LỜI
KẾT
I. ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG SÁCH LA-MÃ
Chúng ta đã thấy
Đức Chúa Trời được bày tỏ cách tiệm tiến trong Sách La-mã. Đức Chúa Trời được
bày tỏ qua mười hai tình huống trong Sách La-mã.
Trước hết, Sách
La-mã cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo của Ngài (1:19-20). Đức
Chúa Trời là Đấng không thấy được; nhưng những điều không thấy được của Ngài,
chẳng hạn như quyền năng đời đời và bản chất thần thượng của Ngài, đều được thấy
rõ và am tường nhờ những gì Ngài tạo dựng nên.
Thứ hai, Sách
La-mã cho chúng ta thấy về Đức Chúa Trời trong sự định tội chúng ta (La. 2).
Sau khi được tạo dựng, con người sa ngã và trở nên tội lỗi. Điều này dẫn đến sự
định tội của Đức Chúa Trời.
Sau đó, Sách
La-mã trình bày về Đức Chúa Trời trong sự cứu chuộc (La. 3). Sự định tội của Đức
Chúa Trời cho thấy con người cần sự cứu rỗi, nhưng để Đức Chúa Trời công chính
cứu con người tội lỗi thì cần phải có sự cứu chuộc.
Sau sự cứu chuộc,
Đức Chúa Trời được khải thị trong sự xưng công chính (La. 3 và 4). Đức Chúa Trời
thì công chính, và Ngài không thể không công chính. Sự chết cứu chuộc của Đấng Christ đã hoàn thành và làm thỏa mãn những đòi hỏi
công chính của Đức Chúa Trời cho tội nhân chúng ta. Do đó, sự cứu chuộc của Đấng
Christ
không
những tạo cho Đức Chúa Trời có nền tảng để xưng công chính những người tin sự cứu
chuộc của Đấng Christ,
mà
chính Đức Chúa Trời còn bị sự công chính của
Ngài buộc phải xưng công chính cho họ.
Sau đó chúng ta
thấy Đức Chúa Trời trong sự giải hòa (La. 5). Chúng ta không những là
tội nhân mà còn là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Sự
xưng công chính của Đức Chúa Trời dựa trên sự cứu chuộc của Đấng Christ và dẫn đến
sự giải hòa. Ở đây chúng ta vui mừng trong Đức Chúa Trời và vui hưởng tất cả những
gì Ngài là đối với chúng ta.
Hơn nữa, Đức
Chúa Trời được chúng ta nhận biết trong việc chúng ta đồng nhất với Đấng Christ (La. 6).
Không những Đức Chúa Trời giải hòa chúng ta với chính Ngài mà Ngài còn làm cho
chúng ta đồng nhất với Đấng Christ. Chúng ta
được sinh ra trong A-đam, nhưng Đức Chúa
Trời đã dời chúng ta từ A-đam vào trong Đấng Christ. Trong
La-mã chương 6, Đức Chúa Trời đã trở nên Đức Chúa Trời trong sự đồng nhất, hoàn
thành một công tác lớn lao để làm cho chúng ta trở nên một với chính Ngài. Đức
Chúa Trời đã làm cho chúng ta đồng nhất với chính Ngài trong Đấng Christ.
Sách La-mã cũng
cho thấy rằng chúng ta kinh nghiệm Đức Chúa Trời trong sự thánh hóa (La. chương
6 đến 8). Ngài làm cho chúng ta nên một với Đấng Christ để được
thánh hóa không những về mặt địa vị mà còn về bản tính. Do đó, đồng nhất dẫn đến
thánh hóa. Trong sự thánh hóa, Ngài là Đức Chúa Trời trong linh chúng ta. Chính
Đức Chúa Trời đã tạo dựng, cứu chuộc và xưng công chính chúng ta, bây giờ ở trong chúng ta! Ngài không còn
khách quan với chúng ta nữa mà rất chủ quan. Ngài không còn chỉ ở trên các từng
trời, xa cách chúng ta; bây giờ Ngài cũng ở ngay trong chúng ta, trong “linh chúng ta”
(8:16).
Sách La-mã cũng
cho thấy chúng ta vui hưởng Đức Chúa Trời trong sự vinh hóa (La. 8). Ngài biết
trước, định trước, kêu gọi và xưng công chính chúng ta. Bây giờ, Ngài đang
thánh hóa và sẽ vinh hóa chúng ta (8:29-30).
Hơn nữa, Đức Chúa
Trời được khải thị cho chúng ta sâu xa hơn trong tình yêu Ngài
là tình yêu bảo đảm cho phần định của chúng ta
(8:31-39). Trong sự xưng công chính, Ngài làm cho chúng ta thành những người dự
phần sự công chính của Ngài; trong sự thánh hóa, Ngài đang hành động
để đem sự thánh khiết của Ngài vào trong bản thể
chúng ta; và trong sự vinh hóa, Ngài sẽ đem chúng ta vào trong vinh hiển Ngài.
Tình yêu Ngài bảo đảm cho tất cả những điều này.
Chúng ta cũng thấy
Đức Chúa Trời trong sự tuyển chọn của Ngài (La. 9 đến 11). Không phải chúng ta
chọn Ngài, nhưng Ngài đã chọn chúng ta. Sự tuyển chọn của Ngài là phần định của
chúng ta. Trong sự tuyển chọn của Ngài, Ngài định trước
chúng ta được dự phần, có phần trong Ngài.
Cuối cùng, Đức
Chúa Trời được tôn vinh trong Thân Thể Đấng Christ (La. 12). Trong chương 12, Đức
Chúa Trời ở trong Thân Thể. Không những Ngài là Đức Chúa Trời trong linh của
tín đồ mà còn là Đức Chúa Trời trong một thực thể tập thể, tập hợp.
Cuối cùng Sách
La-mã cho thấy rằng Đức Chúa Trời được biểu lộ trong nếp sống Hội Thánh (La.
16). Thân Thể Đấng Christ
là
thuộc linh và hoàn vũ. Thân Thể này phải được biểu lộ cách thực tế như những Hội
Thánh tại các địa phương khác nhau. Đức Chúa Trời được biểu lộ trong Đấng Christ, Đấng Christ được biểu
lộ trong Thân Thể Ngài, và Thân Thể của Đấng Christ được biểu
lộ trong các Hội Thánh. Khi đến La-mã chương 16, chúng ta khám phá ra rằng Đức
Chúa Trời ở trong các Hội Thánh địa phương. Một mặt Đức Chúa Trời ở trong linh
chúng ta; mặt khác Ngài ở trong tất cả các
Hội Thánh địa phương.
II. SỰ HOÀN THÀNH CÔNG TÁC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Trong La-mã chương
1, chúng ta tìm thấy từ “sự sáng tạo”; trong La-mã chương 16, chúng ta tìm thấy
từ “các Hội Thánh”. Nói về cách Đức Chúa Trời sáng tạo thì khá dễ: Ngài phán lời
thì cõi thọ tạo hiện hữu. Tuy nhiên, nói về cách Ngài sản sinh các Hội Thánh
thì khó. Đức Chúa Trời phải thực hiện một công tác với nhiều giai đoạn khác
nhau như một phần của một tiến trình dài bao gồm cứu chuộc, xưng
công chính, giải hòa, tái sinh, thánh hóa, biến đổi, đồng hóa và vinh hóa. Kết
quả của tiến trình dài này là Đức Chúa Trời tạo nên các Hội Thánh.
Các Hội Thánh là đỉnh cao, là sự hoàn thành công tác và sự xây dựng của Đức
Chúa Trời. Ngài không thể đi cao hơn. Vì vậy,
Sách La-mã kết thúc với chương 16. Trong
La- mã chương 16, công tác của Đức Chúa Trời đã lên đến đỉnh cao nhất. Khi đọc
Sách La-mã, tôi thỏa lòng vì Ngài thỏa lòng. Chúng ta phải nói với Đức Chúa Trời:
“Chúa ơi, Ngài không thể tiến xa hơn. Ngài đã lên đến đỉnh điểm”. Với việc thiết
lập các Hội Thánh trong La-mã chương 16, Đức Chúa Trời đời đời đã đạt đến đỉnh
cao của công tác và Ngài thỏa lòng.
Hầu hết các giáo
sư Cơ-đốc đều nói: “Hãy nhìn tới trước. Hãy nhìn vào tương lai. Thế giới này
gian ác và thời đại này tối tăm. Không có gì tốt trên đất.
Hãy hướng về tương lai”. Nhưng đó không phải là thái độ của Phao-lô trong Sách
La-mã. Nếu viết Sách La-mã, hẳn chúng ta đã thêm vào một chương nữa, nói rằng:
“Anh em yêu dấu ơi, hãy nhìn vào tình trạng nghèo nàn. Chúng ta phải nhìn tới
tương lai khi tất cả chúng ta đều được cất lên. Rồi chúng ta sẽ ở trên trời”.
Nhưng trong Sách La-mã, Phao-lô không nói như vậy, và hẳn phải có lý do tại sao
ông không nói như vậy. Mặc dầu Cơ-đốc nhân thích mơ đến tương lai trên thiên
đàng nhưng Phao-lô biết Chúa muốn có các Hội Thánh trên đất. Chúng ta nhìn về
tương lai, nhưng trước hết Chúa muốn chúng ta có nếp sống
Hội Thánh ở hiện tại. Phao-lô hiểu rằng Chúa thỏa lòng khi có các Hội Thánh địa
phương trên đất.
Nếu nghiên cứu tất
cả các Sách trong Tân ước, anh em sẽ thấy ngoài Sách La-mã, không một Sách nào
khác kết thúc với một giai điệu như chúng ta tìm thấy trong ba câu cuối của
chương 16. Mặc dầu một số người gọi những câu này là bài tôn vinh hay lời chúc
phước nhưng tôi thích gọi những câu này là một giai điệu. Khi Phao-lô viết những
lời này, ông rất phấn khởi, vui mừng và thỏa
lòng. Ngay cả Sách Khải Thị cũng không kết thúc với một giai điệu như vậy.
Trong La-mã chương 16, chúng ta có các Hội Thánh địa phương, và khi đã có các Hội
Thánh địa phương thì sự kiện ấy đủ để chúng ta phấn khởi, vui mừng và thỏa lòng. Một
khi có các Hội Thánh địa phương, anh em còn cần gì nữa? Sau khi cho thấy về nếp
sống Hội Thánh địa phương, bao hàm nhiều mỹ
đức và thuộc tính của các thánh đồ yêu dấu, Phao-lô rất vui mừng và ông kết
thúc bức thư với một giai diệu ngợi khen.
Trong lời ngợi
khen kết luận này, Phao-lô nói: “Duy Đức Chúa Trời là Đấng có thể làm vững vàng
anh em theo Tin Lành (hay: Phúc Âm) của tôi và sự rao giảng Jesus Christ, theo sự
khải thị lẽ mầu nhiệm, vốn lặng lẽ trải các đời từ trước vô cùng” (16:25).
Chúng ta không cần gì hơn. Chúng ta chỉ cần biết Đức Chúa Trời đã ban cho chúng
ta mọi sự và rồi gìn giữ những gì chúng ta đã cố. Phao-lô nói Đức Chúa Trời quyền
năng làm vững vàng chúng ta theo Phúc Âm của Phao-lô, không theo Phúc Âm của
Mác hay
Luca. Giữa
Phúc Âm của Mác và Lu-ca với Phúc Âm của Phao-lô có gì khác nhau? Trong Sách
Mác và Lu-ca, chúng ta có sự cứu rỗi nhưng không thấy các Hội Thánh. Tuy nhiên,
Phúc Âm của Phao-lô bao hàm các Hội Thánh và trình bày bức
tranh về nếp sống Hội Thánh, đề cập đến những người như Phê-bê là người phục vụ
Hội Thánh, Bê-rít-sin và A-qui-la liều đưa cổ ra vì cớ các Hội Thánh. Đừng quên
rằng Phúc Âm của Phao-lô có 16 chương, không phải tám hay mười hai chương.
Một lần nữa tôi
xin nói rằng Phao-lô phấn khởi và thỏa
lòng vào cuối Sách La-mã. Đức Chúa Trời đã bắt đầu từ sự sáng tạo và đạt đến đỉnh
cao của Ngài trong các Hội Thánh địa phương. Vì vậy, Sách La-mã là tinh chất
hay bản tóm tắt của cả Kinh Thánh. Kinh Thánh bắt đầu từ Sáng Thế Ký với sự
sáng tạo của Đức Chúa Trời và kết thúc ở Sách
Khải Thị với Giê-ru-sa-lem Mới, là sự tổng kết của tất cả các Hội Thánh địa
phương và hoàn thành công cuộc xây dựng của Đức Chúa Trời. Sách La-mã hoàn
tất với các Hội Thánh địa phương, và toàn bộ Kinh Thánh hoàn? tất với
Giê-ru-sa-lem Mới là tổng kết của tất cả các Hội Thánh địa phương. Đó là cách
nhìn từ phía Đức Chúa Trời.
III.
CÁI NHÌN THỰC TẾ
Bây giờ, chúng
ta phải xem xét cái nhìn từ phía mình. Trong chương 1, chúng ta thấy mình là tội
nhân; văn hóa hay tôn giáo đều không thể cứu chúng ta. Dầu là loại người nào,
chúng ta đều ở dưới sự định tội của Đức Chúa Trời. Nan đề của chúng ta bắt đầu được
giải quyết trong chương 3 với sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Sau đó đến sự
xưng công chính, giải hòa, đồng nhất, thánh hóa, đồng hóa và vinh hóa. Sau đó đến
chương mười hai, là nơi chúng ta tìm thấy chính mình, được biến đổi, ở trong
Thân Thể. Chúng ta đã trở nên những Chi Thể của Thân. Nhiều Cơ-đốc nhân thỏa lòng
với kinh nghiệm của La-mã chương 8. Hễ họ thánh khiết và thuộc linh thì họ thỏa
lòng. Tuy nhiên, những người khác thì tiến xa hơn và nói về Thân Thể được khải
thị trong La-mã chương 12. Dầu vậy, nếu hỏi họ, anh em sẽ thấy nhiều người
trong số họ thất vọng và nói: “Chúng tôi biết có vấn đề Thân Thể, nhưng chúng
tôi không có cách nào thực hành cả. Thân Thể ở đâu? Làm thế nào chúng ta có
Thân Thể và thực hành Thân Thể?” Một số Cơ-đốc nhân dùng từ “sinh hoạt Thân Thể”
và “chức vụ Thân Thể”, nhưng khi dùng chức vụ Thân Thể, họ có ý nói một vài người
cung ứng thay vì một mục sư. Đó là quan niệm của họ về chức vụ Thân Thể. Vì vậy,
tôi phải hỏi anh em, Thân Thể ở đâu? Nhiều Cơ-đốc
nhân khao khát Chúa không thể tim được Thân Thể và không cách nào thực tại hóa
Thân Thể.
Hầu hết những
người nói về Thân Thể trong La-mã chương 12 đã bỏ qua phần thưc hành trong câu
14. Nhưng không thể có thực tại của chương 12 nếu không thực hành chương 14
cách đúng đắn. Không có La-mã chương 14, chúng ta không thể có Thân Thể; vì
không thực hành việc tiếp nhận thánh đồ được bày tỏ trong chương này nên Cơ-đốc
nhân vẫn chia rẽ về những quan niệm giáo lý. Giáo lý chia rẽ, sự
sống hiệp một. Lịch sử Cơ-đốc đã hoàn toàn
chứng minh rằng không có giáo lý nào là xây dựng; mọi giáo lý đều chia rẽ. Dầu
giáo lý có phù hợp Kinh Thánh hay không, đúng hay sai, vẫn chia rẽ. Cơ-đốc
Giáo đã bị chia cắt thành hàng ngàn mảnh vì tất cả các giáo lý khác nhau. Không
có trường hợp ngoại lệ, giáo lý nào cũng sinh ra một bè phái hay một nhóm chia
rẽ. Không cần nói các giáo lý tà giáo là gây chia rẽ; ngay cả những giáo lý
đúng đắn, lành mạnh, chính thống, phù hợp với Kinh Thánh, thuộc linh, cũng gây
chia rẽ. Vì vậy, chúng ta không nên tập trung chú ý vào giáo lý. Thay vào đó
chúng ta nên cầu nguyện: “Chúa ơi, xin giải cứu chúng con khỏi mọi quan niệm
giáo lý. Chúa ơi xin đem chúng con vào trong chính Ngài. Ngài là quan niệm duy
nhất của chúng con. Quan niệm của chúng con là Đấng Christ”. Đấng Christ là một;
giáo lý thì nhiều. Đấng Christ
phải
là quan niệm duy nhất của chúng ta.
Đó là điều
Phao-lô muốn nói khi ông nói “đồng tâm chí với nhau
y theo Christ
Jesus” (15:5).
Tín đồ Do-thái thời xưa giữ nhiều giáo lý. Nhiều tín đồ Dân Ngoại cũng giữ một số quan niệm triết lý. Qua lịch sử Hội
Thánh, chúng ta học biết rằng trong thời sứ đồ Phao-lô, bối cảnh tôn giáo của
người Do-thái và bối cảnh văn hóa của Dân Ngoại đã tạo nan đề trong nếp sống
Hội Thánh. Mặc dầu người Do- thái và Dân Ngoại là những tín đồ thật trong Chúa Jesus nhưng họ
đem những quan niệm từ xuất xứ của mình
vào trong nếp sống Hội Thánh,
người Do-thái đem những niềm tin tôn giáo, còn Dân Ngoại
đem những quan niệm triết lý. Một số người gọi là tín đồ Dân Ngoại cho rằng triết
lý của họ tương ứng với nhiều sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Hậu quả là các thánh đồ
thấy khó hiệp một. Do đó, Phao-lô bảo họ hãy buông bỏ những quan niệm giáo lý
vì sự hiệp một. Phao-lô bảo tín đồ Do-thái cũng như tín đồ Dân Ngoại hãy đến với
Đấng Christ
và
nhận Đấng Christ
làm
quan niệm và sự sống của mình. Do đó, Phao-lô cho tín dồ
biết rằng Đấng Christ
dành
cho cả người chịu cắt bì lẫn Dân Ngoại. Đấng Christ là gốc
Gie-sê, nguồn cung ứng cho mọi người Do-thái, và Ngài
là Đấng chỗi dậy cai trị mọi dân. Sự cai trị của Đấng Christ trên các
dân là ngọt ngào, ân điển và đầy sự chữa lành. Đấng Christ bao hàm
cả người Do-thái lẫn Dân Ngoại để họ cùng nhau
làm một Thân Thể. Do đó, chúng ta phải quên xuất xứ Do-thái hay Dân Ngoại của
mình, xuất xứ tôn giáo hay triết lý của mình, và giữ Đấng Christ là quan
niệm duy nhất của mình. Chúng ta phải không có gì ngoài Đấng
Christ.
Nếu
một người nào đó hỏi anh em về triết lý, anh em nên trả lời: “Tôi không biết
triết lý nào cả. Tôi chỉ biết Đấng Christ mà thôi”. Nếu ai đó hỏi anh em một
câu hỏi về tôn giáo, anh em nên trả lời: “Tôi không có tôn giáo. Đấng Christ là sự sống
và mọi sự của tôi. Tôi chỉ có Đấng Christ”. Đấng Christ là gốc
Gie-sê, và Đấng Christ
là
Đấng sẽ cai trị các nước.
Trong Sách
La-mã, chúng ta thấy Sứ đồ Phao-lô tuyệt đối vì cốc Hội Thánh địa phương. Trong
16:1, ông nói tốt về Phê-bê, nữ chấp sự của Hội Thánh tại Xen-cơ-rê. Lời giới
thiệu tốt đầu tiên của Phao-lô là nói về một chị em phục vụ tại một Hội Thánh địa
phương cụ thể nào đó. Đừng giới thiệu tốt bất cứ tín đồ nào không có Hội Thánh
địa phương. Đừng nói: “Tôi xin tiến cử chị A thuộc về Thân Thể Đấng Christ, chị đi
khắp thế giới”. Tôi chắc chắn chị ấy thuộc về Thân Thể của Đấng Christ, nhưng Hội
Thánh của chị ấy ở đâu? Một khi biết Hội Thánh của chị thì tôi mới muốn biết chị
là một chị em thế nào trong Hội Thánh ấy. Có phải chị chỉ nhóm sáng Chúa Nhật để nhận sự dạy dỗ? Chị có phục vụ Hội
Thánh không? Chị phục vụ Hội Thánh như thế nào? Hội Thánh là thực
tế. Hội Thánh không nên chỉ là một từ hay một lý thuyết. Cho nên chúng ta phải
thực tế trong nếp sống Hội Thánh, tham dự một chức năng rõ ràng nào đó trong Hội
Thánh địa phương như chị Phê-bê trong Hội Thánh địa phương tại Xen-cơ-rê. Chúng
ta là tội nhân ở dưới sự định
tội của Chúa trong chương một. Trải qua tiến trình trong các chương 3 đến 15,
thì trong chương 16, chúng ta là những thánh đồ tạo nên các Hội Thánh địa phượng.
Ngợi khen Đức Chúa Trời về công tác cứu
chuộc, thánh hóa, biến đổi và xây dựng của Ngài! Đó là kiệt tác của Ngài.
IV.
CÁC TRẠM TRONG SÁCH LA-MÃ
Trong Sách
La-mã, chúng ta thấy một số trạm. Nhiều Cơ-đốc nhân đã dừng lại tại trạm xưng
công chính trong La-mã chương 4. Một số
đi xa hơn đến trạm thánh hóa trong La-mã chương 8. Những
Cơ-đốc nhân khao khát đi đến tận chương 12 và nói
về Thân Thể, mặc dầu họ thiếu kinh nghiệm thật về Thân Thể. Do đó, La-mã chương 12 trở
thành một trạm, chúng ta có thể mô tả là trạm của những người nói về Thân Thể.
Nếu hài lòng ở lại tại La-mã chương 12, anh em sẽ
không có Thân Thể cách thực sự và thực tế, vì Thân Thể được nhận biết cách đầy
đủ tại các Hội Thánh địa phương. Nếu không ở trong một Hội Thánh địa phương,
anh em không thể đụng chạm được Thân Thể. Từ “Thân Thể” vẫn
chỉ là một từ rỗng tuếch đối với anh em. Nếu muốn ở trong Thân Thể, anh em phải
ở trong một Hội Thánh địa phương. Như vậy, trạm của chúng ta là chương 16, trạm
cuối cùng trong Sách La-mã. Anh em ở đâu? Chúng ta đã trải qua trạm xưng công
chính, thánh hóa, và giai đoạn nói về Thân Thể. Ngợi khen Chúa vì chúng ta đang
ở trong trạm cuối, trong các Hội Thánh địa phương, nơi chúng ta nhận biết nếp sống
Thân Thể thật. Khi an nghỉ ở
trạm
này, anh em có thể kết nối với Phao-lô trong giai điệu ngợi khen kết thúc của
ông.
Tuy nhiên, trong
La-mã chương 16, là chương cho thấy sự hoàn thành sau cùng của công tác Đức
Chúa Trời, Phao-lô nói về một điều gì đó tiêu cực vì kẻ
thù của Đức Chúa Trời là Sa-tan, vẫn đang làm việc tại đó. “Anh em ơi, tôi nài
khuyên anh em hãy để ý và lánh xa những
kẻ gây bè đảng và làm cớ vấp phạm, trái với giáo lý mà anh em đã học. Vì những
kẻ thể ấy chẳng hầu việc Chúa chúng ta là Đấng Christ, song hầu
việc cái bụng của họ, hay lấy giọng êm lời xảo mà lừa dối lòng kế thật thà”
(cc. 17-18). Đang khi vui hưởng nếp sống Hội
Thánh địa phương, chúng ta phải coi chừng những
người gây chia rẽ. Trong câu 17, Phao-lô nói đến
“sự dạy dỗ”. Sự dạy dỗ đó là gì? Là sự dạy dỗ của vị sứ đồ chẳng
hạn như trong Sách La-mã. Bất cứ sự tranh luận hay bất đồng nào trái với sự dạy
dỗ của vị sứ đồ đều gây chia rẽ, chúng ta phải để mắt coi chừng, biện biệt điều
đó. Theo câu 17, chúng ta phải lánh xa những
người gây chia rẽ và gây vấp phạm trái với sự dạy dỗ này.
Ngay cả trong thời Phao-lô cũng có nan đề chia rẽ do những người chống đối gây
nên. Vì vậy, chúng ta cũng phải coi chừng. Nếu không, nếp sống Hội Thánh có thể
bị tổn hại bởi “giọng êm lời xảo” của những người bất đồng, là những kẻ lừa dối
người đơn sơ. Hầu hết những người sống nếp sống Hội Thánh đều đơn sơ. Chúng ta
phải đơn sơ để ở trong nếp sống Hội Thánh.
Tuy nhiên, một số người có thể
đến với anh em bằng lời ngọt ngào, dua nịnh,
hùng hồn, tìm cách chia rẽ Hội Thánh và gây cho anh em vấp ngã. Đừng nghĩ mình
không thể bị lừa dối. Hãy cảnh giác.
Làm thế nào có
thể biện biệt lời nói của những người đến với chúng ta bằng lời dua nịnh? Chỉ
có một cách. Chúng ta phải hỏi: Điều này có gây chia rẽ không? Đừng chấp nhận bất
cứ cuộc nói chuyện nào gây chia rẽ, dầu những lời ấy êm dịu và tâng bốc đến đầu.
Chúng ta phải khước từ bất kỳ cuộc nói chuyện nào trái với sự dạy dỗ của Sách
La-mã. Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ nó. Hơn nữa,
chúng ta phải lánh xa những người nói năng như vậy. Nếu Phao-lô đã đối diện với
nan đề ấy trong thời ông, chắc chắn điều ấy cũng sẽ xảy đến trong thời chúng ta
vì sự quỉ quyệt của kẻ thù. Do đó, đang khi vui mừng, phấn khởi và ngợi khen
Chúa về nếp sống Hội Thánh, chúng ta phải để mắt coi chừng những người gây chia
rẽ. Chúng ta không nên để lời êm
dịu của loài người lừa dối mà nên tự hỏi: Lời này có trái với sự dạy dỗ của vị
sứ đồ không và có gây chia rẽ không? Chúng ta phải để ý đến lời cảnh cáo của
Phao-lô trong chương cuối của Sách
La-mã.