KHỞI ĐẦU PHÚC ÂM
VÀ SỰ BỔ NHIỆM CỨU CHÚA-NÔ
LỆ
(2)
Kinh Thánh: Mác 1:1-13
Trong
bài này, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét về sự khởi đầu Phúc Âm và việc bổ nhiệm Cứu
Cháu-Nô Lệ.
KẾT LIỄU VÀ NẨY MẦM SỐNG
Mác
1:1 và 2 chép: “Khởi đầu Phúc Âm của Jesus Christ, là Con Đức Chúa Trời, như
trong tiên tri Ê-sai đã chép: “Kìa, Ta sai sứ Ta đi trước mặt ngươi, là ngưỡi sẽ
dọn dường cho ngươi”. Sự khởi đầu Phúc Âm của Cứu Chúa –Nô lệ thì giống như những
gì đã được ghi trong sách Ê-sai về chức vụ của Giăng Báp-tít. Điều này chứng tỏ
rằng việc Giăng rao giảng báp-têm về sự ăn năn cũng là một phần trong Phúc Âm của
Jesus Christ. Sự rao giảng này kết liễu thời kỳ Kinh luật và đổi thời kỳ ấy
thành thời kỳ ân điển. Vì vậy, thời kỳ ân điển bắt đầu với chức vụ của Giăng
trước chức vụ của Cứu Chúa-Nô Lệ.
Khởi
đầu Phúc Âm là kết liễu Kinh luật và nẩy mầm ân điển. Sự khởi đầu Phúc Âm đã kết
liễu thời kỳ Kinh luật và bắt đầu thời kỳ ân điển. Sự mở đầu Phúc Âm không những
bắt đầu thời kỳ ân điển mà còn nẩy mầm thời kỳ ân điển. Bắt đầu điều gì đó thì
có tính chất bê ngoài, nhưng nẩy mầm điều gì đó là làm cho nó có sự khởi đầu ở
bề trong sự sống.
Khởi đầu Phúc Âm là kết liễu toàn bộ
thời kỳ cũ, là thời kỳ Kinh luật. Nhưng để sự kết liễu được gọi là khởi đầu thì
sự kết liễu ấy phải có sự nẩy mầm theo sau. Việc nẩy mầm này đòi hỏi một sự
truyền phát thần thượng, và sự truyền phát này là việc bổ nhiệm Cứu Chúa- Nô Lệ
CHỨC VỤ CỦA GIĂNG BÁP-TÍT
TRONG ĐỒNG VẮNG
Mác 1:3 chép: “Có tiếng kêu trong đồng
vắng”. Khởi đầu chức vụ Phúc Âm của cứu Chúa-Nô Lệ chỉ là một tiếng kêu, không
phải là một phong trào lớn. Hơn nữa, sự rao giảng Phúc Âm của Cứu Chúa-Nô Lệ
không bắt đầu tại một trung tâm văn minh nhưng bắt đầu trong đồng vắng cách xa ảnh
hưởng của văn hóa loài người.
Giăng Báp-tít bắt đầu chức vụ của
ông trong đồng vắng là theo lời tiên tri. Điều này cho thấy rằng việc Giăng giới
thiệu cuộc cuộc gia tểTân Ước của Đức Chúa Trời không phải ngẫu nhiên, nhưng đã
được Đức Chúa Trời hoạch định và báo trước qua tiên tri Ê-sai. Điều này hàm ý rằng
Đức Chúa Trời muốn cuộc gia tểTân Ước của Ngài bắt đầu theo một phương cách
hoàn toàn mới. Giăng Báp-tít không rao giảng trong đền thờ thánh ở trong thành
thánh, là nơi những người theo tôn giáo và có văn hóa thờ phượng Đức Chúa Trời
theo các qui định của Kinh Thánh, nhưng ông rao giảng trong đồng vắng, không
tuân thủ bất cứ luật lệ nào theo phương cách cũ. Điều này cho thấy rằng cách thờ
phượng Đức Chúa Trời theo lối cũ của Cựu Ước đã bị bỏ, và phương cách mới sắp
được thi hành. Đồng vắng là nơi không có văn hóa, tôn giáo, hoặc bất cứ một điều
gì thuộc xã hội hay văn minh của con người. Việc sử dụng từ “đồng vắng” ở đây
cho thấy phương cách mới về cuộc gia tểTân Ước của Đức Chúa Trời thì ngược lại
với tôn giáo và văn hóa.
Câu 4 chép: “Giăng đến làm báp-têm
trong đồng vắng, rao giảng báp-têm và sự ăn năn để được tha tội”. Giăng sinh ra
đã là thầy tế lễ (Lu. 1:8-13, 57-63); vì vậy, lẽ ra ông phải sống đời sống thầy tế lễ trong đền thờ để phụng sự tế
lễ. Nhưng ông đã vào đồng vắng và rao giảng Phúc Âm. Điều này cho thấy rằng thời
đại thầy tế lễ dâng sinh tế cho Đức Chúa Trời được thay thế bằng thời đại Phúc
Âm đem tội nhân đến với Đức Chúa Trời hầu cho Đức Chúa Trời có thể chinh phục
được họ và để họ có được Đức Chúa Trời. Câu 6 chép: “Vả, Giăng mặc áo bằng lông
lạc đà, thắt lưng bằng dây nịt da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Cách sống của
Giăng cho thấy rằng nếp sống và công tác của ông hoàn toàn ở trong thời kỳ mới
chứ không theo cách của tôn giáo, văn hóa và truyền thống cũ. Là thầy tế lễ thì
theo qui định của Kinh luật, lẽ ra Giăng phải mặc y phục của thầy tế lễ chủ yếu
được làm bằng vải gai mịn (Xuất 28:4, 40-41; Lê 6:10; Êxc. 44:17-18). Lẽ ra ông
cũng phải ăn thức ăn dành cho thầy tế lễ, chủ yếu làm từ bột mịn và thịt của
sinh tế do dân Đức Chúa Trời dâng lên cho Ngài (Lê.2:1-3; 6:16-18, 25-26;
7:31-34). Tuy nhiên, Giăng làm ngược lại hoàn toàn. Ông mặc y phục bằng lông lạc
đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Những điều này là thiếu
văn minh, kém văn hóa, và không theo những qui định tôn giáo. Đối với một người
làm thầy tế lễ mà mặc y phục bằng lông lạc đà là giáng một đòn chí tử vào tâm
trí tôn giáo, vì lạc đà bị xem là ô uế theo những qui định Lê-vi (Lê.11:4). Hơn
nữa, Giăng đã không sống trong nơi văn minh mà sống trong đồng vắng (Lu 3:2). Tất
cả những điều này cho thấy rằng ông đã hoàn toàn dứt bỏ thời kỳ Cựu Ước, là thời
kỳ đã sa bại thành một loại tôn giáo pha trộn với văn hóa loài người. Sứ mạng của
ông là giới thiệu cuộc gia tểTân Ước của Đức Chúa Trời, là cuộc gia tể chỉ cấu
tạo bởi Đấng Christ và Linh sự sống.
BÁP-TÊM ĂN NĂN
Là người báo hiệu cho sự kết liễu thời
đại cũ với văn hóa cũ và tôn giáo cũ, Giăng Báp-tít rao giảng báp-têm ăn năn để
được tha thứ các tội phạm. Ăn năn là thay đổi tâm trí, xoay tâm trí về Cứu Chúa
– Nô Lệ, còn báp-têm là chôn những người đã ăn năn, kết liễu họ để Cứu Chúa –
Nô Lệ làm họ nẩy mầm sống bằng sự tái sinh (Gi.3:3, 5-6). Từ Hy Lạp dịch là “để”
trong câu này cũng có nghĩa là “dẫn đến”. Ăn năn cùng với báp-têm là để và dẫn
đến việc tha thứ các tội phạm hầu cho sự sa ngã của con người là chướng ngại,
có thể được cất đi và con người có thể được phục hòa với Đức Chúa Trời.
Trong khi rao giảng, Giảng Báp-tít
nhấn mạnh đến việc ăn năn. Ăn năn là xoay tâm trí khỏi bất cứ điều gì khác hơn
Đức Chúa Trời, bao gồm văn hóa, tôn giáo, kiến thức, giáo dục và đời sống xã hội,
và xoay tâm trí ấy về với Đức Chúa Trời. Tôn giáo, văn hóa, văn minh, xã hội,
kiến thức, và giáo dục đều làm chúng ta xao lãng Đức Chúa Trời. Bây giờ thời đại
cũ đã bị kết liễu, chúng ta phải ăn năn và xoay tâm trí về Đức Chúa Trời.
Theo Phúc Âm Mác, Giăng Báp-tít
không dạy những người ăn năn phải làm gì. Thay vào đó, ông chỉ chôn họ. Chôn
như vậy tượng trưng cho sự kết liễu. Trong đồng vắng, Giăng rao giảng sự ăn năn
và kết liễu tất cả những người ăn năn. Điều này được xem như là một phần trong
sự khởi đầu Phúc Âm của Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời.
PHÚC ÂM CỦA JESUS CHRIST,
CON ĐỨC CHÚA TRỜI
Mác
1 :1 nói về Phúc Âm của Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời. «Jesus
Christ » chỉ về nhân tính của Chúa. Phúc Âm này nói về một Người tên là
Jesus Christ. Jesus Christ này là Con Đức Chúa Trời. Mác 1:1 không nói rằng “Jesus
Christ và Con Đức Chúa Trời » ; nhưng nói rằng « Jesus Christ,
Con Đức Chúa Trời ». Dấu phẩy ở đây cho thấy « Con Đức Chúa Trời” là
ngữ đồng vị với “Jesus Christ”. Điều này cho thấy Jesus Christ là Con Đức Chúa
Trời và Con Đức Chúa Trời chỉ về Jesus Christ. Danh xưng « Con Đức Chúa Trời”
chỉ về thần tính của Chúa. Vì vậy, Phúc Âm của Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời,
có nghĩa là Phúc Âm này nói về nhân tính và thần tính. Phúc Âm này đầy dẫy nhân
tính và cũng đầy dẫy Thần Cách. Danh xưng tổng hợp này được dùng liên quan Phúc
Âm, khải thị rằng cả những mỹ đức phàm nhân lẫn những thuộc tính thần thượng đều
ở trong Phúc Âm này. Phúc Âm này đầy dẫy nhân tính của Chúa trong mỹ đức và sự
hoàn hảo của nhân tính ấy và cũng đầy dẫy thần tính ấy và cũng đầy dẫy thần
tính của Ngài trong sự vinh hiển và sự tôn trọng của thần tính ấy. Vì vậy, Phúc
Âm nói về nhân tính đầy dẫy mỹ đức và sự hoàn hảo, và Phúc Âm cũng nói về thần
tính đầy dẫy vinh hiển và tôn trọng. Tất cả những phương diện này có thể được
thấy trong mười sáu chương của Phúc Âm Mác.
MỘT CỘT MỐC
Nếu đọc kỹ
1 :1 và 2, chúng ta sẽ thấy rằng mở đầu Phúc Âm là Giăng Báp-tít đến rao
giảng báp-têm ăn năn để được tha thứ các tội phạm. Khi Giăng xuất hiện theo
cách phi văn hóa và phi tôn giáo để loan báo về sự ăn năn thì đó là sự mở đầu
Phúc Âm. Như chúng ta đã thấy, mở đầu Phúc Âm liên quan đến việc kết liễu thời
kỳ Kinh Luật và sự nẩy mầm sự sống của thời kỳ ân điển. Thời kỳ Kinh Luật kết
thúc với việc Giăng Báp-tít đến, và thời kì ân điển cũng bắt đầu với ông
Giữa vòng
các nhà thần học đã có một cuộc tranh luận về việc bắt đầu thời kỳ ân điển. Một
số người nói rằng thời kỳ này bắt đầu vào ngày Ngũ Tuần, còn những người khác
cho rằng thời kỳ này bắt đầu với sự đóng đinh và phục sinh của Đấng Christ. Những
người khác nữa vẫn nắm giữ những ý kiến khác. Theo Kinh Thánh, việc mở đầu Phúc
Âm, tức là mở đầu thời kỳ ân điển, là sự xuất hiện của Giăng Báp-tít. Vì vậy,
việc Giăng Báp-tít đến là một cột mốc phân chia thời kỳ Kinh luật và thời kỳ ân
điển. Việc ông đến đánh dấu sự kết thúc thời kỳ Kinh luật và mở đầu thời kỳ ân
điển
ĐƯỜNG VÀ CÁC NẺO
Mác
1 :2 cho thấy Giăng Báp-tít đến để dọn đường của Chúa, và câu 3
chép : «Có tiếng kêu trong đồng vắng rằng : Hãy đường Chúa, làm thẳng
các nẻo Ngài». Trong những câu này, chúng ta có đường và các nẻo. Dọn đường của Chúa là thay đổi tâm trí người ta,
tức là xoay tâm trí họ hướng về Cứu Chúa – Nô Lệ và làm cho lòng họ đúng đắn,
làm ngay thẳng mọi phần của lòng họ qua sự ăn năn để Cứu Chúa – Nô Lệ có thể
vào trong họ hầu trở nên sự sống của họ và chiếm hữu họ (Lu 1 :17)
Chúng ta cần
hiểu sự khác nhau giữa đường và nẻo.
Dọn đường của Chúa là ăn năn. Chúng ta đã thấy rằng ăn năn là thay đổi tâm trí,
xoay chuyển trong suy nghĩ. Xoay chuyển tâm trí là dọn đường để Chúa đến. Đường trong câu 3 chỉ về tâm trí. Chúng
ta cần dọn đường, sửa soạn đường của Chúa qua sự ăn năn. Giăng Báp-tít đã làm một
công việc nổi bật trong việc sửa soạn tâm trí của những người ăn năn để Chúa đến.
Các nẻo là tất cả các phần phụ bên trong bản thể chúng ta như những tư tưởng, sở
thích, ý định, ước muốn, quyết định. Nếu ví tâm trí như xa lộ thì có thế ví các nẻo như những con đường nhỏ. Xa lộ
và tất cả các đường nhỏ trong bản thể chúng ta cần được sửa soạn cho Chúa
Là con người,
chúng ta không đơn giản. Trái lại, bề trong chúng ta rất phức tạp. Hãy xem
chúng ta có bao nhiêu «đường» và « nẻo » bên trong mình. Cũng hãy xem
thể nào tâm trí con người xa khỏi Đức Chúa Trời và bị những điều thuộc triết lý
và văn hóa chiếm hữu. Thế thì làm thể nào Đấng Christ có thể vào trong con người ?
Để Đấng Christ vào trong một người thì đường
và nẻo trong người đó cần phải được
dọn
Phúc Âm
không chỉ là một vấn đề khách quan vì Phúc Âm thật ra chính là Jesus Christ, là
hiện thân của Đức Chúa Trời hằng sống. Là một Đấng như thế, Ngài đang chờ đợi
con người mở ra cho Ngài để Ngài có thể vào trong họ. Tuy nhiên, con người đã để
tâm trí bị nhiều điều chiếm hữu và đầy ắp. Vì vậy, người giảng Phúc Âm giỏi nhất
là người có thể mở đường trong tâm trí một người và nhờ đó sửa soạn để người ấy
tiếp nhận Chúa. Nếu chúng ta rao giảng Phúc Âm cách đúng đắn thì cuối cùng, con
đường sẽ được sửa soạn để Đấng Christ vào trong họ và chiếm hữu họ.
NHỮNG NGƯỜI ĂN NĂN
ĐƯỢC DẪN ĐẾN VỚI CỨU CHÚA – NÔ LỆ
Mác
1 :5 chép : «Cả xứ Giu-đê và người Giê-ru-sa-lem đều kéo ra đến cùng
người, thừa nhận tội mình và chịu người làm báp-têm dưới sông Giô đanh ».
Giu-đê là một miền có thành thánh, đền thờ thánh, và nền văn hóa cao; vì vậy,
đó là một miền được tôn trọng. Tuy nhiên, câu 5 nói rằng cả xứ Giu-đê và mọi
người ở Giê-ru-sa-lem đều kéo ra đến với Giăng Báp-tít. Khi họ ăn năn qua sự giảng
dạy của Giang, Giăng đã dìm họ vào nước sự chết để chôn họ, kết liễu họ. Bằng
cách này, ông sửa soạn để họ được chỗi dậy bởi sự nẩy mầm của Cứu Chúa – Nô Lệ
cùng với Thánh Linh, qua việc họ xưng nhận các tội phạm.
Báp-têm
người nào đó là dìm người ấy xuống, chôn người ấy trong nước. Vì vậy, báp-têm
tượng trung cho sự chết. Giăng Báp-tít báp-têm người ta để chứng tỏ rằng những
người ăn năn chỉ đáng chôn mà thôi. Báp-têm này cũng tượng trung cho sự kết liễu
người cũ và chỉ về một khởi đầu mới có thể được thực tại hóa trong sự phục sinh
qua Đấng Christ là Đấng ban sự sống. Vì vậy, sau chức vụ của Giăng, Đấng Christ
đã đến. Báp-têm của Giăng không chỉ kết liễu những người ăn năn mà còn dẫn đưa
họ đến với Đấng Christ để được sống. Báp-têm trong Kinh Thánh hàm ý đến sự chết
và phục sinh. Được Báp-têm trong nước là được đặt vào sự chết và bị chôn, và được
chỗi dậy từ nước có nghĩa là được phục sinh từ sự chết.
Mác 1 :7
nói về Giăng Báp-tít rằng « Người rao giảng rằng : Có một Đấng đến
sau ta năng lực hơn ta, ta không đáng cúi xuống để mở dây dép Ngài ». Mặc
dầu Giăng rao giảng báp-têm ăn năn nhưng mục tiêu của chức vụ ông là một Thân Vị
kỳ diệu, đó là Jesus Christ, Con Đức Chúa Trời. Trong chức vụ của Giăng, ông đã
không biến mình thành trung tâm; ông đã không cố gắng thu hút người khác đến với
mình như nam châm. Ông nhận thức rằng ông chỉ là một sứ giá được Giê-hô-va vạn
quân sai đến để đem người ta đến với Con Ngài là Jesus Christ và tôn cao Ngài
là mục tiêu của chức vụ ông.
Giăng
Báp-tít rao giảng sự ăn năn, và ông đã báp-têm tất cả những người ăn năn. Qua
việc báp-têm, sự sống cũ của những người ăn năn bị kết liễu. Sự kết liễu này dọn
đường và làm thẳng các nẻo để Cứu Chúa – Nô Lệ bước vào trong những người ăn
năn. Trong chức vụ của ông, Giăng đưa người ta đến với Cứu Chúa – Nô Lệ. Vì vậy,
ông bảo họ rằng chức vụ của ông không phải vì chính ông, nhưng vì một Đấng
khác, một Đấng vĩ đại sắp đến. Thậm chí Giăng còn nói rằng ông không xứng đáng
cúi xuống mở dây dép của Đấng này.
BÁP-TÊM TRONG NƯỚC
VÀ TRONG THÁNH LINH
Theo 1:8, Giăng Báp-tít nói: “Ta
báp-têm các ngươi bằng (trong) nước, nhưng Ngài sẽ báp-têm các ngươi bằng
(trong) Thánh Linh”. Nước tượng trung cho sự chết và chôn để kết liễu những người
ăn năn. Thánh Linh và Linh sự sống và phục sinh để làm nẩy mầm sống những người
bị kết liễu. Điều trước là dấu hiệu cho chức vụ của Giăng về sự ăn năn; điều
này là dấu hiệu cho chức vụ của Cứu Chúa – Nô Lệ về sự sống. Giăng chôn những
người ăn năn và trong nước sự chết; Cứu Chúa – Nô Lệ vực họ dậy để họ được tái
sinh trong Linh sự sống phục sinh của Ngài. Nước sự chết, chỉ về và tượng trưng
cho sự chết bao – hàm – tất – cả của Đấng Christ mà những người tin Ngài được
báp-têm vào (La 6:3), không những chôn những người được báp-têm mà còn chôn các
tội phạm của họ, thế giới, cuộc đời quá khứ và lịch sử của họ (giống như Biển Đỏ
chôn Pha-ra-ôn và quân đội Ai Cập vì con cái Israel – Xuất 14:26-28; 1 Cô
10:2), và phân rẽ họ khỏi thế giới từ - bỏ - Đức Chúa Trời và sự hư hoại của nó
(giống như nước lụt phân rẽ Nô-ê và gia
đình ông ra khỏi thế giới và sự hư hoại của nó – 1 Phi 3:20-21). Thánh Linh, tức
là Đấng mà Cứu Chúa – Nô Lệ báp-têm những ai tin Ngài vào trong Đấng ấy, là
Linh của Đấng Christ và Linh của Đức Chúa Trời (La 8:9). Vì vậy, được báp-têm
trong Thánh Linh là được báp-têm vào trong Đấng Christ (Ga 3:27; La 6:3), vào
trong Đức Chúa Trời Tam Nhất (Mat 28:19) và thậm chí vào trong Thân Thể Đấng
Christ (1 Cô 12:13), là được liên kết với Đấng Christ trong một Linh (1 Cô
6:17). Chính qua báp-têm trong nước và trong Linh như vậy mà tín đồ trong
Christ được tái sinh vào trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời, vào trong lĩnh vực
sự sống thần thượng và sự cai trị thần thượng (Gi 3:3,5) để họ có thể sống bởi
sự sống đời đời của Đức Chúa Trời trong Vương Quốc đời đời của Ngài.
SỰ BỔ NHIỆM CỨU CHÚA – NÔ LỆ
Được Báp-têm
Mác 1:9 chép: “Trong những ngày ấy,
Jesus đến từ Na-xa-rét thuộc Ga-li-lê và chịu Giăng làm báp-têm dưới sông
Giô-đanh”. Ga-li-lê được gọi là “Ga-li-lê thuộc về dân phi Do Thái” là một miền không được
tôn trọng; vì vậy, là một miền bị khinh dể (Gi 7:52). Na-xa-rét là một thành phố
bị khinh hèn của Đức Chúa Trời xuất thân và lớn lên tại đây
Là Nô Lệ của Đức Chúa Trời, Cứu Chúa
– Nô Lệ được báp têm. Việc Ngài chịu báp-têm cho thấy rằng Ngài sẵn sàng phụng sự Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ không
phụng sự theo cách thiên nhiên, nhưng sẽ phụng sự qua sự chết và phục sinh. Một
báp-têm như vậy là sự khởi đầu cho việc phục vụ của Ngài.
Chúa chịu báp-têm để đặt chính Ngài
vào sự chết và sự phục sinh hầu Ngài có thể phụng sự không theo cách thiên
nhiên, mà theo cách phục sinh. Bởi chịu báp-têm Ngài đã sống và phụng sự trong
sự phục sinh, thậm chí trước khi Ngài thật sự chết và phục sinh ba năm rưỡi sau
đó.
Vì báp-têm của Giăng là báp-têm ăn
năn nên một số người có thể thắc mắc tại sao Chúa Jesus cần được Giăng làm
báp-têm. Họ nói rằng: “Đây là báp-têm ăn năn Cứu Chúa – Nô Lệ cần phải ăn năn
sao? Dĩ nhiên Ngài không cần ăn năn” . Nếu có một quan niệm như thế, có lẽ
chúng ta chưa thấy ý nghĩa thật của sự ăn năn. Ăn năn là kết liễu tư tưởng, quan niệm, triết lý và việc làm của
chúng ta. Vì vậy, ăn năn không chỉ là hối
tiếc việc làm sai trái. Hiểu về ăn năn như thế thì quá nông cạn. Cho dù một người
nào đó không có gì sai thì người ấy vẫn cần phải ăn năn để thay đổi tâm trí và
không còn tự mình làm điều này điều kia hay tự cho mình là ai đó. Ăn năn nghĩa
là xoay khỏi việc sống, làm việc và ở trong chính mình. Nếu nhận thức điều này,
chúng ta sẽ thấy việc Chúa đến để chịu báp-têm
ngụ ý rằng Ngài không muốn sống, hành động, phát ngôn hay làm việc bởi
chính Ngài. Chúa muốn đặt mình vào chỗ kết thúc và chịu chôn. Vì vậy, việc Chúa
chịu báp-têm cho thấy rằng Ngài không muốn sống, phát ngôn hay làm bất cứ điều
gì bởi chính Ngài, nhưng Ngài muốn sống bởi Đức Chúa Trời, bước đi bởi Đức Chúa
Trời và phụng sự bởi Đức Chúa Trời. Ngài
sẽ làm Nô Lệ cho Đức Chúa Trời và bởi Đức Chúa Trời. Đó là lý do Ngài chịu
báp-têm. Việc Chúa chịu báp-têm là bước thứ nhất của việc bổ nhiệm Ngài vào trong
sự phục vụ Phúc Âm, tức là chức vụ Phúc Âm
Chương 1:10 và 11 nói về Chúa Jesus
rằng: “Ngay khi lên khỏi nước, Ngài thấy các từng trời mở ra và Linh như chim bồ
câu ngự xuống trên Ngài, có tiếng từ trời phán rằng: “Ngươi là Con yêu dấu của
ta, đẹp lòng ta mọi đường”. Ký thuật của
Mác về một Nô Lệ không phản ảnh địa vị huy hoàng của người Nô Lệ này mà phản ảnh
tính siêng năng trong sự phục vụ của Ngài. Từ “ngay khi, hoặc ngay lập tức” được
dùng 41 lần trong ký thuật của ông và thêm 2 lần nữa trong những thủ bản khác.
Các tầng trời được mở ra cho Cứu
Chúa – Nô Lệ nói lên rằng việc Ngài sẵn lòng dâng chính minh làm Nô Lệ cho Đức
Chúa Trời đã được Đức Chúa Trời hoàn toàn chấp nhận, và Linh như chim bồ câu ngự
xuống trên Ngài nghĩa là Đức Chúa Trời xức cho Ngài bằng Linh để Ngài phục vụ Đức
Chúa Trời (Lu 4:18-19). Chim bồ câu thì hiền lành, và mắt của nó chỉ nhìn thấy
được một vật tại một thời điểm mà thôi. Vì vậy, bồ câu tượng trưng cho sự hiền
lành và đơn thuần trong cái nhìn và mục đích. Bởi Linh Đức Chúa Trời ngự xuống
trên Ngài như bồ câu nên Chúa Jesus phụng sự cách hiền lành và đơn thuần, chỉ tập
trung vào ý chỉ của Đức Chúa Trời
Trong các câu 10 và 11, chúng ta có Đức
Chúa Trời Tam – Nhất. Trong khi việc Linh ngự xuống là sự xức dầu cho Đấng
Christ thì lời phán của Cha là lời chứng rằng Ngài là Con yêu dấu. Đây là bức
tranh về Đấng Tam – Nhất thần thượng:
Con từ dưới nước lên, Linh ngự xuống trên Con, và Cha nói về Con. Điều này chứng
tỏ rằng Cha, Con và Linh đồng hiện hữu. Điều này là để hoàn thành cuộc gia tể của
Đức Chúa Trời.
CHỊU THỬ NGHIỆM
Chúng ta đã thấy rằng bước thứ nhất
trong sự bổ nhiệm Chúa vào trong chức vụ của Ngài là báp-têm. Bây giờ chúng ta
phải tiếp tục thấy rằng bước thứ hai là Ngài chịu thử nghiệm. Sau khi Chúa chịu
báp-têm, Ngài cần được thử nhiệm để phẩm giá của Ngài được chứng minh
Về điều này, câu 12 chép: “Tức thì
Linh giục Ngài đi vào đồng vắng”. Sau khi Đức Chúa Trời chấp nhận và xức dầu
thì điều đầu tiên Linh hành động với Nô Lệ này của Đức Chúa Trời là giục Ngài
chịu thử nghiệm để phẩm giá của Ngài được chứng minh. Từ “giục” là một từ mạnh.
Từ này cho thấy sau khi chịu báp-têm, Chúa hoàn toàn ở dưới bàn tay của Đức
Chúa Trời. Vì Ngài không sống và chuyển động bởi chính Ngài Nên Linh của Đức
Chúa Trời có thể giục Ngài vào đồng vắng. Chúa thuận phục trong việc được giục
vào đồng vắng. Nếu Ngài có ý chí mạnh mẽ để chống lại sự thúc giục này thì Ngài
ắt đã không bị Linh thúc giục. Nhưng vì Ngài rất thuận phục nên Thánh Linh có
thể thúc giục Jesus đã chịu báp-têm này vào trong đồng vắng. Việc Ngài thuận phục
Linh chứng tỏ rằng Ngài hoàn toàn trung tín với báp-têm của Ngài. Với Chúa,
không còn là “tôi” nữa mà là Đức Chúa Trời.
Câu 13 chép: “Ngài ở trong đồng vắng
bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ; ở chung với thú rừng, và có thiên sứ phục sự
Ngài” Con số 40 tượng trưng cho thời gian thử nghiệm và chịu khổ (Phục 9:9, 18;
1 Vua 19:8) Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời, được dùng để thử nghiệm và thử
thách Nô Lệ này của Đức Chúa Trời. Trong ý nghĩa tiêu cực, các dã thú của đất
và trong một ý nghĩa tích cực, các thiên sứ trên trời, cũng được dùng cho sự thử
nghiệm này. Ngợi khen Chúa vì Ngài đã qua được cuộc thử nghiệm trong đồng vắng!
Qua hai bước của sự bổ nhiệm Ngài –
báp-têm và chịu thử nghiệm – Chúa được đưa vào phục vụ. Sau khi Ngài đã chịu thử
nghiệm và được chứng minh là con người đúng đắn để thực hiện sự phục vụ này,
bây giờ Ngài có thể bước vào để phục vụ Đức Chúa Trời