái gọi là thần và chỉ khi đó ác linh mới vận hành. Khi đầu óc
trống rỗng như vậy, tự nhiên ý muốn sẽ mất hết các chức năng. Khi đạt đến giai
đoạn này, từng chút một, môi miệng sẽ không còn cử động theo ý muốn riêng của
người ấy nữa, và cả thân thể bắt đầu run lên. Không lâu sau đó, “thần” đến trên
thân thể người ấy. Với những người thông công với các quỷ, các phương pháp mà
bởi đó họ bị quỷ ám có thể khác nhau trong các phương tiện bên ngoài. Tuy
nhiên, khi kiểm tra nguyên tắc, chúng ta có thể nhận thấy rằng mọi phương pháp
đều được thực hiện qua việc tâm trí trở nên trống rỗng và ý muốn trở nên thụ
động. Có một điều chắc chắn: nếu anh em hỏi những người này, chắc chắn họ sẽ
nói với anh em rằng khi các quỷ đến, tâm trí họ không thể suy nghĩ (tất nhiên,
nếu ý muốn trở nên thụ động mà tâm trí chưa trở nên trống rỗng thì tâm trí vẫn
sẽ suy nghĩ) và ý muốn của họ không thể tác nhiệm. Hơn nữa, họ phải đạt đến
giai đoạn trống rỗng trong tâm trí và thụ động trong ý muốn trước khi các quỷ đến. Nếu không, chúng sẽ không đến.
Cái gọi là thuật thôi miên ngày nay, tự ngụy
trang dưới danh nghĩa của khoa học, tôn giáo và tiên đoán,..v….v… khiến người
ta sở hữu khả năng ngoại cảm và nghe được từ nhiều hướng khác nhau, cũng như
chữa lành và biến đổi, thật sự được lập nền trên hai nguyên tắc này. Mặc dù
trên danh nghĩ, chúng vì sự tốt đẹp của nhân loại, nhưng các phương pháp “tập
trung”, “tập trung tư tưởng”, “yoga”, “thiền định”…v…v.đều đòi hỏi tâm trí phải
trở nên tĩnh lặng và ý muốn trở nên thụ động. Không lâu sau, các linh siêu
nhiên sẽ đến và cho họ thấy những điều kỳ diệu. Bây giờ, chúng ta sẽ không hỏi
những người thực hiện những điều này có biết rằng họ đang mời các ác linh đến
không. Tất cả những gì chúng ta biết là bởi làm như vậy, họ đã thỏa đáp điều
kiện để các ác linh sở hữu họ. Như vậy, họ không thể tránh khỏi hậu quả. Cuối
cùng, họ có thể nhận ra là mình đã tiếp nhận các ác linh.
Chúng ta không thể bàn các vấn đề này cách
chi tiết. Chúng ta chỉ muốn các tín đồ hiểu rằng để ác linh hành động trên con
người thì cần có tâm trí và ý muốn con người hoàn toàn trống rỗng và thụ động.
Các ác linh cực kỳ hoan hỷ khi có ai thỏa đáp điều kiện này và lập tức chúng
hành động. Khi một kẻ “vô thần” thỏa đáp điều kiện này, các ác linh sẽ sở hữu
người ấy; khi một tín đồ thỏa đáp điều kiện này, các ác linh cũng sẽ vào trong
người ấy không chút dè dặt.
Chúng ta cần nhận thức rằng nhiều tín đồ
thiếu hiểu biết về các điều kiện để các ác linh công tác và một khi họ thỏa đáp
các điều kiện này, các ác linh sẽ công tác cách không giới hạn. Vì vậy, nhiều
người vô thức trở nên phương tiện cho các quỷ và thậm chí bị quỷ ám! Các tín đồ
thường cố gắng chờ đợi sự thăm viếng của Thánh Linh trong các buổi nhóm. Họ
nhóm lại cho đến nửa đêm và đầy dẫy mọi hoạt động thuộc hồn. Tâm trí họ trở nên
tê liệt và lòng họ bị cai trị vượt ngoài sự kiểm soát. Đột nhiên, họ sẽ bắt đầu
kinh nghiệm những điều kỳ lạ, như nói tiếng lạ, thấy khải tượng, cảm thấy vui
mừng,…v…v Họ cảm thấy rằng Thánh Linh thật sự đến. Nhưng chúng ta phải nhận
thức rằng với một sự trống rỗng của tâm trí và thụ động của ý muốn như vậy, thì
kẻ duy nhất sẽ công tác là các ác linh; Thánh Linh sẽ không công tác. Tôi sẽ đề
cập đến một thí dụ hiển nhiên: trong các buổi nhóm, lời cầu nguyện yêu thích
của họ là cầu nguyện bằng một từ ngữ, như “vinh hiển” hoặc “hallelujah”. Họ mở
miệng đọc lặp đi lặp lại chỉ một vài chữ. Nếu nói cùng một từ ngữ hàng chục
lần, chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra: chúng ta sẽ lẩm bẩm cùng một từ ngữ trong
miệng mình nhưng tâm trí chúng ta sẽ không còn biết ý nghĩa nữa. Đây là sự
trống rỗng của tâm trí. Tuy nhiên, người ấy không còn có thể kiểm soát chính
mình nữa; người ấy phải tiếp tục với loại đọc kinh này. Đây là sự thụ động của
ý muốn. Cuối cùng, tác động bên ngoài sẽ chiếm lấy cổ họng người ấy và dùng
miệng người ấy thốt ra những điều mà người ấy không thể hiểu được. Tại điểm
này, một tín đồ thiếu hiểu biết sẽ nghĩ rằng người ấy đã kinh nghiệm “sự báp
-têm của Thánh Linh” vì người ấy nhận được bằng chứng của sự báp -têm – nói
tiếng lạ. Người ấy không nhận thức mình chỉ thỏa đáp điều kiện để các ác linh
công tác; người ấy làm cho tâm trí mình trở nên trống rỗng và để cho ý muốn của
mình trở nên thụ động và bị các quỷ tiếp quản!
Các tín đồ ngày nay nghĩ rằng hễ điều họ nhận
được khiến họ thêm “vui mừng”, “thuộc linh”, “nhiệt thành” hoặc “thánh khiết”,
thì điều đó chắc chắn là đến từ Thánh Linh. Họ không nhận thức rằng đây là sự
lừa dối của các ác linh, là những kẻ sẽ dùng mọi cách để có được các thánh đồ.
Một khi các ác linh phát hiệu ra các tín đồ biểu lộ các dấu hiệu của những kẻ
gọi hồn, chúng sẽ không để lỡ mất cơ hội và lập tức bước vào trong các tín đồ
này. Chúng không muốn dọa các tín đồ. Do đó, chúng làm mọi điều để chiếm được
niềm tin của các tín đồ. Chúng giả mạo Chúa Jesus, sự đáng yêu, vinh hiển và vẻ
đẹp của Ngài, khiến các tín đồ thờ phượng, yêu thương và dâng mình cho một
“Jesus” như vậy. Sự thật là các tín đồ đang thờ phượng, yêu thương và hiến dâng
cho các ác linh. Khi các ác linh có được đức tin và sự tin cậy đầy đủ của các
tín đồ, trong thời gian dài ngắn khác nhau (trong nhiều trường hợp, chúng phải
mất nhiều năm), chúng sẽ đặt vào trong các tín đồ những điều thuộc các ác linh
cách rõ ràng hơn. Nhưng trước lúc đó, vì kiêu ngạo, biếng nhác và ngu dại, hầu
hết các tín đồ đều không muốn kiểm tra loại linh mà họ nhận được.
Có một điều chắc chắn (giá như các tín đồ có
thể ghi nhớ một điều này): có sự khác biệt cơ bản giữa công tác của ác linh và
công tác của Thánh Linh. Chỉ khi nào một người thỏa đáp điều kiện để Thánh Linh
công tác thì Thánh Linh mới công tác. Tương tự, chỉ khi nào con người thỏa đáp
điều kiện để các ác linh công tác thì các ác linh mới công tác. Cho dù bên
ngoài một người đang theo đuổi Thánh Linh, nhưng chỉ cần người ấy thỏa đáp điều
kiện để các ác linh công tác, thì Thánh Linh sẽ không công tác. Các ác linh sẽ
chớp lấy thời cơ để công tác. Vì vậy, một tín đồ bình thương không cần lo lắng
mình không thể phân biệt điều gì ra từ Đức Chúa Trời và điều gì giả mạo Đức
Chúa Trời; người ấy chỉ cần kiểm tra các điều kiện mà người ấy nhận được những
điều này từ ban đầu. Nếu từ ban đầu, người ấy thỏa đáp các điều kiện để Thánh
Linh công tác thì điều người ấy nhận được chắc chắn là từ Đức Chúa Trời. Nếu
ban đầu người ấy thỏa đáp các điều kiện để các ác linh công tác thì dù bên
ngoài người ấy đang theo đuổi Thánh Linh, nhưng điều người ấy nhận được chắc
chắn là ra từ các ác linh. Chúng ta không bác bỏ những điều siêu nhiên. Nhưng
chúng ta cần biện biệt điều nào ra từ Đức Chúa Trời và điều nào ra từ Satan.
Các sự khác biệt cơ bản giữa các điều kiện
cho Thánh Linh công tác và các điều kiện cho các ác linh công tác là gì? (1)
Mọi sự khải thị, khải tượng, phép lạ, v…v…siêu nhiêu nào mà đòi hỏi tâm trí
phải hoàn toàn ngừng tác nhiệm hay chúng được tiếp nhận khi tâm trí đồ ngừng
tác nhiệm thì đều không ra từ Đức Chúa Trời. (2) Các khải tượng ra từ Thánh
Linh luôn luôn được ban cho các tín đồ khi tâm trí họ hoàn toàn năng động. Hơn
nữa, mọi quan năng của tâm trí phải được làm cho sống động để tiếp nhận khải
tượng từ Thánh Linh. Khi các ác linh công tác thì hoàn toàn ngược lại (3) Mọi sự
ra từ Đức Chúa Trời đều phù hợp với bản chất của Đức Chúa Trời và Kinh Thánh.
Chúng ta đừng quan tâm đến hình thức bên
ngoài, dù nó thẳng thắn tự nhận là đến từ ma quỷ, hay ngụy trang là tự một
nguồn thần thượng, hoặc đến trong các loại danh hiệu bên ngoài khác nhau. Chúng
ta chỉ cần hỏi xem nguyên tắc đằng sau các công tác đó là gì. Chúng ta phải
nhận thức rằng mọi sự khải thị siêu nhiên ra từ quyền bính của sự tối tăm đều
đòi hỏi phải đình chỉ chức năng của tâm trí. Nhưng nếu một điều gì đó ra từ Đức
Chúa Trời, thì cả khả năng lẫn quan năng của tâm trí đều vẫn có thể năng động
và không gặp bất cứ trở ngại nào. Khải tượng mà dân Israel nhìn thấy trên núi Sinai
trong Cựu Ước và khải tượng mà Peter nhìn thấy ở Joppa trong Tân Ước, cả hai
đều xác nhận rằng những người nhìn thấy khải tượng hoàn toàn có thể sử dụng tâm
trí của mình.
Có một sự khác biệt cơ bản giữa các sự khải
thị và khải tượng được Đức Chúa Trời ban cho như được ký thuật trong Kinh Thánh
với cái gọi là khải thị và khải tượng mà các tín đồ ngày nay nhận được. Khi
nghiên cứu mỗi trường hợp của sự khải thị siêu nhiên từ Đức Chúa Trời được ký
thuật trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng mọi người nhận được khải thị đều có một
tâm trí tác nhiệm; tất cả họ đều có khả năng kiểm soát chính mình và có thể sử
dụng bất cứ chi thể nào của thân thể. Nhưng cái gọi là các sự khải thị siêu
nhiên ngày nay đòi hỏi tâm trí người nhận phải thụ động, một số người thì hoàn
toàn thụ động, còn một số thì phần nào thụ động. Ngoài ra, người nhận có phần
nào hoặc hoàn toàn không thể sử dụng các chi thể của mình. Đây là sự khác biệt
cơ bản giữa điều ra từ Đức Chúa Trời và điều ra từ ma quỷ. Thí dụ, việc nói
tiếng lạ được ký thuật trong Kinh Thánh bày tỏ rằng mọi diễn giả đều có thể
kiểm soát chính mình và hoàn toàn tỉnh táo. Thí dụ, Peter vào ngày lễ Ngũ Tuần
vẫn có thể nghe lời nhạo báng của dân chúng và đáp lại . Ông vẫn có thể chứng
minh rằng những người ở với ông không phải say mà là đầy dẫy Thánh Linh (Công
2). Những người nói tiếng lạ trong hội thánh tại Corinth có thể đếm biết số
lượng người là “hai hay ba” (1 Cor
14:29); họ có thể vận dụng sự tự kiểm chế để phát ngôn “từng người một” (c.31), và nếu không có người thông dịch, họ thậm
chí có thể “im lặng” và không phát ngôn (c.28). Tất cả họ đều tỉnh
táo và có thể vận dụng sự tự chủ. Đây là vì “linh
của tiên tri thuận phục tiên tri” (c.32). Những người nói tiếng lạ ngày nay
có như vậy không? Chẳng phải họ hoàn toàn mất kiểm soát chính mình và hoàn toàn
không biết mình đang làm gì sao? Chẳng phải các ác linh của tiên tri không
thuận phục tiên tri, thay vì vậy các tiên tri lại thuận phục các linh sao? Ở
đây chúng ta có thể thấy sự khác biệt cơ bản giữa điều ra từ Đức Chúa Trời và
điều ra từ các quỷ.
Mọi điều chúng ta đã nói ở trên về sự khác
biệt giữ những điều siêu nhiên được ban cho bởi Thánh linh và những điều siêu
nhiên được ban cho bởi các ác linh. Bây giờ chúng ta muốn nhìn thấy cách vắn
tắt sự khác biệt giữa công tác của Thánh Linh và công tác của các ác linh đối
với những điều tự nhiên. Chúng ta hãy xem thí dụ về việc nghe tiếng của Đức
Chúa Trời. Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhớ là Thánh Linh luôn luôn dự định
để chúng ta có sự hiểu biết sáng tỏ (Eph 1:17-18) Thánh linh không bao giờ xem
con người là một cỗ máy. Ngài không có ý định để cho con người bước theo Ngài cách
vô tri vô giác, ngay cả trong vấn đề làm thiện. Hơn nữa, Ngài bày tỏ ý muốn của
Ngài từ linh con người – phần sâu thẳm nhất của bản thể. Sự dẫn dắt của Đức
Chúa Trời không bao giờ (1) lộn xộn, (2) mập mờ, (3) làm u mê, hoặc (4) mang
tính ép buộc. Điều đến từ các ác linh có các đặc điểm sau đây: (1) nó bước vào
từ bên ngoài, hầu hết là từ tâm trí; nó không bao giờ bắt nguồn từ phần sâu
thẳm nhất của bản thể con người. Nó không bao giờ là một sự khải thị thuộc trực
giác, nhưng chỉ là một ý tưởng đến như tia chớp. (2) Nó luôn thúc ép, thôi thúc
và ép buộc, đòi hỏi hành động ngay lập tức. Nó không cho người ta có thời gian
suy nghĩ, xem xét hoặc kiểm tra. (3) Nó khiến tâm trí tín đồ trở nên tê liệt và
bị làm cho bối rối, và khiến người ấy không thể suy nghĩ. Mọi điều ra từ các ác
linh, dù siêu nhiên hay tự nhiên, đều luôn khiến cho tín đồ đánh mất công dụng
đúng đắn của tâm trí. Nhưng bất cứ điều gì đến từ Thánh Linh đều không như vậy.