PHÚC
ÂM CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Phúc Âm của
Đức Chúa Trời là chủ đề của Sách La-mã (1:1). Cơ-đốc nhân quen nói có bốn
Sách Phúc Âm là Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Tuy nhiên, Phao-lô cũng xem Thư
Tín ông gửi cho người La-mã là Phúc Âm. Phúc Âm trong bốn Sách đầu của Tân Ước
nói về Đấng Christ
trong xác thịt
khi sống giữa các môn đồ trước khi Ngài chết và phục sinh. Sau khi nhục hóa,
trước khi chết và phục sinh, Ngài ở giữa môn đồ, nhưng chưa ở trong họ. Phúc Âm
trong Sách La-mã nói về Đấng Christ
là Linh,
không phải Đấng Christ
trong xác thịt.
Trong La-mã chương 8, chúng ta thấy Linh Sự Sống, Đấng cư ngụ trong chúng ta,
đơn giản là chính Đấng Christ.
Đấng Christ ở trong chúng ta. Đấng Christ trong bốn Sách Phúc Âm ở
giữa các môn đồ; còn Đấng Christ
trong Sách
La-mã ở trong chúng ta. Đấng Christ
trong bốn Sách Phúc Âm là Đấng Christ sau khi nhục hóa, trước
khi chết và phục sinh. Như vậy Ngài là Đấng Christ ở
bên ngoài chúng ta. Đấng Christ
trong Sách
La-mã là Đấng Christ
sau khi phục
sinh. Như vậy Ngài là Đấng Christ
ở
trong chúng ta. Đó là một điều gì sâu xa hơn và có tính chủ quan hơn Đấng Christ trong các Sách Phúc Âm.
Xin ghi nhớ điều này: Phúc Âm trong Sách La-mã nói về Đấng Christ là Linh ở trong chúng ta sau
khi Ngài phục sinh.
Nếu chỉ có
Phúc Âm về Đấng Christ
như trong bốn
Sách đầu của Tân Ước, thì Phúc Âm của chúng ta quá khách quan. Chúng ta cần
Phúc Âm Thứ Năm, là Sách La-mã, để bày tỏ Phúc Âm chủ quan của Đấng Christ. Đấng Christ của chúng ta không chỉ là
Đấng Christ trong xác thịt sau khi nhục
hóa và trước khi phục sinh, tức là Đấng Christ
ở giữa các
môn đồ Ngài. Đấng Christ
của chúng ta
cao hơn và chủ quan hơn, Ngài là Linh Sự Sống ở trong chúng ta. Ngài là một Đấng
chủ quan như vậy. Mặc dầu Giăng chương 14 và 15 bày tỏ rằng Đấng Christ sẽ ở trong những người
tin Ngài, nhưng khi Ngài sống lại, điều đó mới được ứng nghiệm. Sách La-mã là
Phúc Âm của Đấng Christ
sau khi phục
sinh, cũng cho thấy rằng bây giờ Ngài là Đấng Cứu Rỗi chủ quan trong người tin
Ngài. Như vậy, Phúc Âm này sâu xa hơn và có tính chủ quan hơn.
I. ĐƯỢC HỨA TRONG KINH
THÁNH
Đức Chúa Trời
hứa ban Phúc Âm này qua các tiên tri trong Kinh Thánh. Điều này có nghĩa là
Phúc Âm của Đức Chúa Trời không phải là một
điều tình cờ; Phúc Âm đã được
Đức Chúa Trời hoạch
định
và chuẩn bị. Kinh Thánh cho thấy Phúc Âm này đã được Đức Chúa Trời hoạch định
trong quá khứ đời đời. Trước buổi sáng thế, Đức Chúa Trời đã hoạch định có Phúc
Âm này. Do đó, trong Kinh Thánh, từ Sáng Thế Ký đến Ma-la-chi, nhiều lần Đức
Chúa Trời phán hứa qua các tiên tri về Phúc Âm của Đức Chúa Trời.
II. VỀ ĐẤNG CHRIST
Phúc Âm này
của Đức Chúa Trời nói về một Thân Vị là Đấng Christ. Dĩ
nhiên sự tha thứ, sự cứu rỗi, v.v... đều được bao hàm trong Phúc Âm này, nhưng
đó không phải là điểm chính. Phúc Âm của Đức Chúa Trời nói về Thân Vị của Con Đức
Chúa Trời, là Jesus
Christ, Chúa
chúng ta. Thân Vị kỳ diệu này có hai bản chất-bản chất thần thượng và bản chất
con người, thần tính và nhân tính.
A. Ra Từ Dòng Dõi Đa-vít
Phao-lô đề cập đến nhân tính của Đấng
Christ trước, chứ không phải thần
tính của Ngài; ông nói
rằng theo xác thịt, Ngài sinh ra bởi dòng dõi Đa-vít (1:3). Đó là bản chất con người,
là nhân tính của Ngài.
B. Do Sự Phục Sinh
Được Chứng Minh Là Con Đức
Chúa Trời
Kế đến,
Phao-lô nói rằng: “Còn theo thần linh (RcV: theo Linh) của sự thánh khiết, thì
nhơn sự từ kẻ chết sống lại đã được chứng minh cách có quyền là Con Đức Chúa Trời”
(1:4). Đó là lời đề cập rõ ràng về thần tính của Đấng Christ. Tại sao nhân tính của
Ngài được đề cập trước
và thần tính của Ngài được đề cập sau?
Phao-lô đề cập
đến nhân tính của Đấng Christ
trước vì ông giữ thứ tự tiến
trình của Đấng Christ.
Trước hết Đấng
Christ đã trải qua tiến trình nhục
hóa để trở nên xác thịt. Rồi Ngài trải qua tiến trình chết và phục sinh. Bằng
bước thứ hai của tiến trình này, Ngài trở nên Con Đức Chúa Trời bởi phục sinh. Đấng Christ đã trải qua tiến trình gồm
hai bước: bước thứ nhất là nhục hóa; bước thứ hai là chết và phục sinh. Bởi hai
bước này, Đấng Christ trở nên hai điều khác
nhau. Ngài trở nên xác thịt qua sự nhục hóa, và trở nên Con Đức Chúa Trời qua sự
chết và phục sinh Bước thứ nhất của Ngài đem Đức Chúa Trời vào trong nhân tính.
Bước
thứ hai của Ngài đem con người vào trong thần tính. Trước khi nhục hóa, với tư
cách là một Thân Vị thần thượng, Đấng Christ
đã là Con Đức
Chúa Trời rồi (Gi. 1:18). Ngài là Con Đức Chúa Trời trước khi nhục hóa, thậm
chí La-mã 8:3 chép: “Đức Chúa Trời... sai chính Con Ngài”. Vì Đấng Christ đã là Con Đức Chúa Trời
trước khi nhục hóa, [vậy thì] tại sao Ngài cần được chứng minh là Con Đức Chúa
Trời bởi sự phục sinh? Vì bởi nhục hóa, Ngài mặc lấy một yếu tố là xác thịt, tức
bản chất con người, là điều không liên
quan gì đến thần tính. Là một Thân Vị thần thượng, Đấng Christ là Con Đức Chúa Trời trước khi nhục
hóa, nhưng phần Jesus
với xác thịt,
tức bản chất con người, là phần do Ma-ri sinh ra, thì không phải là Con Đức
Chúa Trời. Phần ấy của Ngài là loài người. Bởi phục sinh, Đấng Christ đã thánh hóa và nâng cấp
phần thuộc bản chất con người của Ngài, tức nhân tính của Ngài, và bởi phục
sinh, Ngài được chứng minh là Con Đức Chúa Trời với bản chất con người của
Ngài. Do đó, trong ý nghĩa này, Kinh Thánh nói rằng Ngài được sinh ra
là Con Đức Chúa Trời trong sự phục sinh (Công. 13:33; Hê. 1:5).
Chúng ta hãy
xem xét ví dụ về hạt cẩm chướng. Khi hạt giống này được gieo xuống đất, mọc
lên và nở hoa, đó là một tiến trình mà chúng ta có thể gọi là sự chứng minh.
Khi nhìn hạt cẩm chướng nhỏ bé trước khi được gieo xuống đất, có lẽ chúng ta
không thể xác định đó là hạt gì. Tuy nhiên, một khi đã được gieo xuống, mọc
lên, và nở hoa, thì hạt giống đó được chứng minh. Hoa là sự chứng minh của hạt
giống
đó. Vì vậy, mọi người có thể nói: “Đây là hoa cẩm chướng”. Cả hạt giống và hoa đều là cẩm chướng,
nhưng hình thức của hoa rất khác với hạt giống. Nếu hạt giống vẫn là hạt giống
mà không nở hoa, hầu hết mọi người đều khó nhận biết đó là [hạt] cẩm chướng.
Nhưng sau khi lớn lên và nở hoa, nó được chứng minh là hoa cẩm chướng để mọi
người thấy.
Khi Đấng Christ ở trong xác thịt suốt ba
mươi ba năm rưỡi trên đất, Ngài giống như hạt cẩm chướng. Mặc dầu Con Đức Chúa
Trời ở trong Ngài, nhưng người ta không dễ gì nhận biết. Bằng cách được gieo
vào trong sự chết và mọc lên trong sự phục sinh, Ngài nở hoa. Bởi tiến trình
này, Ngài được chứng minh là Con Đức Chúa Trời, và bởi tiến trình này, Ngài
nâng cấp xác thịt, tức bản chất con người của Ngài. Ngài không cởi bỏ xác thịt,
Ngài không cởi bỏ nhân tính. Ngài thánh hóa, nâng cấp, biến đổi nhân tính đó,
và với nhân tính được biến đổi này, Ngài được chứng minh là Con Đức Chúa Trời bằng
quyền năng thần thượng. Trước khi nhục hóa, Ngài là Con Đức Chúa Trời không có
bản chất con người. Sau khi phục sinh, Ngài là Con Đức Chúa Trời với nhân tính
được nâng cấp, thánh hóa, và biến đổi bởi sự phục sinh. Bây giờ, Ngài vừa thuộc
về nhân tính vừa thuộc về thần tính. Ngài vừa là dòng dõi Đa-vít vừa là Con Đức
Chúa Trời. Ngài là một Thân Vị kỳ diệu!
Đấng Christ đã trở nên xác thịt để
hoàn thành công tác cứu chuộc. Sự cứu chuộc đòi hỏi phải có huyết. Chắc chắn thần
tính thì không có huyết, chỉ nhân tánh mới có huyết. Tuy nhiên, sự cứu chuộc
đòi hỏi phải có huyết,
vì không để huyết thì không có sự tha tội (Hê. 9:22). Do đó, Đấng Christ trở nên xác thịt vì công
tác cứu chuộc. Tuy nhiên, sự cứu chuộc không phải là mục tiêu của Đức Chúa Trời.
Sự cứu chuộc mở đường cho Đức Chúa Trời ban phát sự sống. Trong Phúc Âm Giăng,
trước hết Đấng Christ
được giới
thiệu là Chiên Con của Đức Chúa Trời, tức Đấng cất tội của thế gian đi (Gi.
1:29). Đó là để cứu chuộc. Sau dó, Giăng trình bày Ngài là Chim Bồ Câu, tức Đấng
ban sự sống (Gi. 1:32-33). Trước hết, Đấng Christ hoàn
thành sự cứu chuộc cho chúng ta; sau đó Ngài trở nên sự sống của chúng ta. Đấng Christ trở nên xác thịt để hoàn thành
công tác cứu chuộc cho chúng ta, và Ngài được chứng minh là Con Đức Chúa Trời bởi
sự phục sinh để có thể truyền chính Ngài là sự sống cho chúng ta. Bước đầu trong
tiến trình của Ngài là để cứu chuộc, và bước thứ hai là để truyền sự sống. Bây
giờ, chúng ta có Đấng Christ
Phục Sinh ở
bên trong là sự sống
của chúng ta. Đấng Christ
Phục Sinh là
Con Đức Chúa Trời chính là sự sống
cho chúng ta. Ai có Con Đức Chúa Trời thì có sự sống (lGi. 5:12).
Phần đầu của
Sách La-mã đề cập đến sự cứu chuộc mà Đấng Christ đã
hoàn thành trong xác thịt. La-mã 8:3 nói rằng Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài lấy
hình trạng của xác thịt của tội, và định tội trong xác thịt. Phần thứ hai của
Sách La-mã đề cập đến việc truyền sự sống. Sách La-mã trước hết bày tỏ Đấng Christ là Đấng Cứu Chuộc trong
xác thịt, và sau đó bày tỏ Ngài là Linh Ban Sự Sống. Trong La-mã 8:2, chúng ta
thấy từ “Linh Sự Sống”. Đó là Linh Nội Cư. Linh Nội Cư là Linh của Đấng Christ, và Linh của Đấng Christ thật ra là chính Đấng Christ ở trong chúng ta
(8:9-10).
Vì sao Sách
La-mã mở đầu như vậy? Mỗi Sách trong Kinh Thánh đều mở đầu một cách đặc biệt,
không Sách nào giống Sách nào. Phao-lô mở dầu Sách La-mã như vậy vì Sách La-mã
có một mục tiêu, như chúng ta thấy trong La-mã 8:29-30. Mục tiêu này là sản sinh
nhiều con của Đức Chúa Trời. Mục tiêu sản sinh nhiều con của Đức Chúa Trời cần
có sự cứu chuộc, sự truyền sự sống, và nếp sống bởi sự sống này. Là con người
sa ngã và là tội nhân, chúng ta cần sự cứu chuộc, cần sự sống thần thượng, và cần sống bởi sự sống thần thượng
để được tái sinh, biến đổi và hoàn toàn vinh hóa làm con cái của Đức Chúa Trời.
Cuối cùng, tất cả chúng ta sẽ là con của Đức Chúa Trời cách trọn vẹn.
Đức Chúa Trời
chỉ có một Con, là Con Độc Sinh của Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không thỏa lòng
khi chỉ có một con. Ngài muốn có nhiều con để đem họ vào vinh hiển. Vì vậy, Đức
Chúa Trời dùng Con Độc Sinh của Ngài như một khuôn mẫu, một gương mẫu, để sinh
ra nhiều con. Anh em có biết rằng Đấng Christ
đã trải qua
một tiến trình để được chứng minh là Con Đức Chúa Trời và chúng ta cũng đang trải
qua cùng một tiến trình như vậy để được chứng minh là con cái của Đức Chúa Trời
không? Ban đầu Đấng Christ
là Con Một của
Đức Chúa Trời. Vào một thời điểm, Con của Đức Chúa Trời này đã vào trong xác thịt
với tên gọi là Jesus.
Con của Đức
Chúa Trời trong xác thịt được đặt tên là Jesus.
Sau ba mươi
ba năm rưỡi, Jesus
được chứng
minh là Con của Đức Chúa Trời bởi sự phục sinh. Lúc ấy, Đức Chúa Trời có một
Con với cả thần tính lẫn nhân tính. Trước sự nhục hóa, Con Đức Chúa Trời chỉ có
thần tính; sau khi Ngài phục sinh, Con Đức Chúa Trời có cả thần tính lẫn nhân
tính. Ha-lê-lu-gia! Bây giờ, nhân tính có một phần trong Con của Đức Chúa Trời.
Con của Đức Chúa Trời ngày nay có cả nhân tính lẫn thần tính.
Còn chúng ta
thì sao? Chúng ta được sinh ra là con cái loài người, nhưng được tái sinh làm
con cái của Đức Chúa Trời. Dầu là nam hay nữ, chúng ta đều là con trai của Đức
Chúa Trời. Theo một ý nghĩa, Đức Chúa
Trời không có con gái. Mặc dầu Chúa Jesus
có nhiều em,
nhưng Ngài không có em gái. Theo ý nghĩa này, mỗi chị em là một anh em. Tất cả
chúng ta đều là anh em, và đều là con trai của Đức Chúa Trời. Chúng ta là con
trai của Đức Chúa Trời vì Linh của Con Đức Chúa Trời đã vào trong chúng ta (Ga.
4:6). Giống
như Con của Đức Chúa Trời đã vào trong xác thịt bởi sự nhục hóa thì bây giờ,
Linh của Con Đức Chúa Trời cũng đã vào trong rất nhiều người giữa chúng ta là
những người xác thịt. Vì vậy, theo một ý nghĩa, mỗi người trong chúng ta đều giống như Jesus. Jesus là một người trong xác thịt
với Con của Đức Chúa Trời ở bên trong. Chúng ta cũng là những con người xác thịt
với Con của Đức Chúa Trời ở bên trong. Anh em không phải là một người xác thịt
với Con Đức Chúa Trời ở bên trong sao? Chắc chắn là phải. Nhưng chúng ta không
nên cứ mãi là chính mình, phải không? Chúng ta đang chờ đợi để được chứng minh.
Ô, con người xác thịt này sẽ được chứng minh bởi sự thánh hóa, biến đổi và vinh
hóa. Ha-lê-lu-gia. Con người xác thịt này với Con Đức Chúa Trời ở bên trong đang ở trong tiến trình
thánh hóa, biến đổi và vinh hóa. Sẽ đến thời điểm chúng ta đều công bố: “Bởi sự sống lại, chúng ta được chứng
minh là con cái của Đức Chúa Trời!” Nếu nói với những người ngoài đường rằng
mình là con Đức Chúa Trời, họ sẽ nghĩ anh em điên. Hãy nhớ lại xem người ta đã
đối xử với Jesus
thế nào khi
Ngài công bố
Ngài là Con Đức Chúa Trời: họ giết Ngài. Nhưng bởi chết và phục sinh, Ngài được
chứng minh là Con Đức Chúa Trời. Sau khi phục sinh, Jesus không cần tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời,
vì Ngài đã được chứng minh. Ngày nay, nếu chúng ta nói với mọi người rằng mình
là con của Đức Chúa Trời, họ sẽ nghĩ chúng ta bị rối loạn thần kinh. Tuy nhiên,
sẽ đến một ngày-mà Sách La-mã đề cập là ngày bày tỏ hay hiển lộ vinh hiển của
con cái Đức Chúa Trời-chúng ta sẽ được chứng minh là con cái của Đức Chúa Trời
trong vinh hiển. Chúng ta sẽ không cần tuyên bố gì cả. Tự phát chúng ta sẽ được
chứng minh là con cái của Đức Chúa Trời.
La-mã 1:3-4
bày tỏ rằng Jesus
là Nguyên Mẫu.
Trong La-mã 8:29-30, chúng ta thấy có nhiều con là sự sản sinh hàng loạt. Trong
bài này, chúng ta sẽ xem xét nguyên mẫu ấy. Trong nguyên mẫu ấy có Linh của sự
thánh khiết, xác thịt và sự chứng minh là Con của Đức Chúa Trời. Ngợi khen
Chúa! Chúng ta cũng có Linh của sự thánh khiết ở bên trong, xác thịt con người ở
bên ngoài, và chúng ta sẽ được chứng minh cách trọn vẹn là con cái của Đức Chúa
Trời.
III. ĐƯỢC RAO GIẢNG
BỞI
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC SAI ĐI
Bây giờ,
chúng ta cần tiến xa hơn và xem Phúc Âm của Đức Chúa Trời được rao giảng như thế
nào. Phúc Âm này được rao giảng bởi những người được sai đi. Những người được
sai đi là các sứ đồ (1:5), biệt riêng ra cho mục đích này. Không phải tất cả
tín đồ đều là sứ đồ, nhưng theo một ý nghĩa, tất cả tín đồ đều được Chúa sai đi
để rao giảng Phúc Âm.
A. Trong Linh
Phúc Âm này
được rao giảng trong linh (1:9). Xin lưu ý từ linh ở đây viết thường, qua đó
cho thấy linh này không chỉ về Thánh Linh. Tất cả Cơ-đốc nhân tin rằng chúng ta
phải ở trong Thánh Linh để rao giảng Phúc Âm. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ nghe
ai bảo chúng ta phải ở trong linh của mình. Nhưng Phao-lô nói chúng ta cần ở
trong linh mình. Việc rao giảng Phúc Âm tùy thuộc vào linh của chúng ta. Phao-lô nói ông hầu việc Đức
Chúa Trời trong linh trong Phúc Âm của Con Ngài. Khi rao giảng Phúc Âm, chúng
ta không nên sử dụng mánh lới quảng cáo mà nên sử dụng linh mình.
Tại sao chỉ
trong Sách La-mã, Phao-lô mới nói ông hầu việc Đức Chúa Trời trong linh? Vì
trong Sách này ông tranh luận với những người tôn giáo luôn luôn ở trong một điều
gì đó không phải là linh-trong văn tự, trong hình thức, hay trong giáo lý.
Trong Sách La-mã, Phao-lô
tranh luận rằng bất cứ điều gì chúng ta làm cho Đức Chúa Trời đều phải làm
trong linh, bất cứ điều gì chúng ta là đều phải ở trong linh, bất cứ điều gì chúng
ta có cũng phải ở trong linh. Trong chương 2, câu 29, ông nói rằng những người
chân chính của Đức Chúa Trời phải ở
trong linh, sự cắt bì thật không phải bề ngoài trong xác thịt, nhưng trong
linh. Trong chương 7, câu 6, ông nói chúng ta phải hầu việc Đức Chúa Trời trong
sự tươi mới của linh. Trong Sách La-mã, Phao-lô nhắc đến nhân linh của chúng ta
11 lần. Trường hợp sau cùng được tìm thấy trong chương 12, câu 11, trong câu đó ông nói chúng ta phải
nóng cháy trong linh. Rao giảng Phúc Âm của Đức Chúa Trời hoàn toàn là vấn đề
linh của chúng ta.
B. Bằng Sự Cầu Nguyện
Để rao giảng
Phúc Âm, chúng ta cần cầu nguyện nhiều (1:9). Chúng ta cần cầu nguyện cho hồn
người và cầu nguyện cho Phúc Âm. Trong việc rao giảng Phúc Âm, cầu nguyện cần
thiết hơn bất cứ nỗ lực nào khác. Nếu không cầu nguyện, chúng ta sẽ không kết
quả trong việc rao giảng Phúc Âm.
C. Với Nhiệt Tâm
Thứ ba chúng
ta phải rao giảng Phúc Âm với nhiệt tâm (1:13-15). Nếu hết lòng với Chúa trong
vấn đề rao giảng Phúc Âm, chúng ta phải vận dụng ba điều này: trong linh, bằng
sự cầu nguyện, và với nhiệt tâm. Những mánh lới quảng cáo và những phương pháp
sẽ không hiệu quả. Tất cả chúng ta đều cần vận dụng linh để tiếp xúc người
khác, cầu nguyện và sẵn sàng với nhiệt tâm. Nếu Phúc Âm không cảm động anh em
thì sẽ không bao giờ cảm động
người khác. Nếu Phúc Âm không thể thuyết phục anh em, Phúc Âm sẽ không bao giờ
thuyết phục người khác. Nếu chính anh em không khóc với Phúc Âm, sẽ không ai ăn
năn. Nếu anh em khóc, người khác sẽ khóc trong sự ăn năn. Một lần nọ, tôi đọc
tiểu sử của một anh em rao giảng Phúc Âm với sức thuyết phục mạnh mẽ. Anh ấy
không giảng nhiều. Nhưng khi đứng lên,
anh khóc trước mặt mọi
người. Sau khi anh khóc trước mặt họ một lúc, người ta tuôn nước mắt ăn năn. Đó là rao giảng
Phúc Âm với nhiệt tâm.
IV. ĐƯỢC TIẾP NHẬN
BỞI NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC KÊU GỌI
Những người
được kêu gọi sẽ tiếp nhận Phúc Âm của Đức Chúa Trời (1:6-7). Những người
được kêu gọi này làm gì? Họ tin. Vì vậy, những người được kêu gọi và những người
tin sẽ tiếp nhận Phúc Âm. Chúng ta là người được kêu gọi và là người tin. Được
kêu gọi là được gọi ra khỏi; tin là tin vào trong. Sách La-mã cho gương mẫu của
Áp-ra- ham. Áp-ra-ham được Đức Chúa Trời kêu gọi ra khỏi dòng dõi thọ tạo. Dòng
dõi thọ tạo đã sa vào nhiều điều khác hơn Đức Chúa Trời và trở nên vô vọng đối
với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời từ bỏ dòng dõi ấy, kêu gọi một người tên là
Áp-ra-ham ra khỏi dòng dõi ấy. Cho nên Áp-ra-ham trở nên cha của dòng dõi được
kêu gọi, một dòng dõi không phải do Đức Chúa Trời tạo nên mà do Ngài kêu gọi.
Chúng ta đã được kêu gọi ra khỏi mọi điều khác hơn Đức Chúa Trời: ra khỏi sáng
tạo cũ, thế giới, dòng dõi loài người, và chính mình. Chúng ta đã được kêu gọi
ra khỏi điều tốt và ra khỏi điều xấu, ra khỏi mọi điều không phải là chính Đức
Chúa Trời. Vì vậy, được kêu gọi là ra khỏi bất cứ điều gì không phải là chính Đức
Chúa Trời.
Sau khi được
kêu gọi, chúng ta tin. Tin nghĩa là tin vào trong. Tin Jesus không chỉ có nghĩa là tin rằng có
một Jesus. Tin Jesus nghĩa là tin vào trong Jesus; tin Đức Chúa Trời là tin
vào trong Đức Chúa Trời. Tin đòi hỏi phải thừa nhận rằng chúng ta vô vọng, bất
lực và không thể làm gì để đẹp lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta cần quên chính mình
và kết liễu chính mình, kết liễu tất cả những gì chúng ta là, có và làm. Đó là
tin. Về phương diện tiêu cực, tin nghĩa là kết liễu tất cả những gì chúng ta là, tất cả những
gì
chúng ta có, và tất cả những gì
chúng ta
có thể làm. Về phương diện tích cực, tin có nghĩa là nhận Đức Chúa Trời là mọi
sự của chúng ta, đặt chính chúng ta trong Đức Chúa Trời, tin cậy những gì Ngài
đã làm, tin cậy những gì Ngài có thể làm và những gì Ngài sẽ làm cho chúng ta.
Nói cách khác, tin đơn giản là kết liễu chính mình và hoàn toàn trông cậy vào Đức
Chúa Trời. Trước mặt Đức Chúa Trời, sự tin này được kể là công chính và buộc Đức
Chúa Trời phải cứu chúng ta.
Phúc
Âm được tiếp nhận bởi những người được
gọi ra khỏi mọi sự khác hơn Đức Chúa Trời và tin vào trong Đức Chúa Trời Tam-Nhất,
kết liễu những gì họ là, có, làm, và tin cậy nơi Đức Chúa Trời về những gì Ngài
đã làm, có
thể làm và sẽ làm. Là một người như vậy, nếu nhận lãnh Phúc Âm của Đức Chúa Trời,
anh em sẽ thừa nhận rằng “Tôi
đã bị kết liễu rồi. Không còn là tôi, nhưng Đấng Christ sống
trong tôi. Tôi không cần làm gì cả, vì Ngài đã làm mọi sự, và Ngài sẽ làm mọi sự
cho tôi. Tất cả những gì tôi có, tất cả những gì tôi là và tất cả những gì tôi
có thể làm đều bị kết liễu bởi tôi đã tin vào Ngài. Bây giờ, Ngài là mọi sự của
tôi”. Đó là người nhận lãnh Phúc Âm của Đức Chúa Trời.
A. Nhờ Sự Vâng Phục Của Đức
Tin
Những người
được kêu gọi nhận lãnh Phúc Âm của Đức Chúa Trời nhờ sự vâng phục của đức tin
(1:5). Điều này là gì? Dưới luật của Môi-se, Đức Chúa Trời ban cho dân Ngài Mười
Điều Răn để họ vâng theo. Loại vâng phục đó là vâng phục Kinh Luật, vâng phục
điều răn. Trong thời đại ân điển này, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một điều
răn duy nhất, độc nhất là tin
Jesus. Đức
Chúa Trời không đòi hỏi chúng ta giữ điều răn nào khác hơn điều này. Bất
kể là ai, chúng ta phải vâng phục điều răn của Đức Chúa Trời là tin Jesus. Bất cứ
ai tin Đấng Christ đều được cứu, và ai không tin Đấng Christ thì đã bị
định tội vì vô tín (Gi. 3:18). Khi vâng theo điều răn duy nhất của Đức
Chúa Trời, chúng ta có sự vâng phục của đức tin. Đó là lý do vì sao Chúa Jesus phán
trong Giăng 16:8-9 rằng Thánh Linh sẽ cáo trách thế gian về tội không tin Ngài.
Ngày nay có một điều răn duy nhất là tin
Jesus, và có
một tội duy nhất là không tin Ngài. Nếu tin, anh em có sự vâng phục của đức
tin, và sẽ nhận lãnh Phúc Âm
của Đức Chúa Trời qua sự vâng phục này. Theo cách nhìn của Đức Chúa Trời, người
vâng phục nhất là người tin
Jesus. Người
bất phục nhất là người không tin Ngài.
Không có điều gì xúc phạm Đức Chúa Trời hơn là không tin Jesus, và trái lại, không có điều
gì làm hài lòng Đức Chúa Trời hơn là tin
Jesus. Nếu một
tội nhân nào, một người con hoang đàng nào, nói rằng: “Đức Chúa Trời ôi, con cảm
tạ Ngài vì đã sai Jesus
Christ đến-con
tin Ngài”, thì Cha sẽ hài lòng. Đức Chúa Trời hài lòng về anh em khi anh em có
sự vâng phục của đức tin.
B. Dẫn Đến Ân Điển Và Bình An
Việc nhận
lãnh Phúc Âm nhờ vâng phục của đức tin dẫn đến ân điển và bình an. Ân điển là Đức
Chúa Trời trong Đấng Christ
là mọi sự đối
với chúng ta để chúng ta vui hưởng, còn bình an là kết quả của việc vui hưởng
ân điển của Đức Chúa Trời. Sự bình an này là an nghỉ, an ủi và thỏa mãn bề
trong, chứ không phải một điều gì đó ở bề ngoài.
V.
QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Phúc Âm này
là quyền năng của Đức Chúa Trời dẫn đến sự cứu rỗi (1:16). Trong Sách La-mã, sự
cứu rỗi rất có ý nghĩa. Sự cứu rỗi không chỉ có nghĩa là cứu chúng ta khỏi sự định
tội của Đức Chúa Trời và khỏi địa ngục; cứu rỗi còn có nghĩa là cứu chúng ta khỏi
tình trạng thiên nhiên, lòng yêu mình, chủ nghĩa cá nhân, và chia rẽ. Sự cứu rỗi
này cứu chúng ta đến cực điểm, làm cho chúng ta được thánh hóa, đồng hóa, vinh
hóa, biến đổi, xây dựng với người khác như một Thân Thể, và không chia rẽ trong
nếp sống Hội
Thánh. Phúc Âm của Đức Chúa Trời là quyền năng của Đức Chúa Trời dẫn đến một sự
cứu rỗi đầy đủ, trọn vẹn và tột bậc như vậy. Đó là quyền năng của Đức Chúa Trời
cho mọi người tin. Ngợi khen Chúa! Chúng con tin.
VI.
SỰ CÔNG CHÍNH CỦA ĐỨC CHÚA
TRỜI
ĐƯỢC
BÀY TỎ TRONG PHÚC ÂM
Vì sao Phúc
Âm quyền năng như vậy? Phúc Âm quyền năng vì sự công chính của Đức Chúa Trời được
bày tỏ trong đó (1:17). Theo Giăng 3:16, sự cứu rỗi phát xuất từ tình yêu của Đức
Chúa Trời. Theo Ê-phê-sô 2:8, sự cứu rỗi là bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
Nhưng ở đây, Phao-lô không nói sự cứu rỗi phát xuất từ tình yêu hay bởi ân điển
của Đức Chúa Trời mà nói sự cứu rỗi đến bởi sự công chính của Đức Chúa Trời.
Tình
yêu hay ân điển đều không liên quan đến luật. Không có luật nào ép buộc người
ta yêu thương và cũng không có luật nào bắt buộc người ta ban ân điển. Dầu có
yêu thương anh em hay không, tôi vẫn không phạm pháp, và dầu tôi có dành ân điển cho anh
em hay không, tôi vẫn không phạm pháp. Theo một ý nghĩa, Đức Chúa Trời không bị
buộc phải yêu chúng ta. Nếu muốn, Ngài yêu chúng ta; nếu không muốn, Ngài có thể
quên chúng ta đi. Hơn nữa, Đức Chúa Trời không bị luật nào ràng buộc phải bày tỏ
ân điển cho chúng ta. Khi nào cảm thấy vui vẻ, Ngài có thể nói: “Ân điển đây”;
khi cảm thấy không vui, Ngài có thể tránh xa chúng ta. Đức Chúa Trời không bị
buộc phải yêu thương, Ngài cũng không bị luật nào ràng buộc phải ban ân điển.
Trái lại, sự công chính liên quan rất nhiều đến luật. Vì Đấng Christ đã làm trọn mọi đòi hỏi
công chính của Kinh Luật, nên Đức Chúa Trời buộc phải cứu chúng ta. Nếu anh em
nói: “Chúa Jesus
ơi, Ngài là
Đấng Cứu Rỗi con”, anh em có thể quay sang Đức Chúa Trời và nói: “Đức Chúa Trời
ơi, Ngài phải tha thứ cho con. Dầu muốn
hay không, Ngài vẫn phải tha thứ cho con. Ngài là công chính nếu Ngài tha thứ
cho con, nhưng Ngài không công chính nếu Ngài không tha thứ cho con”. Hãy mạnh
dạn nói như vậy với Đức Chúa Trời. Vì Đấng Christ đã
làm trọn mọi đòi hỏi công chính của Kinh Luật, nên Đức Chúa Trời bị sự công
chính của Ngài
buộc phải cứu chúng ta. Sự công chính là mối dây ràng buộc mạnh mẽ. Vì chịu sự
ràng buộc ấy, nên Đức Chúa Trời phải cứu chúng ta. Đức Chúa Trời không thể
trốn tránh-Ngài phải cứu chúng ta vì Ngài là công chính. 1Giăng 1:9 chép nếu chúng
ta xưng tội mình thì Đức Chúa Trời là công chính sỗ tha thứ các tội phạm của
chúng ta vì Đấng Christ
đã chết cho
chúng ta và đã đổ huyết Ngài vì
chúng ta. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải tẩy sạch chúng ta. Trong Phúc Âm Phao-lô
rao giảng có
quyền năng vì sự công chính của Đức Chúa Trời đã bày tỏ trong đó. Khi đến
chương 3, chúng ta sẽ thấy sự công chính của Đức Chúa Trời.
A. Từ Đức Tin Đến Đức Tin
Sự công
chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Phúc Âm từ đức tin đến đức tin
(1:17), nghĩa là hễ có đức tin, chúng ta có sự công chính của Đức Chúa Trời. Sự
công chính của Đức Chúa Trời ra từ đức tin của chúng ta và dẫn đến đức tin. Đừng
nói anh em không có đức tin. Hễ
anh em kêu cầu danh Chúa Jesus,
thì Ngài
phong phú đối với anh em. Khi anh em kêu: “Ô Chúa Jesus”, Ngài là đức tin của anh
em. Có lẽ anh em nói anh em không cảm thấy mình tin. Để trả lời cho điều này,
tôi xin kể cho anh em nghe những gì đã xảy đến cho tôi hơn 40 năm trước khi tôi
đọc một quyển sách về tính bảo đảm của sự cứu rỗi. Quyển sách này nói mạnh mẽ rằng
hễ tin thì được cứu. Ngay lập tức tôi tự hỏi: “Ngươi có tin không? Ngươi có đức
tin không?” Tôi bắt đầu nghi ngờ. Suốt vài ngày tôi bị điều này quấy rầy và
không thể ăn ngon, ngủ yên được. Tôi không cảm thấy mình tin. Sau khi bối rối mấy
ngày, Chúa thương xót và giúp đỡ tôi. Chúa phán: “Hỡi kẻ ngu dại, hãy tiếp cận
vấn đề này từ một góc độ khác, và hãy tự hỏi: ‘Ngươi không tin sao?’ Hãy hết sức
cố gắng
đừng tin”. Tôi cố
gắng không tin Jesus,
nhưng tôi
không thể làm điều đó. Đơn giản là tôi không thể không tin Ngài. Đó là bằng cớ
tôi có đức tin. Nếu cảm thấy mình không có đức tin, hãy cố gắng ngừng tin. Hễ không
thể ngừng tin thì điều đó chứng tỏ anh em có đức tin. Ngợi khen Chúa! Tất cả
chúng ta đều có đức tin. Miễn là chúng ta có đức tin này thì sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ được bày
tỏ ra từ đức tin này và đến đức tin này. Mặc dầu có thể cố gắng gạt bỏ đức tin của
mình, nhưng anh em không thể làm điều đó vì đức tin đã vào trong anh em. Bên
trong anh em có một điều gì đó mà Kinh Thánh gọi là “đức tin”. Hễ có đức tin,
anh em có sự công chính của Đức Chúa Trời.
Nói rằng sự
công chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ không có nghĩa là trước đó sự công chính chưa
hiện hữu, mà đơn giản có nghĩa là mặc dầu trước đó sự công chính đã hiện hữu,
nhưng chưa được khải thị, hay chưa được nhìn thấy. Để bất cứ điều gì có thể được
khải thị, điều đó đã phải hiện hữu rồi. Sự công chính này của Đức Chúa Trời được
khải thị từ đức tin đến đức tin.
Tôi xin minh
họa bằng cách cầm một quyển lịch xinh đẹp trước mắt anh em. Quyển lịch này đã
hiện hữu ít lâu rồi, nhưng bây giờ mới được khải thị cho anh em. Nó được khải
thị như thế nào? Được khải thị bởi thị giác của anh em và cho thị giác của anh
em. Nếu bị mù, quyển lịch không thể được khải thị cho anh em, vì sự khải thị về
quyển lịch là bởi thị giác của anh em và cho thị giác của anh em. Sự công chính
của Đức Chúa Trời đang hiện hữu và đã hiện hữu trải qua suốt các thời đại. Từ
khi tin Jesus, chúng ta có đức tin, và đức
tin này là thị giác thuộc linh của chúng ta. Bởi đức tin này và cho đức tin
này, sự công chính của Đức Chúa Trời được khải thị. Vì vậy, sự công chính cửa Đức
Chúa Trời được khải thị từ đức tin cho đức tin trong Phúc Âm. Ngợi khen Chúa!
B. Người Công Chính Có Sự
sống
Và Sống Bởi Đức Tin
Sự công
chính của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Phúc Âm rằng người công chính có sự sống
và sống bởi đức tin (1:17). Từ Hi-lạp được dịch là “sống” trong câu này vừa có
nghĩa là “sống”
vừa là “có sự sống”.
Bản tiếng Hoa dịch là “có sự sống”.
Quyển Phù Dẫn của Young
cũng cho biết
rằng từ Hi-lạp này có nghĩa là sống
và có sự sống. Câu này là phần
trích từ Ha-ba-cúc 2:4, là câu được trích ba lần trong Tân Ước. Câu này được
tìm thấy trong Hê-bơ-rơ 10:38 mà theo văn mạch có nghĩa là người công chính sẽ
sống bởi
đức tin. Theo Ga-la-ti 3:11 điều này có nghĩa là người công chính sẽ có sự sống bởi đức tin vì văn mạch trong Ga-la-ti
chương chương 3 nói rằng Kinh Luật không thể ban sự sống cho người ta (Ga. 3:21), người ta
chỉ có thể có sự sống bởi đức tin. Do đó, trong Ga-la-ti chương 3, vấn đề không
phải là sống, mà là có sự sống. La-mã 1:17 bao hàm cả hai ý nghĩa này-có sự sống
và sống. Vì vậy,
chúng ta có thể dịch câu này như vầy: “Người công chính sẽ có sự sống và sống bởi đức tin”.
Câu ngắn ngủi này là phần trích vắn tắt của toàn bộ Sách
La-mã. Sách La-mã có ba phần. Phần thứ nhất đề cập đến vấn đề xưng công chính,
cho thấy làm thế nào để công chính, làm thế nào để công bình, theo cách nhìn Đức
Chúa Trời. Phần thứ hai cho biết làm thế nào để có sự sống bằng cách được xưng công chính để dẫn đến sự sống (5:18). Cách để có sự chết
là bị Đức Chúa Trời định tội, cách để có sự sống là được Ngài xưng công chính.
Kế đến, phần thứ ba cho biết chúng ta phải sống như thế nào. Sau khi đã nhận
được sự sống
này, chúng ta cần sống bày tỏ sự sống ấy chủ yếu bằng cách thực hành nếp sống
Thân Thể. Phần cuối của Sách La-mã, từ chương 12 đến cuối chương 16, đề cập đến nếp sống của
chúng ta. Chúng ta chủ yếu cần có nếp sống
Hội Thánh. Các Hội Thánh địa phương là phần chính yếu của nếp sống chúng ta như
được bày tỏ trong chương 16. Vì vậy, toàn thể Sách La-mã đề cập đến ba điều:
công chính, có sự sống và sống đúng đắn. Ngợi khen Chúa! Tất cả chúng ta đều đã
được xưng công chính, và đều nhận được sự sống thần thượng. Bây giờ, chúng ta
đang sống bày tỏ sự sống này chính yếu trong Thân Thể, trong Hội Thánh địa
phương. Đó là cách sống bởi sự sống thần thượng. Người công chính sẽ có sự sống và sống bởi đức tin.