Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

LA-MÃ BÀI BA



NGUỒN GỐC CỦA SỰ GIAN ÁC
VÀ CÁCH KIỂM CHẾ
Trong bài này, chúng ta sẽ đề cập đến nguồn gốc của sự gian ác được bày tỏ qua sự định tội nhân loại và cách kiểm chế được bày tỏ qua sự định tội những người tự xưng công chính. Sau phần giới thiệu, Phao-lô trình bày vấn đề định tội theo bốn khía cạnh: trên nhân loại nói chung (1:18-32), trên những người tự xưng công chính nói riêng (2:1-16), cụ thể trên những người tôn giáo (2:17-3:8) và trên cả thế giới (3:9-20). Trưc hết, Sách La-mã bày tỏ rằng sự định tội đã đến trên nhân loại nói chung. Sau đó, ông lưu ý hai lớp người đặc biệt-lớp người tự xưng công chính và lớp người tôn giáo, có văn hóa. Cuối cùng, cả thế gian bị định tội. Dầu tốt hay xấu, tôn giáo hay không, chúng ta đều ở dưới sự định tội của Đức Chúa Trời. Mặc dầu chúng tôi không muốn nói nhiều về đề tài định tội, nhưng có hai điểm khá quan trọng liên quan đến đề tài này. Trước hết là nguồn gốc sự xấu xa, nguồn gốc sự gian ác. Vì nguồn gốc này nên nhân loại đã gian ác. Do đó, trong bài này, chúng ta sẽ thấy nguồn gốc sự gian ác của loài người. Thứ hai, chúng ta cần thấy cách kiểm chế. Có một cách để kiểm chế sự gian ác này. Vì đã được cứu khỏi sự định tội nên chúng ta không cần chú ý nhiều đến điều này. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần dành đủ thời gian để học biết về nguồn gốc của sự xấu xa và cách kiểm chế sự xấu xa.

I. SỰ ĐNH TỘI TRÊN NHÂN LOẠI
A. Nguồn Gốc Của Sự Gian Ác
Bây giờ, chúng ta cần xem xét nguồn gốc của sự gian ác. Phần này của La-mã (1:18-32) bày tỏ bốn yếu tố về nguồn gốc sự gian ác.
1. Đè Nén Lẽ Thật Trong Sự Không Công Chính
Yếu tố đầu tiên trong nguồn gốc của sự gian ác là đè nén lẽ thật trong sự không công chính (1:18). Lẽ thật là gì? Lẽ thật không phải là giáo lý hay kiến thức suông. Lẽ thật là thực tại; lẽ thật vững chắc và có thực. Trong vũ trụ này có thực tại, và thực tại hàng đu là chính Đức Chúa Trời. Nói rằng không có Đức Chúa Trời là nói hư không; tuyên b thực tại về Đức Chúa Trời là nói một điều gì đó vững chắc, có thực, đích thực, và đúng. Đức Chúa Trời là thật. Không ai có thể phủ nhận thực tại về Đức Chúa Trời hay chối bỏ sự kiện Ngài hiện hữu, vì sự hiện hữu của Đức Chúa Trời là một thực tại. Tuy nhiên, ngay từ ban đầu, nhân loại không tôn trọng thực tại về Đức Chúa Trời mà đè nén thực tại ấy. Đơn giản là họ không quan tâm đến thực tại này, và không chịu giữ thực tại này cách đúng đắn. Họ đè nén lẽ thật trong sự không công chính, đè nén lẽ thật cách không công chính. Ngày nay tại Mỹ, chúng ta thấy sự gian ác ở mọi phương diện, báo chí đầy dẫy những điều xấu xa và đáng xấu hổ. Tại sao có nhiều điều đáng xấu hổ trong quốc gia đứng đầu thế giới này? Vì rất nhiều người không mun duy trì lẽ thật, nhưng thay vào đó, họ đã đè nén lẽ thật cách sai quấy. Đó là khía cạnh quan trọng nhất của nguồn gốc sự gian ác.
2. Không Chịu Giữ Lấy Đức Chúa Trời
Trong Sự Hiểu Biết Trọn Vẹn
Mặc dầu nhân loại nhận biết có Đức Chúa Trời, nhưng họ vẫn thử Ngài và thách đ Ngài, cui cùng, quyết định không giữ Ngài trong hiểu biết trọn vẹn của mình. Họ không chịu nắm giữ Đức Chúa Trời trong sự hiểu biết đầy đủ (1:28). Nhiều giáo sư và chuyên gia không tin Đấng Christ. Nếu hỏi về Đức Chúa Trời, họ sẽ nói: “Chúng tôi biết có Đức Chúa Trời, nhưng chúng tôi không thích tin Ngài”. Những người như vậy không chịu giữ lấy Đức Chúa Trời trong hiểu biết của họ. Chúng ta phải giữ lấy Đức Chúa Trời trong sự hiểu biết ca mình, vì từ chối làm điều này là rất kinh khủng.
5. Không Tôn Vinh Đức Chúa Trời
Và Không Thờ Phượng Ngài
Vào thời xưa, con người đã biết Đức Chúa Trời, nhưng không tôn vinh Ngài là Đức Chúa Trời. Họ cũng không cảm tạ, thờ phượng hay hầu việc Ngài (1:21,25). Đó là một yếu t khác nữa trong nguồn gốc sự gian ác. Không chịu tôn vinh Đức Chúa Trời, không cảm tạ Đức Chúa Trời, không thờ phượng Đức Chúa Trời và không hầu việc Đức Chúa Trời là một phương diện chính yếu trong nguồn gc của sự gian ác. Tuy nhiên, nếu tôn vinh và cảm tạ Ngài, thờ phượng và hầu việc Ngài, chúng ta sẽ được bảo vệ khỏi mọi điều ác. Có rất nhiều cuộc ly dị và nhiều điều vô luân khắp thế giới ngày nay vì người ta không tôn vinh Đức Chúa Trời và không thờ phượng Ngài. Một người tôn vinh Đức Chúa Trời, cảm tạ, thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ ly dị. Mọi cuộc ly dị và hành động vô luân đều ra từ một nguồn gốc là không chịu thờ phượng Đức Chúa Trời. Đừng bao giờ nghĩ rằng thờ phượng Đức Chúa Trời là vô nghĩa, và tôn vinh Ngài là chuyện nhỏ. Những điều này mang ý nghĩa lớn lao cho cuộc sống con người. Chúng ta cần cảm tạ Đức Chúa Trời. Chúng ta có nhiều điều để cảm tạ Ngài. Một s người mãi đến khi sắp lìa đời mới cảm tạ Đức Chúa Trời. Mặc dầu làm như vậy là quá trễ, nhưng còn hơn là không cảm tạ gì cả.
Chúng ta cần nhận biết rằng tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời là cực kỳ quan trọng. Giả sử tôi có tính nóng nảy, một tính khí xấu xa và đáng xấu hổ. Nếu c gắng đè nén, tôi sẽ không bao giờ thành công. Nhưng nếu cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời liên tục, tôi sẽ tìm được phương cách tốt nhất để thoát khỏi bản tính tồi tệ của mình. Mỗi khi sắp nổi nóng, anh em nên nói: Tôi sẽ hầu việc Đức Chúa Tri. Tôi không có thì giờ nổi nóng. Đức Chúa Trời ôi, con cảm tạ Ngài vì Ngài là Đức Chúa Trời của con, vì Ngài là Đấng Tạo Hóa của con. Không có Ngài, con không tồn tại. Con tồn tại được là nhờ Ngài. Con cảm tạ Ngài, thờ phượng và hầu việc Ngài”. Nếu làm như vậy, ngay lập tức anh em sẽ thoát khỏi bản tính của mình. Chúng ta cần thờ phượng Đức Chúa Trời biết bao!
4. Đổi Chác Đức Chúa Trời
Kế đến, nhân loại còn đổi chác Đức Chúa Trời (1:23,25). Đổi chác Đức Chúa Trời là điều kinh khủng, vì Đức Chúa Trời là vinh hiển và là thực tại của vũ trụ. Khi Đức Chúa Trời biểu lộ, đó là vinh hiển. Đổi chác Đức Chúa Trời nghĩa là bỏ Ngài mà lấy một điều khác. Người ta đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng. Đức Chúa Trời là vinh hiển; hình tượng là hư không. Đức Chúa Trời là thực tại; hình tượng là giả tạo và lừa dối. Thật dại dột và kinh khủng khi con người đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng! Hầu hết dân Mỹ đều không thờ hình tượng hữu hình, mặc dầu có một vài người vẫn thờ. Tuy nhiên, nhiều người-tại đất nước này đã đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng họ tự làm nên như tương lai, địa vị, bằng cấp, và mục tiêu. Điều này có nghĩa là tương lai, địa vị, bằng cấp, và mục tiêu đã trở nên hình tượng của họ. Họ quan tâm đến những hình tượng này chứ không quan tâm đến Đức Chúa Trời. Vì vậy, họ cũng đã đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng.
Nếu xem xét kỹ bốn khía cạnh này trong nguồn gốc của sự gian ác, chúng ta sẽ thấy bn khía cạnh này đã cấu tạo nên gốc rễ của mọi loại gian ác và tội lỗi.
B. Hậu Quả Của Việc Từ Bỏ Đức Chúa Trời
Bây giờ, chúng ta cần tìm hiểu hậu quả của việc từ bỏ Đức Chúa Trời.
1. B Đức Chúa Trời Từ Bỏ
Hậu quả đầu tiên của việc từ bỏ Đức Chúa Trời là bị Đức Chúa Trời từ bỏ. Khi anh em từ bỏ Đức Chúa Trời, hành động ấy buộc Đức Chúa Trời phải từ bỏ anh em. Nếu anh em buông bỏ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời buộc phải buông bỏ anh em. Đó là điều tồi tệ nhất. Thật kinh khủng khi bị Đức Chúa Trời từ bỏ. Chúng ta phải nói với Đức Chúa Trời rằng: Dầu con bỏ Ngài, nhưng xin Ngài đừng bỏ con. Có lẽ con dại dột khi từ bỏ Ngài. Chúa ơi, xin thương xót con và đừng bao giờ bỏ con”. Chúng ta cần cầu nguyện như vậy, vì bị Đức Chúa Trời từ bỏ là điều đáng sợ. Khi một người đã bị Đức Chúa Trời từ bỏ, người ấy không bao giờ làm điều tốt. Người ấy sẽ không trở nên tốt hơn mà càng ngày càng xung dốc.
Theo La-mã chương 1, Đức Chúa Trời bỏ mặc người ta cho ba điều. Trước hết là cho sự ô uế (1:24). Khi một người từ bỏ Đức Chúa Trời và buộc Đức Chúa Trời từ bỏ mình, người ấy sẽ bị ô uế, ngay lập tức người ấy sẽ dính dấp đến sự ô uế. Thứ hai, Đức Chúa Trời bỏ mặc người ta cho niềm đam mê nhơ nhuốc, cho dục vọng đáng hổ thẹn (1:26). Tôi không mun dùng môi miệng tinh sạch của mình nói đến dục vọng đáng hổ thẹn. Những người như vậy trở nên kẻ kê gian, buông tuồng trong niềm đam mê xấu xa và tình cảm không kiểm chế, làm nhơ nhuốc thân thể của nhau. Thứ ba, Đức Chúa Trời bỏ mặc người ta cho tâm trí không được chấp nhận (1:28). Nếu anh em không chịu giữ lấy Đức Chúa Trời trong hiểu biết của mình, Đức Chúa Trời sẽ để anh em có một tâm trí mà Ngài không chấp nhận. Tâm trí của tội nhân không bao giờ được Đức Chúa Trời chấp nhận. Chẳng hạn như Đức Chúa Trời không chấp nhận một tâm trí đầy ắp ý tưởng ly dị. Hãy nhìn vào xã hội tội lỗi ngày nay: không ai có một tâm trí được Đức Chúa Trời chấp nhận. Tất cả đã bị Ngài bỏ mặc cho một tâm trí không được chấp nhận, vì họ làm điều không đúng đắn. Người ta ngu dại và đáng xấu hổ trong con đường tội lỗi của họ. Hành vi cử chỉ của họ hoàn toàn không đúng đắn. Tuy nhiên, họ tiếp tục ở trong tội vì Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ cho một tâm trí không được chấp nhận.
2. Gian Dâm-Làm Rối Loạn Trật Tự
Khi một người đã bị Đức Chúa Trời bỏ mặc cho ô uế, dục vọng nhơ nhuốc, và một tâm trí không được chấp nhận, thì kết cuộc là gian dâm (1:24,26,27). Anh em có biết ý nghĩa thật của gian dâm là gì không? Gian dâm là vi phạm nguyên tắc chi phi và kiểm soát. Điều này dẫn đến tình trạng rối loạn trật tự. Gia tể của Đức Chúa Trời là một chồng một vợ. Đó không những là gia tể của Đức Chúa Trời, mà còn là nguyên tắc chi phối và kiểm soát của Ngài. Những người bị Đức Chúa Trời bỏ mặc sẽ làm hầu hết mọi điều để phá vỡ nguyên tắc này, vi phạm nguyên tắc quản trị về một chồng một vợ. Hậu quả là gian dâm, làm rối loạn trật tự. Tại sao người ta dính dấp vào điều này? Vì sự ô uế, niềm đam mê nhơ nhuốc và tâm trí không được chấp nhận. Khi con người lìa bỏ Đức Chúa Trời thì Ngài bỏ mặc họ cho gian dâm.
Mọi loại gian ác đều ra từ sự gian dâm này (1:29-32). Vào cuối La-mã chương 1, Phao-lô liệt kê những loại gian ác khác nhau và mô tả con người gian ác, chẳng hạn như những người nói lén, nói xấu và những người ghét Đức Chúa Trời. Qua đó chúng ta có thể thấy rằng nếu một người lìa bỏ Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bỏ mặc người ấy cho dục vọng, rối loạn và mọi điều ác có thể tưởng đến được.
II. ĐỊNH TỘI
NHỮNG NGƯỜI TỰ XƯNG CÔNG CHÍNH
Phân đoạn trong Sách La-mã nói về định tội những người tự xưng công chính (2:1-16), cùng với sự định tội trên cả nhân loại, cho thấy phương cách kiểm chế.
A. Phương Cách Kiểm Chế
Bây giờ, chúng ta đến cách kiểm chế, phương cách kiểm chế sự gian ác và xấu xa. Tôi thích phần này trong La-mã. Tất cả chúng ta, đặc biệt là người trẻ, cần hết sức chú ý đến cách kiểm chế này.
1. Nhận Biết Đức Chúa Trời Qua Cõi Thọ Tạo Của Ngài
Điều đầu tiên trong cách kiểm chế là nhận biết Đức Chúa Trời qua cõi thọ tạo (1:19-20). Qua cõi thọ tạo, chúng ta có thể hiểu được những điều vô hình của Đức Chúa Trời, quyền năng đời đời và bản chất thần thượng của Ngài. Các từng trời và trái đất bày tỏ những điều vô hình của Đức Chúa Trời. Cách đây gần 20 năm, các anh em ở Đài Loan đã thu thập tài liệu về tiểu sử của các khoa học gia nổi tiếng qua các thế kỷ. Họ khám phá thấy chỉ có một tỉ lệ nhỏ trong số các khoa học gia hàng đầu này nói rằng họ không tin Đức Chúa Trời. Những người tin Ngài rõ ràng chiếm đa số. Tôi từng đọc một bài báo trong đó người ta hỏi Einstein ông có tin Đức Chúa Trời không. Einstein đáp: “Câu hỏi của ông đã xúc phạm tôi. Làm thế nào một khoa học gia như tôi lại không tin Đức Chúa Trời?” Nếu anh em nghiên cứu khoa học, khoa học sẽ cho biết có một Đức Chúa Trời.
Dầu không biết khoa học, nhưng tôi biết chút ít về cơ thể người. Nhiều lần, trong khi giảng về Đức Chúa Trời, tôi yêu cầu người nghe nghĩ đến cơ thể của họ. Tôi bảo: “Xin hãy nghĩ xem các bạn kỳ diệu dường nào. Ai tạo nên các bạn?” Tất cả lông và tóc trên thân thể vật lý của chúng ta, cả trong lẫn ngoài, đều mọc xuôi xuống ngoại trừ lông trong cổ họng lại mọc ngược lên. Điều này thật ý nghĩa. Nếu lông trong cổ họng mọc xuôi xuống, chúng ta sẽ chết vì không thể khạc đàm ra được. Ai tạo nên chúng ta như vậy? Hơn nữa, hãy xem xét cách cấu tạo kỳ diệu của giương mặt con người. Cái miệng được đặt ở một vị trí thật thích hợp. Nếu miệng được đặt vào giữa hai con mắt thì vụng về và kinh khủng biết bao! Lại nữa, có bao giờ anh em nghĩ đến chức năng của hai hàng lông mày không? Chúng có chức năng cản nước, giữ cho mồ hôi không vào mắt. Ai đã tạo ra chúng ta như vậy? Gần đây tôi đã giải phẫu mắt phải hai lần. Bác sĩ giải phẫu cho tôi xem một con mắt giả, ông đặc biệt chỉ vào thủy tinh thể và võng mạc. Ngay lập tức, tôi thấy đó là mô hình chính xác của một cái máy ảnh tốt nhất. Không ai có thể chế ra một cái máy ảnh sánh được với mắt người. Ai đã làm những điều này? Răng của chúng ta cũng được thiết kế cách kỳ diệu. Các răng trước, tức răng cửa, hoạt động như hai con dao, cắt đứt bất cứ vật gì đặt vào giữa. Rồi lưỡi đưa thức ăn vào răng hàm giống như những cối xay, nghiền nát thức ăn thành một chất có thể tiêu hóa. Khi răng hàm đang xay, nước bọt tiết ra làm lỏng thức ăn. Thật là kỳ diệu. Ai đã làm điều này? Chúng ta phải nói: “Chúa ơi, con cảm tạ Ngài. Ngài là Đấng Tạo Hóa của con. Ngài đã tạo nên con cách kỳ điệu”.
Khi nhìn cõi thọ tạo nói chung và cơ thể con người nói riêng, làm sao chúng ta có thể nói không có Đức Chúa Trời? Thậm chí một bác sĩ y khoa vô thần cũng phải thừa nhận có một Đấng Toàn Năng tạo nên cơ thể con người. Vì vậy, qua những gì được tạo nên, chúng ta có thể hiểu quyền năng đời đời và bản chất thần thượng của Đức Chúa Trời. Khi nhìn thấy Đức Chúa Trời qua vẻ đẹp và kỳ quan của cõi thọ tạo, chúng ta phải thờ phượng và tôn vinh Ngài. Nhận biết Đức Chúa Trời qua cõi thọ tạo là khía cạnh đầu tiên trong cách kiểm chế sự gian ác.
2. Nắm Giữ Lẽ Thật Trong Sự Công Chính
Chúng ta phải nắm giữ thực tại về Đức Chúa Trời trong sự công chính, chấp nhận giữ lấy Đức Chúa Trời trong sự hiểu biết trọn vẹn của chúng ta (La. 1:18,28). Chúng ta cần tôn vinh, cảm tạ, thờ phượng và hầu việc Ngài (1:21,25). Thực hành bốn điều này là vô cùng quan trọng. Với tư cách là một người ông, tôi xin nói đôi lời với các cháu của tôi đang tham dự cuộc huấn luyện này. Ông biết rõ đời người là gì. Các cháu hãy tin ông khi ông nói rằng thờ phượng Đức Chúa Trời là không bao giờ sai. Các cháu là thiếu niên, điều đầu tiên cần học biết là thờ phượng Đức Chúa Trời. Trong đời người của các cháu, không gì quan trọng hơn thờ phượng Đức Chúa Trời. Ông ghét tình trạng con cháu kiếm hàng triệu mỹ kim mà không thờ phượng Đức Chúa Trời. Ông không muốn thấy thế hệ thứ hai hay thứ ba của ông trở nên giàu có mà không thờ phượng Đức Chúa Trời. Ông mun thấy con cháu đến đây học cách thờ phượng Chúa, ơn phước lớn lao nhất trong đời người là được huấn luyện để thờ phượng Đức Chúa Trời của chúng ta.
3. Vâng Theo Luật Tự Nhiên
Tiếp theo, chúng ta cần hành động theo bản chất của mình (2:14). Một s người thuộc linh đến nỗi lên án mọi điều tự nhiên. Dường như họ cảm thấy không có điều gì thuộc tự nhiên là tốt cả. Theo một ý nghĩa, hầu như tôi hoàn toàn đồng ý với điều này. Nhưng theo một ý nghĩa khác, tôi cảnh cáo anh em đừng quên bản chất của mình. Bản chất nguyên thủy của chúng ta mà Đức Chúa Trời đã tạo nên vốn là tốt. Mọi điều do Cha chúng ta tạo nên, kể cả bản chất của chúng ta, vốn là tốt. Dĩ nhiên, sự sa ngã đã đầu độc bản chất của chúng ta. Điều đó không có gì phải nghi ngờ. Tuy nhiên, là người, chúng ta có một bản chất tốt được Đức Chúa Trời tạo nên, và chúng ta cần hành động theo bản chất ấy. Nên chú ý đến bản chất này. Dầu anh em có thể lý luận rằng trộm cắp không có gì là sai, nhưng bản chất bên trong lại chng đối mỗi khi anh em bị cám dỗ trộm cắp. Ngay cả những kẻ cướp ngân hàng cũng thừa nhận rằng đang khi cướp ngân hàng, bản chất họ bảo rằng: “Đừng làm như vậy”. Tuy nhiên, họ không nghe theo. Mọi người làm ác đều như vậy. Bất cứ khi nào họ làm điều gì sai, bản chất của họ không đồng ý. Chúng ta cần để ý đến những đòi hỏi của bản chất bên trong mình.
Trong La-mã 2:14-15, Phao-lô nói rằng khi các dân tộc không có Kinh Luật mà thực hành những điều theo Kinh Luật thì họ chứng minh rằng chức năng của Kinh Luật được viết trong lòng họ. Luật của Đức Chúa Trời có một chức năng trong bản chất của chúng ta. Nói cách khác, bản chất của chúng ta tương ứng với Luật của Đức Chúa Trời vì bản chất của chúng ta được Đức Chúa Trời tạo nên. Luật của Đức Chúa Trời được ban ra theo bản chất của Đức Chúa Trời, vì người ban hành luật luôn luôn ban b luật theo bản thể của người ấy. Đức Chúa Trời tạo nên con người theo những gì Ngài là. Vì vậy, Luật do Đức Chúa Trời ban b và con người do Đức Chúa Trời tạo nên tương hợp với nhau. Do đó, chúng ta không cần Luật bề ngoài vì chúng ta có chức năng của Luật được viết trong bản chất của mình. Chúng ta chỉ cần sng theo bản chất của mình.
4. Lắng Nghe Lương Tâm
Cùng với bản chất tốt, chúng ta cũng có lương tâm (2:15). Lương tâm là một thực thể kỳ diệu, và chúng ta nên lắng nghe lương tâm. Mặc dầu y sĩ không thể xác định vị trí của lương tâm, nhưng không ai có thể phủ nhận chúng ta có lương tâm. Lương tâm của chúng ta chng đối liên tục. Khi anh em cãi cha mẹ, thì lương tâm nói: “Đừng làm như vậy”. Nếu xúc phạm cha mẹ thì lương tâm sẽ cáo trách anh em suốt ba đêm. Người chồng nào tìm cách ly dị vợ cũng bị lương tâm cáo trách. Mọi người đều có lương tâm. Đây là vấn đề quan trọng. Trong đời sông Cơ-đốc bình thường, tất cả chúng ta đều phải quan tâm đến lương tâm cách thích hợp.
5. Quan Tâm Đến Lý Lẽ Đúng Đắn
Ngoài bản chất và lương tâm, chúng ta còn có lý lẽ trong tâm trí (2:15). Đừng thuộc linh đến nỗi nói rằng tâm trí của chúng ta hoàn toàn vô dụng. Trong tâm trí, chúng ta có những lý lẽ tốt. Thỉnh thoảng, những lý lẽ này buộc tội và lên án, lúc khác, lại bào chữa và thanh minh. Khi bắt đầu làm một điều gì, chúng ta thường kinh nghiệm một cuộc xung đột trong lý lẽ của mình với một s lý lẽ cho rằng: “Phải rồi, điều đó đúng”, còn những lý lẽ khác lại cho rằng: “Không, như vậy là sai”. Tất cả chúng ta đều kinh nghiệm điều này. Chúng ta cần quan tâm đến bản cht, lương tâm và lý lẽ bên trong mình.
Chúng ta đã thấy năm điều trên là cách kiểm chế: nhận biết Đức Chúa Trời qua cõi thọ tạo, giữ lấy lẽ thật về Đức Chúa Trời trong sự công chính, sng theo bản chất, lắng nghe lương tâm, và quan tâm đến những lý lẽ đúng đắn. Nếu tuân theo tất cả những điều này, chúng ta sẽ được kiểm chế khỏi mọi điều ác. Mặc dầu tất cả chúng ta đều đã được cứu và đang sng trong một tình trạng nào đó được đề cập trong La-mã từ chương 5 đến chương 8, nhưng chúng ta vẫn cần biết nguồn gốc của sự gian ác và cách được kiểm chế khỏi làm điều ác. Ha-lê-lu-gia, chúng ta đã tìm được! Chúng ta cần biết Đức Chúa Trời qua cõi thọ tạo và nắm giữ lẽ thật trong sự công chính của Ngài. Chúng ta cần hành động theo bản chất, lắng nghe tiếng nói của lương tâm và quan tâm đến lý lẽ đúng đắn bên trong chúng ta. Nếu thực hành những điều này, chúng ta sẽ được bảo vệ.