Cảm tạ Chúa biết bao vì Ngài đã ban cho chúng ta kỳ huấn luyện này, là kỳ
huấn luyện đề cập đến đời sống Cơ-đốc bình thường và nếp sống Hội Thánh đúng đắn.
Chúng ta sẽ tập trung tất cả sự chú ý vào vấn đề đời sống Cơ-đốc và nếp sống Hội
Thánh. Điều này có nghĩa là mục đích của chúng ta không phải huấn luyện về giáo
lý mặc dầu vẫn cần biết những lẽ thật cơ bản và những nguyên tắc từ Lời thần
thượng. Trọn kỳ huấn luyện này sẽ dành cho Sách La-mã. Chúng ta cần nghiên cứu
thấu đáo Bản Kinh Thánh Khôi Phục về Sách La-mã. Bài này như là lời nói đầu cho
Sách La-mã.
I. VỊ TRÍ CỦA SÁCH LA-MÃ
TRONG KINH THÁNH
Trước hết, chúng ta cần biết vị trí của Sách La-mã trong Kinh Thánh. Để
biết điều này, chúng ta cần xem xét toàn bộ Kinh Thánh.
A. Kinh Thánh
-Chuyện Tình Của Cặp Vợ Chồng
Hoàn Vũ
Kinh Thánh là một chuyện tình. Trước đây anh em có bao giờ nghe điều này
chưa? Điều này nghe có vẻ trần tục và không mang tính tôn giáo. Tuy nhiên, nếu
hiểu thấu tư tưởng sâu sắc của Kinh Thánh, anh em sẽ nhận thức rằng theo một ý
nghĩa thuần khiết nhất và thánh khiết nhất, Kinh Thánh là chuyện tình của một cặp
vợ chồng hoàn vũ.
1. Chú Rể Là Đức Chúa Trời
Trong Đấng Christ
Người nam trong cặp vợ chồng này là chính Đức Chúa Trời. Mặc dầu là Thân
Vị thần thượng, nhưng Ngài muốn làm người nam trong cặp vợ chồng hoàn vũ này.
Sau một tiến trình dài, chính Đức Chúa Trời đã trở
nên Đấng Christ là Chú Rể.
2. Cô Dâu
Là Những
Người Được Cứu Chuộc Của Đức Chúa Trời
Người nữ trong cặp vợ chồng này là một người tập thể, tức những người được Đức
Chúa Trời cứu chuộc, bao gồm tất cả các thánh đồ thời Cựu Ước
và Tân Ước. Sau một tiến trình dài, con người tập thể này trở nên Giê-ru-sa-lem Mới là Cô Dâu.
3.
Chuyện Tình Này Trong Cựu Ước
Nhiều chỗ trong Cựu Ước nói về chuyện tình thánh
này. ị
a. Câu Chuyện Về Một
Cuộc Hôn Nhân
Ngay sau phần ghi lại sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, chúng ta thấy một câu chuyện hôn nhân (Sáng. 2:21-25). Trong cuộc
hôn nhân này, A-đam, hình bóng về Đấng Christ,
là chồng, còn Ê-va, hình bóng về Hội Thánh, là vợ. Trong Ê-phê-sô chương 5, chúng ta thấy A-đam
và Ê-va tượng trưng cho cặp vợ chồng này -Đấng Christ và Hội
Thánh. Hình bóng về A-đam và Ê-va nói lên rằng hai người
trong cặp vợ chồng hoàn vũ này phải ra
từ cùng một nguồn. Đức Chúa Trời dựng nên một
người là A-đam, còn người vợ ra từ người này. Đức Chúa Trời không tạo nên Ê-va
cách riêng biệt; bà ra từ A-đam. Ê-va được tạo nên từ một cái xương sườn, một
khúc xương, ra từ A-đam, cho thấy rằng cả A-đam và Ê-va đều ra từ cùng một nguồn.
Trong căp vợ chồng
hoàn vũ này, vợ phải ra từ chồng. Cũng vậy, Hôi Thánh phải ra từ Đấng Christ. Hai
người trong cặp vợ chồng này phải ra từ cùng một nguồn. Họ cũng phải có cùng một
bản chất. Hơn nữa, họ phải chia sẻ cùng một sự sống. Bản
chất và sự sống của
A-đam cũng là bản chất và sự sống của
Ê-va. Ê-va có cùng sự sống và bản chất như A-đam. Hai con
người trong cặp vợ chồng này thuộc về cùng một nguồn, cùng một bản chất, và có
cùng một sự sống. Chắc
chắn họ cũng có cùng một nếp sống. Họ
sống chung. Ê-va sống cạnh A-đam và sống với
A-đam, A-đam sống cạnh Ê-va và sống với
Ê-va.
Cặp vợ chồng này là bí mật của vũ trụ. Bí mật của cả vũ trụ là: Đức Chúa
Trời và những người được chọn của Ngài là một cặp vợ chồng. Ha-lê-lu-gia! là những
người được chọn của Đức Chúa Trời, chúng ta và Đức Chúa Trời ra từ cùng một nguồn,
có cùng một bản chất, và có cùng một sự sống. Bây
giờ, chúng ta cũng cần có cùng một nếp sống. Chúng ta không đang sống bởi chính
mình hay cho chính mình; chúng ta đang sống với Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời,
còn Đức Chúa Trời đang sống với
chúng ta và vì chúng ta. Ha-lê-lu-gia!
b. Đức Chúa Trời Là Chồng Và Dân Ngài Là Vợ
Trong Cựu Ước, có
vài chỗ Đức Chúa Trời tự xưng là Chồng, và gọi dân Ngài là Vợ (Ês. 54:5; 62:5;
Giê 2:2; 3:1,14; 31:32; Êxê. 16:8; 23:5; Ôs. 2:7,19). Đức Chúa Trời muốn làm Chồng và cũng muốn dân Ngài làm Vợ Ngài. Nhiều
lần, các tiên tri nói về Đức Chúa Trời là Chồng, và nói về dân Ngài là Vợ. Nói
theo loài người, chúng ta luôn luôn nghĩ về Đức Chúa Trời như là Đấng Toàn Năng
theo cách tôn giáo, cảm thấy bị bắt buộc phải thờ phượng Ngài. Nhưng những anh
em đã lập gia đình có mong vợ mình làm như vậy không? Giả sử vợ anh em nghĩ anh
em là một người vạm vỡ, một người khổng lồ, và đến gần anh em cách tôn kính,
cúi đầu, quì xuống thờ lạy anh em. Anh em sẽ nói gì? Anh em sẽ nói: “Bà vợ ngớ ngẩn kia, tôi không cần một người thờ phượng như vậy.
Tôi cần một người vợ yêu dấu ôm tôi và hôn tôi. Chỉ cần em hôn tôi, tôi sẽ như
bay bỗng lên mây”. Tất nhiên, Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời Toàn
Năng, và chúng ta, là tạo vật của Ngài, phải thờ phượng Ngài. Nhiều câu Kinh
Thánh nói về sự thờ phượng Đức Chúa Trời như vậy. Tuy nhiên, anh em có bao giờ
đọc trong Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên và Ô-sê thấy rằng Đức Chúa Trời muốn làm một người Chồng không? Vào thời xưa, dân của Đức
Chúa Trời xây Đền Thờ và thiết lập một hệ thống thờ phượng hoàn chỉnh với chức
vụ tế lễ và các sinh tế. Một ngày nọ, Đức Chúa Trời can thiệp vào và phán qua Ê-sai rằng: “Ta chán những điều này. Ta mệt mỏi với những sinh tế
của các ngươi. Ta muốn các ngươi yêu Ta. Ta là Chồng của các ngươi, và các
ngươi phải là Vợ Ta. Ta muốn có cuộc sống hôn nhân. Ta cô đơn. Ta cần các
ngươi. Tuyển dân của Ta ơi, Ta cần các người làm Vợ Ta”.
c.
Chuyện Tình Trọn Vẹn Trong Sách Nhã Ca
Trong 39 Sách của Cựu ước, có một Sách gọi là Nhã Ca. Nhã Ca không phải
là một chuyện tình tầm thường mà là một chuyện
tình tuyệt vời. Anh em có bao giờ đọc một chuyện tình nào như Sách Nhã Ca chưa?
Theo tôi, Nhã Ca là chuyện tình đẹp nhất, nói về hai người yêu nhau. Mặc dầu
tôi không thích dùng từ “yêu
nhau” nhưng tôi không thể phủ nhận sự thật này. Trong Sách Nhã Ca, chúng ta thấy một người nữ yêu một người nam, cô nói: “Nguyện người ấy hôn
tôi bằng cái hôn của miệng người. Tôi khao khát điều này”. Ngay lập tức, người
yêu dấu của cô ở bên cạnh, và đại từ “người ấy”
được đổi thành
“chàng” (Nhã. 1:2-3). “Danh chàng ngọt ngào, ái tình chàng hơn rượu. Hãy kéo tôi, hỡi
người yêu dấu. Đừng dạy tôi, hãy kéo tôi. Tôi không cần mục sư hay truyền đạo.
Tôi không cần trưởng lão hay thậm chí sứ đồ. Tôi cần chàng kéo tôi. Hãy kéo
tôi, chúng tôi sẽ chạy theo chàng”. Thật là một chuyện tình!
Trong trường hợp A-đam và Ê-va, chúng ta thấy cặp vợ chồng này có cùng một
nguồn, một bản chất, một sự sống, và
một nếp sống. Trong Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên và Ô-sê,
chúng ta thấy Đức Chúa Trời muốn có một người Vợ chung sống với Ngài. Đức Chúa
Trời ao ước cuộc sống hôn
nhân, có thần tính sống chung với nhân tính. Nhưng dân Ngài làm Ngài thất vọng.
Tuy nhiên, trong Sách Nhã Ca, chúng ta thấy một cuộc sống hôn nhân thật sự. Bí
quyết của chuyện tình ấy là gì? Bí quyết ấy là người vợ phải nhận chồng mình
không chỉ như sự sống và nếp sống, mà còn như thân vị.
Như trong Kỳ Huấn Luyện Bất Thường vào năm 1972, chúng tôi đã chỉ rõ rằng
Chúa dùng một vài hình thái tu từ để mô tả đặc tính của người tìm kiếm Ngài
trong Sách Nhã Ca khi nàng trải qua những giai đoạn khác nhau trong sự lớn lên
của sự sống. Hình ảnh đầu tiên Ngài dùng là đàn ngựa cái (Nhã. 1:9). Ngựa mạnh mẽ, đầy năng lực, đầy cá
tính, và theo đuổi một mục đích xác định riêng. Dần dần, do sự hành động của
tình yêu, người tìm kiếm này thay đổi từ đàn ngựa cái sang một đóa hoa huệ thơm
ngát, xinh đẹp và đang trổ hoa (Nhã. 2:2). Người tìm kiếm Ngài trở nên một đóa
hoa huệ không có ý muốn,
không có tình cảm hay thân vị. Cuối cùng, nàng trở nên một cây trụ. Mặc dầu từ cây
trụ chỉ về một điều gì đó mạnh mẽ, nhưng người tìm kiếm Ngài được ví sánh với
một trụ khói (Nhã. 3:6), không phải một trụ cẩm thạch. Nàng là trụ khói đứng thẳng
và vững vàng trong vũ trụ; nhưng nàng rất uyển chuyển. Tôi thích thấy những người
vợ trẻ làm trụ khói và nói: “Ý muốn của tôi ở trong lòng chồng tôi, tình cảm của
tôi ở trong anh ấy, và tâm trí của tôi ở trong đầu anh ấy. Tôi chỉ là trụ
khói”. Trụ khói không có thân vị riêng, không có tâm trí, tình cảm, ý chí
riêng. Khi người chồng nói với người vợ ấy rằng: “Chúng ta hãy đi”, nàng sẽ
vâng lời ngay lập tức. Trái lại, nếu chồng nói: “Chúng ta hãy ở đây cho đến đời
đời” thì cũng không có nan đề gì. Tuy nhiên, những lời tường thuật tôi nhận được
về những cặp vợ chồng trẻ hoàn toàn khác điều này.
Nếu người chồng nói: “Chúng ta hãy đi” thì người vợ không chịu đi. Nếu người chồng
nói: “Chúng ta hãy ở lại” thì người vợ nằng nặc đòi đi. Nàng còn là con ngựa
hoang ở Ai-cập, kéo xe ngựa của Pha-ra-ôn. Một chị em như vậy có thể tìm kiếm
Chúa, nhưng kéo theo Pha-ra-ôn. Chị cần được tháo bỏ gánh nặng. Bằng cách nào?
Bằng cách đánh mất tâm trí, ý chí và tình cảm của mình và trở nên trụ khói.
Cuối cùng, người tìm kiếm trong Nhã Ca trở nên cái kiệu khiêng người yêu
dấu của mình (Nhã. 3:9). Nàng không còn có thân vị riêng; người
yêu dấu của nàng, là Đấng Christ là Chúa, bây giờ là Thân Vị bên trong nàng. Chính
nàng là cái kiệu mang Thân Vị Đấng Christ. Về sau,
người tìm kiếm này trở nên khu vườn trồng một điều gì đó để làm thỏa mãn người
yêu dấu của nàng (Nhã. 4:12-13). Cuối cùng,
nàng trở nên thành phố (Nhã. 6:4), là Giê-ru-sa-lem Mới (Khải. 21:2), không có
thân vị riêng, nhưng có Thân Vị Đấng Christ mạnh mẽ bên trong nàng. Ngợi khen Chúa! Đó là chuyện
tình thánh.
4.
Chuyện Tình Này Trong Tân ước
Bây giờ, chúng ta cần xem xét chuyện tình này như được trình bày trong
Tân Ước.
a.
Đấng Christ Là Chú Rể Trong Các Sách
Phúc Âm
Dĩ nhiên, các Sách Phúc Âm cho chúng ta một bản ký thuật đầy đủ về Đấng Christ
là Đấng Cứu Rỗi. Tuy nhiên, anh em có nhận thấy bốn Sách Phúc Âm cũng cho biết Đấng Christ
đã đến như Chú Rể (Mat. 9:15; Mác 2:19; Lu. 5:34; Gi. 3:29) không? Ngài đã đến
đón Cô Dâu của Ngài. Khi các môn đồ của Giăng Báp-tít thấy nhiều người bỏ Giăng
để theo Chúa Jesus, Giăng bảo họ đừng bối rối, Đấng Christ
là Chú Rể, và mọi sự gia tăng đều thuộc về Ngài (Gi. 3:30). Chú Rể đã đến
đón Cô Dâu. Cô Dâu là gì? Cô Dâu là sự gia tăng của Đấng Christ.
Sách Phúc Âm nào cũng trình bày Đấng Christ là Chú
Rể đến đón Cô Dâu.
b. Chồng Và Vợ Trong Các Thư Tín
Trong Các Thư Tín, Đấng Christ và Hội Thánh được trình bày là chồng và vợ (Êph.
5:25:32; 2Cô. 11:2). Các Thư Tín rõ ràng ví sánh Đấng Christ
và Hội Thánh với chồng và vợ. Nếu biết những gì được bày tỏ trong Các Thư
Tín, chúng ta sẽ thấy Đấng Christ
được khải thị như Người Chồng và tín đồ được khải thị như là người phôi
ngẫu của Ngài, là Vợ Ngài. Chúng ta phải hiệp một với Ngài trong nguồn gốc, bản chất, sự sống và nếp sống hằng ngày.
c. Cuộc Hôn Nhân của Đấng Christ
Và Dân Ngài
Trong Sách Khải Thị
Trong Sách Khải Thị, chúng ta thấy Đấng Christ có một
đám cưới (Khải. 19:7) và Giê-ru-sa-lem Mới được trình bày như Vợ Ngài (Khải.
21:2,9). Trong Khải Thị chương 19, chúng ta thấy Đấng Christ
sẽ dự một tiệc cưới, và trong chương 21, chúng ta thấy Giê-ru-sa-lem Mới sẽ
là Vợ Ngài. Trong Khải Thị chương 21 và 22, là hai chương cuối của Kinh Thánh, chúng ta thấy sự tổng kết sau cùng của
cả Kinh Thánh là cặp vợ chồng hoàn vũ.
5.
Cặp Vợ Chồng Hoàn Vũ Và Con Người
Hoàn Vũ
Hơn nữa, Kinh Thánh cho biết cặp vợ chồng này với hai thân vị là một thịt
(Sáng. 2:24; Êph. 5:31). A-đam và Ê-va là một thịt. Vì là một thịt nên họ cũng
là một người. Đấng Christ và những người được chọn của Ngài là một người tập
thể hoàn vũ gồm có Đấng Christ, tức người Chồng, là Đầu (Êph. 4:15), và Hội Thánh, tức người Vợ,
là Thân (Êph. 1:22-23). Cuối cùng, hai người trở nên một người tập thể, hoàn
vũ, bao hàm tất cả. Trong Ê-phê-sô chương 5, Hội Thánh được trình bày là người
vợ, và trong Ê-phê-sô chương 1, Hội Thánh được trình bày là Thân Thể của Đấng Christ.
Hội Thánh là Vợ của Đấng Christ và là Thân Thể của Đấng Christ.
Đấng Christ là Chồng và Đầu của Hội Thánh. Cho nên Đấng Christ
và Hội Thánh là con người hoàn vũ, tập thể. Điều này là cốt lõi của sự khải
thị thần thượng trong Lời Đức Chúa Trời. Cốt lõi chỉ là một cặp vợ chồng và một
người: cặp vợ chồng có Đức Chúa Trời Tam-Nhất là Chồng và tuyển dân Ngài là Vợ,
và một người với Đấng Christ là Đầu và tuyển dân Ngài là Thân. Đó là khải thị
trung tâm của toàn bộ Kinh Thánh. Với vợ chồng, phương diện chính yếu là tình
yêu, và với con người, phương diện chính yếu là sự sống. Như một cặp vợ chồng, Đấng Christ
và Hội Thánh là vấn đề tình yêu, và như một người, Đấng Christ
và Hội Thánh là vấn đề sự sống.
1. Những Lời Tiên Tri về Đấng Christ
Cựu ước là dự ngôn về Đấng Christ qua các lời tiên tri bằng ngôn từ rõ ràng, hình
bóng, hình ảnh và bóng. Nếu đọc kỹ Cựu ước, anh em sẽ khám phá nhiều lời tiên
tri sáng tỏ, rõ ràng về Đấng Christ. Cựu ước cho biết Đấng Christ
do ai sinh ra, được sinh ra ở đâu, và cho biết nhiều sự kiện trong cuộc đời
của Ngài. Rất nhiều câu Kinh Thánh liên quan đến những lời tiên tri về Đấng Christ.
Ngoài những lời tiên tri này còn có những hình bóng, hình ảnh và bóng bày
tỏ và mô tả Đấng Christ cách chi tiết. Vì vậy, Cựu Ước được xem là một khải
thị về Đấng Christ (Lu. 24:27,44; Gi. 5:39).
2. Hội Thánh
Trong Những Hình Bóng, Hình Ảnh Và Bóng
Cựu Ước cũng nói trước về Hội Thánh, nhưng không bằng ngôn từ rõ ràng mà
chỉ qua những hình bóng, hình ảnh, và bóng. Hội Thánh chưa bao giờ được đề cập
trong Cựu Ước bằng ngôn từ rõ ràng. Trong Cựu Ước, Hội Thánh là một huyền nhiệm
giấu kín (Êph. 3:3-6). Tuy nhiên, Hội Thánh được
nói trước bằng nhiều hình bóng, hình ảnh, và bóng. Hình bóng và bóng của Hội Thánh chính yếu có hai loại. Loại
thứ nhất bao gồm vợ của những người được tượng trưng cho Đấng Christ.
Ê-va là một hình bóng về Hội Thánh (Êph. 5:31-32). Rê-bê-ca, vợ của Y-sác, cũng là một hình bóng về Hội
Thánh (Sáng. 24). Ru-tơ tượng trưng cho Hội Thánh (Ru. 4), và Su-la-mít trong
Nhã Ca cũng vậy (Nhã. 6:13). Trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ, Su-la-mít là hình thức giống
cái của Sa-lô-môn. Cả Sa-lô-môn lẫn Su-la-mít đều ra từ cùng một tên, một tên
là Sa-lô-môn nam và một tên là Sa-lô-môn nữ. Su-la-mít này cũng là hình bóng về
Hội Thánh. Loại thứ hai bao gồm Đền Tạm và Đền Thờ, cả hai đều là hình bóng về
Hội Thánh. Mặc dầu Hội Thánh không được đề cập trong Cựu Ước bằng những lời lẽ
rõ ràng, sáng tỏ, nhưng vẫn được hình bóng cách đầy đủ.
C.
Tân Ước Là Sự Ứng Nghiệm Của Cựu Ước
Còn về Tân Ước thì sao? Tân Ước là sự ứng nghiệm của Cựu Ước. Điều gì Cựu
Ước nói trước về Đấng Christ và Hội Thánh đều được ứng nghiệm cách trọn vẹn trong
Tân Ước.
1. Đấng Christ Cá Thể Trong Các Sách
Phúc Âm
Bốn Sách Phúc Âm là
tiểu sử sống động của một Nhân Vật kỳ diệu. Bốn Sách Phúc Âm
bày tỏ một Nhân Vật kỳ diệu, là Đấng Christ cá thể, Đấng đến để làm ứng nghiệm Cựu Ước. Có lẽ
anh em thường đọc các Sách Phúc Âm mà không nhận biết nhiều phương diện của Đấng
Christ được bày tỏ trong đó. Hơn 60 phương diện về Đấng Christ
đã được trình bày trong Phúc Âm Ma-thi-ơ và Giăng. Như
chúng tôi đã nêu trong những dịp trước, trong Ma-thi-ơ chương 1, chúng ta thấy
Đấng Christ là Jesus, tức Giê-hô-va Đấng Cứu Rỗi, và cũng là Em-ma- nu-ên,
tức Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Trong chương 4, Ngài được bày tỏ là Ánh Sáng lớn. Trong những chương tiếp
theo, chúng ta thấy Ngài là Đa-vít lớn hơn, Đền Thờ lớn hơn, Sa-lô-môn lớn hơn,
Giô-na lớn hơn, Môi-se sống động với những luật lệ cập nhật và Ê-li sống động
làm ứng nghiệm các lời tiên tri. Nếu đọc kỹ Sách Ma-thi-ơ, chúng ta sẽ tìm thấy
ít nhất 30 điều nữa về Đấng Christ. Những điều này được liệt
kê trong Nghiên Cứu Sự Sống Sách Ma-thi-ơ, quyển một. Đấng Christ
là Đa-vít thật, Môi-se thật, Sa-lô-môn thật và Đền Thờ thật. Đấng Christ
là mọi sự. Trong Phúc Âm Giăng, chúng ta thấy 20 hoặc 30 điều nữa. Đấng Christ
là Ánh Sáng, Không Khí, Nước, Thức Ăn, Người Chăn, Cái Cửa và Đồng Cỏ. Đấng
Christ bao hàm tất cả. Ngài là mọi sự. Anh em có bao giờ thấy
Đấng Christ này chưa? Mặc dầu Ngài là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta,
nhưng Ngài hơn như vậy nhiều. Ngài là mọi sự. Ngài là Nhân Vật kỳ diệu nhất.
Đơn giản là anh em không thể nói Đấng Christ là ai.
Nếu anh em nói Ngài là Đức Chúa Trời, tôi sẽ nói Ngài là con người. Nếu anh em
nói Ngài là con người, tôi sẽ nói Ngài là Đức Chúa Trời. Nếu anh em nói
Ngài là Con Đức Chúa Trời, tôi sẽ nói Ngài là Đức Chúa Trời Cha. Nếu anh em nói
Ngài là Đức Chúa Trời Cha, tôi sẽ nói Ngài là Đức Chúa Trời Linh. Nếu anh em
nói Ngài là Đấng Tạo Hóa, tôi sẽ nói Ngài là Đấng Cứu Chuộc. Đấng Christ
là mọi sự!
2. Đấng Christ Tập Thể Trong Sách Công Vụ
Sách Công Vụ tiếp
theo các Sách Phúc Âm. Sách Công Vụ là gì? Sách Công Vụ là sự lan rộng, sự gia
tăng, và sự mở rộng của Thân Vị kỳ diệu này. Thân Vị kỳ diệu này được giới hạn
và giam hãm trong con người Jesus nhỏ bé, nhưng trong Sách Công Vụ, Ngài được tái sản
sinh, gia tăng và mở rộng. Ngài được gia tăng bằng cách lan rộng vào trong
Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Ê-tiên, và thậm chí Sau-lơ người Tạt-sơ. Ngài đã lan rộng
vào trong hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn người tin Ngài, làm cho họ trở
nên một phần của Ngài. Nói cách tập thể, tất cả những tín đồ
này cùng với chính Ngài trở nên Đấng Christ Tập Thể. Vì vậy, trong bốn Sách Phúc Âm, chúng ta có Đấng Christ
cá thể; trong Sách Công Vụ, chúng ta có Đấng Christ
tập thể. Vào cuối Sách Công Vụ, chúng ta thấy cả Đấng Christ
cá thể lẫn Đấng Christ tập thể. Tuy nhiên, chúng ta không biết làm thế nào
Đấng Christ cá thể có thể trở thành Đấng Christ
tập thể. Làm thế nào đông đảo tín đồ chúng ta lại có thể trở nên một phần
của Đấng Christ?
3. Định Nghĩa Đầy Đủ
Về Đấng Christ Tập Thể Trong Sách La-mã
Điều này đem chúng ta đến với Sách La-mã. Sách La-mã giải thích làm thế
nào Đấng Christ cá thể có thể trở thành Đấng Christ
tập thể, và làm thế nào tất cả chúng ta, những người đã từng là tội nhân
và là kẻ thù của Đức Chúa Trời, lại có thể trở nên những phần của Đấng Christ
và hình thành một Thân Thể của Ngài. Sách La-mã định nghĩa đầy đủ về điều
này, bày tỏ chi tiết đời sống Cơ-đốc
và nếp sống Hội Thánh. Do đó, chúng ta đến với Sách La-mã để
được huấn luyện về đời sống Cơ-đốc và nếp
sống Hội Thánh. Sách La-mã phác họa cả hai điều ấy.
Bây giờ, chúng ta biết vi trí của Sách La-mã trong Kinh Thánh.
II. BỐ CỤC CỦA SÁCH LA-MÃ
Đến đây chúng ta cần xem xét bố cục của
Sách La-mã. Chúa đã ban tám từ liệu biểu thị cho tám phần của Sách này: phần giới
thiệu, định tội, xưng công chính, thánh hóa, vinh hóa, lựa chọn, biến đổi và phần
kết luận. Tất cả chúng ta cần nhớ tám từ này. Trước đây tôi chưa từng thấy một dàn bài như vậy về Sách
La-mã cho đến khi Chúa ban điều ấy cho tôi chỉ mới gần đây. Mặc dầu tôi từng hướng
dẫn một lớp nghiên cứu kỹ lưỡng Sách La-mã cách đây 22 năm với các thánh đồ tại
Đài Loan, nhưng tôi phải tuyên bố rằng dàn bài tôi dùng lúc ấy bây giờ đã quá
cũ. Với tám từ biểu thị cho tám phần của Sách, dàn bài hiện tại thật mới mẻ và
cập nhật. Chúng ta phải chú ý kỹ đến nội dung của tám phần này.
Phần giới thiệu (1:1-17) trình bày chủ đề của Sách La-mã là Phúc Âm của Đức
Chúa Trời. Đó là nội dung của phần giới thiệu. Trong bài tiếp theo chúng ta sẽ
thấy Phúc Âm của Đức Chúa Trời là gì.
B. Định Tội-Cần Có Sự Cứu Rỗi
Tiếp theo phần giới thiệu, chúng ta có phần về sự định tội (1:18-3:20) cho thấy cần có sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Tất cả chúng ta đều là những trường hợp vô vọng và bất lực, và ở dưới sự định tội
của Đức Chúa Trời. Chúng ta cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Phần thứ ba, xưng công chính (3:21-5:11),
bày tỏ việc hoàn thành sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Liên quan đến vấn đề xưng công chính này, chúng ta có ba điều
khác-sự vãn hồi, cứu chuộc và giải hòa. Khi đến
chương 3, chúng tôi sẽ đề cập đến những từ liệu này. Ở đây tôi chỉ nói một lời ngắn gọn. Sự xưng công chính của Đức
Chúa Trời tùy thuộc vào sự cứu chuộc của Đấng Christ. Không
có sự cứu chuộc của Đấng Christ, Đức Chúa Trời không cách
nào xưng công chính tội nhân. Vì vậy, xưng công chính tùy thuộc vào sự cứu chuộc
và sự cứu chuộc có một phương diện chính là vãn hồi. Vãn hồi là cấu trúc chính
của sự cứu chuộc. Vãn hồi là phần chính trong sự cứu chuộc của Đấng Christ,
vì là tội nhân, chúng ta nợ Đức Chúa Trời rất nhiều. Đức Chúa Trời buộc
chúng ta phải trả món nợ này, và điều này gây nên một nan đề rất lớn. Nan đề ấy đã được giải
quyết bởi Đấng Christ là sinh tế vãn hồi của chúng ta. Vì sự vãn hồi này
đã giải quyết những nan đề của chúng ta với Đức Chúa Trời, nên chúng ta được cứu
chuộc. Dựa trên sự cứu chuộc của Đấng Christ, Đức Chúa Trời có thể xưng
công chính chúng ta cách dễ dàng và hợp pháp. Do đó, xưng công chính tùy thuộc
vào sự cứu chuộc, và phần chính của sự cứu chuộc là vãn hồi. Như vậy sự giải
hòa là gì? Giải hòa là kết quả của xưng công chính. Sự xưng công chính của Đức
Chúa Trời dẫn đến giải hòa. Tất cả những điều này đã được hoàn thành.
Ha-lê-lu-gia! Mặc dầu hiện nay có thể anh em không sáng tỏ về tất cả những từ
này, nhưng anh em có thể nói với Chúa: “Chúa ơi, con không hiểu tất cả những từ
này, nhưng con ngợi khen Ngài vì mọi sự đã được hoàn thành”.
Sự xưng công chính đem chúng ta đến với Đức Chúa Trời. Thật ra, sự xưng
công chính không những đem chúng ta đến với Đức Chúa Trời mà còn đem chúng ta
vào trong Đức Chúa Trời. Vì vậy, chúng ta có thể vui hưởng Đức Chúa Trời cách
trọn vẹn. Bản King James chép: “Chúng ta vui mừng
trong Đức Chúa Trời” (La. 5:11). Không những được vui mừng trong Đức Chúa Trời
mà chúng ta còn vui
hưởng Ngài. Đức Chúa Trời là sự vui hưởng của chúng ta. Đó là xưng công chính.
D.
Thánh Hóa
-Tiến Trình Sự Sống Trong
Sự Cứu Rỗi
Tiếp theo điều này, chúng ta có sự thánh hóa (5:12-8:13). Ở trong Đức Chúa Trời và vui hưởng Đức Chúa
Trời thật tốt biết bao! Tuy nhiên, anh em đừng nhìn vào chính mình. Nhiều khi
tôi đang vui hưởng Đức Chúa Trời, ngợi khen Ngài và dự phần sự
phong phú của Ngài, thì kẻ quỉ quyệt nói với tôi: “Hãy nhìn ngươi xem! Hãy suy nghĩ cách ngươi đã đối xử
với vợ sáng nay”. Giây phút chấp nhận lời đề nghị ấy, tôi rớt từ trời xuống địa
ngục. Tôi thất vọng sâu xa. Khi tôi đang ở trong phòng ngợi khen thì vợ tôi ở trong bếp nấu
ăn. Khi Sa-tan đưa ra câu hỏi tôi đã đối xử với vợ như thế nào sáng hôm ấy, tôi
sợ vợ tôi nghe lời ngợi khen của tôi, và vào ngăn trở tôi rằng: “Thôi anh đừng ngợi khen nữa. Anh không biết anh đã
làm gì với tôi sáng hôm nay sao?” Sau khi được xưng công chính, chúng ta cần được
thánh hóa.
Được thánh hóa có nghĩa là gì? Một lần nữa chúng ta có thể dùng trà để
minh họa. Nếu bỏ trà
vào một ly nước trong, nước sẽ được “trà
hóa”. Tốt nhất thì chúng ta cũng chỉ là nước trong, mặc dầu thật sự chúng ta
không trong mà còn dơ bẩn. Dầu là nước trong, chúng ta vẫn thiếu vị trà, tinh
chất trà và màu trà. Chúng ta cần trà vào trong chính bản thể mình. Chính Đấng Christ
là Trà Thiên Thượng. Đấng Christ đang ở trong chúng ta. Ha-lê-lu-gia!
Gần đây tôi chỉ cho các thánh đồ tại Anaheim thấy
rằng Đức Chúa Trời của chúng ta được khải thị cách tiệm tiến suốt Sách La-mã.
Trong chương 1, Ngài là Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo, trong chương 3, Ngài
là Đức Chúa Trời trong sự cứu chuộc, trong chương 4, Ngài là Đức Chúa Trời
trong sự xưng công chính, trong chương 5, Ngài là Đức Chúa Trời trong sự giải
hòa, và trong chương 6, Ngài là Đức Chúa Trời trong sự đồng nhất. Khi đến
chương 8, chúng ta thấy Đức Chúa Trời của chúng ta bây giờ ở trong chúng ta. Đấng
Christ ở trong chúng ta (La. 8:10)! Ngài không chỉ ở trong
sự sáng tạo, sự cứu chuộc, sự xưng công chính, sự giải hòa và sự đồng nhất, mà
bây giờ Ngài còn ở trong chúng ta, trong linh chúng ta. Đấng Christ
ở trong chúng ta đang thực hiện công tác biến đổi và thánh hóa, giống như
trà, khi được cho vào nước,
sẽ đem yếu tố trà
vào trong nước. Cuối cùng, nước sẽ hoàn toàn được “trà hóa”. Nước sẽ có màu sắc, hương thơm và mùi vị của
trà thật. Nếu tôi mời anh em nước đó tức là mời anh em uống trà, chứ không phải
nước trong.
Nếu tôi hỏi anh em đã được xưng công chính chưa, tất cả anh em đều sẽ trả
lời: “Ha-lê-lu-gia! Chúng tôi đã được xưng công chính vì Đấng Christ
đã hoàn thành sự cứu chuộc rồi. Đức Chúa Trời đã giải hòa chúng tôi và
bây giờ chúng tôi đang vui hưởng Ngài”. Đó là điều kỳ diệu. Tuy nhiên, còn
thánh hóa thì sao? Anh em đã được thánh hóa chưa? Nếu mốt số anh em có gia đình tuyên bố mình đã được thánh
hóa, thì vợ họ sẽ không
đồng ý, nói rằng: “Các anh chắc chắn đã được xưng công chính, nhưng chưa chắc
đã được thánh hóa”. Anh em ơi, vợ anh em đã được thánh hóa chưa? Những chị em
làm vợ có nghĩ rằng chồng mình đã được thánh hóa không? Có lẽ một số người sẽ
nói chồng họ được thánh hóa một phần nhỏ. Người khác có lẽ cảm thấy họ đã tương
đối được cải thiện. Tuy nhiên, tôi không nói về vấn đề cải thiện mà về thánh
hóa-tức là có Đấng Christ được đem vào trong bản thể chúng ta, giống như tinh
chất, hương vị và màu sắc của trà được đem vào nước trong. Đó là sự thánh hóa.
Phần tiếp theo trong Sách La-mã là vinh hóa (La. 8:14-39), bày tỏ mục đích sự cứu rỗi của Đức Chúa
Trời. Tiếp theo sự thánh hóa, cần có vinh hóa. Thân thể chúng ta cần được vinh
hóa. Mặc dầu một anh em có thể khá thánh khiết nhưng thân thể của anh ấy vẫn cần
được vinh hóa vì những khuyết điểm và những giới hạn về mặt vật lý của thân thể.
Khi Chúa Jesus đến, chúng ta sẽ được vinh hóa. Hiện nay tôi phải
mang mắt kính dày và kỳ dị, nhưng khi Chúa đến, tôi sẽ được vinh hóa. Chúng ta
không những được xưng công chính và được thánh hóa mà cũng sẽ được vinh hóa, tức
là thân thể của chúng ta sẽ được cứu chuộc. Vinh hóa là sự cứu chuộc thân thể
chúng ta cách trọn vẹn.
Sự vinh hóa này bày tỏ mục đích cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Mục đích cứu rỗi
của Đức Chúa Trời là sinh ra nhiều anh em cho Đấng Christ.
Ban đầu Đấng Christ là Con Độc Sinh của Đức Chúa Trời. Bây giờ, Con Độc
Sinh đã trở nên Con Trưởng. Chính chúng ta sẽ được trải qua
một tiến trình để trở thành nhiều em của Đấng Christ và nhiều
con của Đức Chúa Trời. Trong bài kế tiếp, chúng ta sẽ thấy Đấng Christ
là Nguyên Mẫu và chúng ta là bản sao của Ngài, là sự sản sinh hàng loạt. Jesus
nhỏ bé đã trải qua một tiến trình và được chứng minh là Con của Đức
Chúa Trời, chúng ta cũng ở trong tiến trình tương tự để được chứng minh là nhiều
con của Đức Chúa Trời. Ngài là Con Trưởng, và chúng ta, tức nhiều con, là em của
Ngài. Đó là mục đích cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
F. Sự Lựa Chọn-Gia Tể Của Sự
Cứu Rỗi
Sau sự vinh hóa, chúng ta đến sự lựa chọn là điều bày tỏ gia tể của sự cứu
rỗi (La. 9:1-11:36).
Đức Chúa Trời có một mục đích và một gia tể. Gia tể của Ngài là để hoàn thành mục
đích của Ngài. Đức Chúa Trời rất khôn ngoan và Ngài sắp đặt mọi sự để hoàn
thành mục đích của Ngài. Ngài biết điều Ngài đang làm. Ngài biết ai là của Ngài
và Ngài biết khi nào nên kêu gọi người được lựa chọn của Ngài, về phía Đức Chúa
Trời, lựa chọn là để hoàn thành mục đích của Ngài; về phía chúng ta, lựa chọn
là phần định của chúng ta.
Sau đó, chúng ta có phần nói về biến đổi,
bày tỏ sự thực hành sự sống trong sự cứu rỗi (La. 12:1-15:13). Trong phần này, chúng ta thấy việc thực hành
sự sống của tất cả những người đã được sản sinh bởi tiến
trình sự sống. Bất cứ điều gì được sản sinh trong phần nói về
thánh hóa cũng được thực hành trong phần nói về biến đổi. Cuối cùng, thánh hóa
trở nên sự biến đổi. Theo một ý nghĩa, chúng ta ở trong sự thánh hóa; theo một
ý nghĩa khác, chúng ta
cũng ở trong sự biến đổi. Chúng ta đang ở trong tiến trình sự sống và đang thực
hành sự sống để có được nếp sống Thân Thể với một đời sống riêng tư đúng đắn. Mỗi
một phương diện của đời sống Cơ-đốc đúng đắn và nếp sống Hội Thánh đúng đắn
đều được bao hàm trong phần nói về sự biến đổi. Trong khi đang được thánh hóa,
chúng ta cũng được biến đổi từ một hình thức này sang một hình thức khác và từ
một hình dạng này sang một hình dạng khác. Ngợi khen Chúa! Tất cả chúng ta đều đang ở trong tiến trình sự sống của sự
thánh hóa để thực hành sự biến đổi sự sống.
Phần cuối của
Sách La-mã là phần kết luận, bày tỏ sự hoàn thành sau cùng của sự cứu rỗi (La.
15:14—16:27). Sự hoàn thành sau cùng của sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là các Hội
Thánh-không chỉ là Thân Thể, mà là các Hội Thánh địa phương như sự biểu lộ của
Thân Thể. Ha-lê-lu-gia! Sách La-mã bắt đầu với Phúc Âm của Đức Chúa Trời và kết
thúc với các Hội Thánh địa phương. Trong Sách La-mã, chúng ta không có Hội
Thánh địa phương theo giáo lý, mà có các Hội Thánh địa phương trên thực tế. Như
sẽ thấy trong những bài sau, nhiều Hội Thánh được đề cập trong La-mã chương 16.
III. CẤU TRÚC CHÍNH CỦA SÁCH LA-MÃ
Cấu trúc chính của Sách La-mã là ba điều-sự cứu rỗi, sự sống và sự xây dựng.
Cấu trúc chính đầu tiên của Sách La-mã là sự cứu rỗi, được bày tỏ trong
1:1-5:11 và 9:1-11:36.
Sự cứu rỗi bao hàm sự vãn hồi, cứu chuộc, xưng công chính, giải hòa, lựa chọn
và tiền định. Trong quá khứ đời đời, Đức Chúa Trời đã tiền định về chúng ta. Rồi
Ngài kêu gọi, cứu chuộc, xưng công chính và giải hòa chúng ta với chính Ngài.
Do đó, chúng ta có sự cứu rỗi trọn vẹn.
Chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa cứu chuộc và cứu rỗi. Sự cứu chuộc
là những gì Đấng Christ đã hoàn thành theo cách nhìn của Đức Chúa Trời. Sự cứu
rỗi là những gì Đức Chúa Trời đã hành động trên chúng ta dựa trên sự cứu chuộc
của Đấng Christ. Sự cứu chuộc có tính khách quan, và sự cứu rỗi có
tính chủ quan. Khi sự cứu chuộc trở nên kinh nghiệm của chúng ta, sự cứu chuộc
trở thành sự cứu rỗi.
Như được bày tỏ trong 5:12-8:39, sự
cứu rỗi là vì sự sống.
Trong phần này, từ liệu sự sống được dùng ít nhất 7 lần, và theo chương 8, sự sống
này có bốn phương diện mà chúng ta sẽ thấy khi đến chương 8.
C.
Sự Xây Dựng
Trong phần cuối của Sách La-mã, 12:1-16:27,
chúng ta có sự xây dựng, tức là Thân Thể với tất cả những biểu hiện của Thân Thể
trong các Hội Thánh địa phương. Sự cứu rỗi là để có sự sống, và sự sống là để
xây dựng. Do đó, ba cấu trúc chính của Sách La-mã là sự cứu rỗi, sự sống và sự
xây dựng.