Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2018

LA-MÃ BÀI HAI MƯƠI BA



SỰ TUYỂN CHỌN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI,
PHẦN ĐỊNH CỦA CHÚNG TA
(2)
A. Đấng Christ, Kết Cuộc Của Kinh Luật
La-mã 10:4 chép: “Vì Christ là sự kết cuộc của luật pháp, để đưa mọi kẻ tin đến sự công nghĩa”. Đấng Christ là kết cuộc của Kinh Luật. Điều này có nghĩa là Ngài đã hoàn tất và chấm dứt Kinh Luật. Ngài đến để làm trọn Kinh Luật (Mat. 5:17). Bằng cách làm trọn Kinh Luật, Ngài kết thúc và chấm dứt Kinh Luật. Kết quả của việc Đấng Christ chấm dứt Kinh Luật là sự công chính của Đức Chúa Trời được ban cho những ai tin Đấng Christ. Khi chết trên thập tự giá, Đấng Christ đã hoàn tất và chấm dứt Kinh Luật. Kinh Luật kết thúc trong Ngài. Vì Kinh Luật đã chấm dứt trên thập tự giá của Đấng Christ nên chúng ta không nên ở dưới Kinh Luật nữa. Chúng ta chỉ cần nhận lãnh sự công chính của Đức Chúa Trời bởi tin Đấng Christ.
Người Do-thái quí trọng Kinh Luật và cố gắng giữ Kinh Luật để có thể lập công chính riêng trước mặt Đức Chúa Trời. Họ không thy Kinh Luật đã được Đấng Christ hoàn thành cách trọn vẹn và chấm dứt rồi. Nếu thấy điều này, hẳn họ đã dừng mọi nỗ lực giữ Kinh Luật. Hẳn họ không bao giờ tìm cách lập công chính riêng trước mặt Đức Chúa Trời mà đã nhận Đấng Christ làm sự công chính của mình.

Đối với rất nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay, nguyên tắc cũng giống như vậy. Sau khi được cứu, họ quyết định làm việc lành để đẹp lòng Đức Chúa Trời. Kết quả là họ tự động đặt ra luật lệ cho chính mình, những luật lệ có thể được xem như luật-tự-đặt và họ cố gắng thực hiện để ,đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cũng như người Do-thái, họ không thấy Đấng Christ là kết cuộc, kết thúc của mọi luật lệ và họ cần nhận Ngài làm sự sống để có thể sống cách công chính trước mặt Đức Chúa Trời. Hơn nữa, họ cần nhìn thấy sự công chính đích thực trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng Christ, Đấng đã chấm dứt Kinh Luật để làm sự công chính sống động cho những ai tin Ngài. La-mã chương 10 bày tỏ nhiều về Đấng Christ để chúng ta biết cách tham dự và vui hưng Ngài như sự công chính thật và sng động của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời.
B. Đấng Christ, Nhục Hóa Và Phục Sinh
Chúng ta cần đọc từ câu 5 đến câu 7. “Vả, Môi-se chép rằng, hễ người nào làm theo sự công nghĩa (hay: sự công chính) của luật pháp thì nhơn đó mà sống. Nhưng sự công nghĩa bởi đức tin thì nói như vầy: ‘Chở nói trong lòng ngươi rằng: ‘Ai sẽ lên trời?’ (ấy là để đem Christ xuống;) hay là: ‘Ai sẽ xuống vực sâu?’ (ấy là để đem Christ từ trong kẻ chết lên”’. Điều Phao-lô viết rất sâu sắc. Bề ngoài dường như những câu này không đề cập đến sự nhục hóa và phục sinh của Đấng Christ nhưng thật ra cả hai điều đó đều được bao hàm trong phân đoạn này. Mặc dầu Phao-lô không dùng những từ nhục hóa và phục sinh, nhưng trong ý tưởng của ông có cả hai từ ấy khi viết phần này của Sách La-mã. Phao-lô trích Phục Truyền Luật Lệ Ký 30:12: “Chớ nói trong lòng ngươi rằng: ‘Ai sẽ lên trời?”’ Rồi ông chĩ ra rằng điều này có nghĩa là “để đem Christ xuống” và điều này chỉ về sự nhục hóa của Đấng Christ, vì trong sự nhục hóa của Ngài, Đấng Christ từ các từng trời xuống. Hơn nữa, Phao-lô nói chúng ta không nên hỏi: “Ai sẽ xuống vực sâu?” “Xuống vực sâu” nghĩa là “để đem Christ từ trong kẻ chết lên”, và điều này chỉ về sự phục sinh của Đấng Christ. Xuống vực sâu nghĩa là chết và vào trong Âm Phủ. Khi Christ chết, Ngài xuống vực sâu; và trong sự phục sinh, Ngài được đem lên từ giữa những người chết, tức là ra khỏi vực. Christ là Đấng đã trải qua sự nhục hóa và phục sinh. Vì vậy, chúng ta có thể nói Ngài là Đấng Christ “đã-trải-qua-một- tiến-trình”, Đấng Christ Nhục Hóa và Phục Sinh.
Đấng Christ đã trải qua một tiến trình dài từ nhục hóa đến phục sinh. Trong tiến trình này, Ngài hoàn thành mọi điều mà sự công chính, thánh khiết và vinh hiển của Đức Chúa Trời đòi hỏi, và cũng hoàn thành tất cả những gì cần thiết để khiến chúng ta có thể nhận lãnh Ngài. Ngài là Đức Chúa Trời nhục hóa làm người; và là người, qua sự phục sinh, Ngài biến hóa thành Linh Ban Sự Sống (lCô. 15:45). Bây giờ, trong sự phục sinh, là Linh Ban Sự Sống, Ngài rất sẵn sàng đối với chúng ta để chúng ta có thể tiếp nhận và nhận lãnh Ngài vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào.
Chúng tôi cần nói một lời về “vực sâu” được đề cập trong câu 7. Trong Hi văn từ, abyssos được dịch là “vực”. Từ này được sử dụng trong Lu-ca 8:31 (được dịch là “sâu” trong Bản King James), chỉ về nơi ở của các quỉ. Từ này cũng xuất hiện trong Khải Thị 9:1,2,11 (luôn luôn được dịch là “vực sâu không đáy” trong Sách Khải Thị, Bản King James) chỉ về chỗ mà từ đó “cào cào”, vua của chúng là A-pô-ly-ôn, sẽ đến; trong Khải Thị 11:7 và 17:8 chỉ về nơi con thú tức antichrist sẽ lên; và trong Khải Thị 20:1,3 chỉ rõ nơi Sa-tan sẽ bị ném vào và bị cầm tù trong Vương Quốc một ngàn năm. Bản Bảy Mươi, là bản dịch Hi văn của Cựu Ước, dùng từ này cho từ “sâu” trong Sáng Thế Ký 1:2. Ở đây trong La-mã 10:7, chỉ về nơi Đấng
Christ đi thăm sau khi chết và trước khi phục sinh; theo Công Vụ 2:24,27, nơi ấy là Âm Phủ. Vì Công Vụ 2:24,27 bày tỏ rằng Đấng Christ vào Âm Phủ sau khi chết, và từ nơi ấy, Ngài sống lại trong sự phục sinh. Cho nên theo cách dùng của Kinh Thánh, từ liệu vực sâu luôn luôn chỉ về miền sự chết và về quyền lực tối tăm của Satan, là nơi sau khi Đấng Christ chết, Ngài đã xuống như đi vào những miền thấp hơn của trái đất (Êph. 4:9); đó cũng là nơi Ngài đã chinh phục, và từ đó Ngài đi lên trong sự phục sinh.
C. Đấng Christ, Ở Gần Anh Em
Xin lưu ý những gì Phao-lô nói trong câu 8: “Nhưng sự ấy nói làm sao? ‘Đạo (nguyên văn: Lời) ở gần ngươi, trong miệng ngươi và trong lòng ngươi’, tức là đạo (nguyên văn: Lời) đức tin mà chúng tôi rao giảng đây”. Đấng Christ phục sinh là Lời Hằng Sống gần chúng ta, trong miệng chúng ta và trong lòng chúng ta. Trong câu này, Phao-lô bất ngờ dùng từ “Lời” thay thế cho Đấng Christ, qua đó bày tỏ Lời này chắc chắn là chính Đấng Christ. Là Linh Ban Sự Sống trong sự phục sinh, Đấng Christ là Lời Sống. Điều này tương ứng với khải thị của Tân Ước rằng Lời là Linh. Nếu đọc Ê-phê-sô 6:18 trong tiếng Hi-lạp, anh em sẽ khám phá Linh là Lời. Như vậy, Đấng Christ trong sự phục sinh vừa là Linh, vừa là Lời, Ngài là Linh để chúng ta đụng chạm và là Lời để chúng ta hiểu. Chúng ta có thể tiếp nhận Ngài như Linh và như Lời. Là Linh Ban Sự Sống, Đấng Christ Phục Sinh là Lời sống động gần chúng ta. Ngài trong miệng và trong lòng chúng ta. Miệng là để kêu cầu, còn lòng là để tin. Do đó, chúng ta có thể kêu cầu Ngài bằng miệng và tin Ngài bằng tấm lòng. Khi kêu cầu Ngài, chúng ta được cứu; khi tin Ngài, chúng ta được xưng công chính.
Sau khi trải qua tiến trình nhục hóa và phục sinh, Đấng Christ ngày nay vừa là Chúa ngồi trên ngai Đức Chúa Trời trên trời vừa là Linh Ban Sự Sống đang chuyển động trên đất. Do đó, Ngài gần và sẵn sàng, cho chúng ta. Ngài gần đến nỗi thậm chí trong miệng và trong lòng chúng ta. Không ai có thể gần hơn. Ngài sẵn sàng đến nỗi bất cứ ai lấy lòng tin Ngài và dùng môi miệng kều cầu Ngài, đều sẽ nhận lãnh Ngài. Ngài đã hoàn thành mọi sự và trải qua mọi tiến trình. Bây giờ, Ngài đang chuyển động trên đất, sẵn sàng cho bất cứ ai mun tiếp nhận Ngài.
D. Đấng Christ, Đấng Chúng Ta Tin Và Kêu Cầu
Chúng ta cần đọc t câu 9 đến 13: “Vậy nếu miệng ngươi nhận Jesus là Chúa lòng ngươi tin Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu. Vì bởi lấy lòng tin mà được công nghĩa (hay: công chính), và bởi lấy miệng thừa nhận mà được cứu rỗi. Bởi chưng Kinh Thánh nói rằng: ‘Hễ ai tin Ngài sẽ chẳng h thẹn’. Vì giữa người Do-thái và người Hi-lạp chẳng có sự phân biệt gì hết, vì chính Chúa chung của hết thảy vẫn giàu có đối với mọi kẻ kêu cầu Ngài. Vì ‘hễ ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu’”. Phao-lô nói rằng “người tin mà được [dẫn đến sự] công nghĩa” bằng tấm lòng. “Dẫn đến” là một từ tương đương với giới từ Hi-lạp, trong nhiều trường hợp có nghĩa là “đưa đến kết quả”. Vì vậy, kết quả của việc tin bằng tấm lòng là sự công chính, trong khi kết quả của việc thừa nhận bằng miệng là sự cứu rỗi. Nếu muốn được xưng công chính, tức là có sự công chính của Đức Chúa Trời, chúng ta phải tin Chúa Jesus. Nếu muốn được cứu rỗi, chúng ta cần xưng nhận Chúa Jesus, tức là kêu cầu Ngài.
La-mã 9:21,23 cho biết rằng bởi sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời mà chúng ta, là những người được tuyển chọn, được làm nên những chiếc bình được thương xót dành cho sự tôn trọng và vinh hiển. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhận thức rằng những chiếc bình như vậy, tự chúng vẫn trống rỗng. Bình cần có nội dung. Mặc dầu La-mã chương 9 nói chúng ta là những chiếc bình, nhưng chương này không cho phương cách được đổ đầy. Thật kỳ diệu khi làm một chiếc bình được thương xót dành cho sự tôn trọng và vinh hiển, mà [nếu] không chứa đựng gì thì thật đáng thương. Chúng ta cần được đổ đầy. Cách đổ đầy được tìm thấy trong La-mã chương 10. Mỗi chiếc bình có một cái miệng, một cái cửa. Nếu không có miệng thì nó không phải là bình. Những dụng cụ như, búa, dao và rìu không có miệng. Tuy nhiên, chúng ta là những chiếc bình; và vì là bình, chúng ta có cửa-là miệng. Anh em có biết tại sao mình có miệng không? Anh em được tạo dựng với một cái miệng để được đổ đầy sự phong phú của Đấng Christ. Miệng được! tạo nên để kêu cầu danh Chúa Jesus. Chúa thật giàu có! Ngài giàu có đối với mọi kẻ kêu cầu Ngài. Có một câu trong Thi Thiên nói: “Hãy hả hoác miệng ngươi ra, thì Ta sẽ làm đầy dẫy nó” (81:10). Là những chiếc bình trống có miệng, chúng ta nên hả hoác ra để được đầy dẫy những phong phú của Chúa.
Để được cứu, chúng ta cần kêu cầu danh Chúa. Tuy nhiên, kêu cầu danh Ngài không những để được cứu rỗi mà đó cũng là phương cách dể nhận được phong phú của Đấng Christ. Chúa phong phú đối với mọi kẻ kêu cầu Ngài. Khi kêu cầu Ngài, chúng ta tham dự và vui hưởng phong phú của Ngài. Anh em có mun dự phần và vui hưởng phong phú của Đấng Christ không? Nếu muốn, đừng im lặng; hãy mở miệng và kêu cầu Ngài. Trong những năm gần đây, Chúa đã bày tỏ cho chúng ta rất nhiều về vấn đề kêu cầu danh Ngài. Thậm chí cách đây 10 năm, chúng ta ít biết về điều này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta sáng tỏ. Chúng ta đánh giá cao La-mã chương 10, đặc biệt là câu 12: “Vì giữa người Do-thái và người Hi-lạp chẳng có sự phân biệt gì hết, vì chính Chúa chung của hết thảy vẫn giàu có đi với mọi kẻ kêu cầu Ngài”. Câu 13 đã được sử dụng rất nhiều trong việc rao giảng Phúc Âm. Nhưng chúng ta cũng phải sử dụng câu ấy cùng với câu 12, không phải để rao giảng Phúc Âm, nhưng để đổ đầy phong phú của Đức Chúa Trời Tam Nhất vào tất cả những chiếc bình trng. Nếu anh em hả hoác miệng và kêu cầu Chúa, sự phong phú của thần tính sẽ là phần hưởng của anh em. Bây gi, chúng ta đã có cách đổ đầy những chiếc bình trống. Chúng ta có miệng kêu cầu Ngài để được đầy dẫy Ngài, và có tấm lòng để tin và giữ lấy Ngài.
Kinh Thánh khải thị rõ rằng kêu cầu Chúa là cách nhận lãnh và vui hưởng Ngài. Phục Truyền Luật Lệ Ký 4:7 (ASV) nói rằng Chúa “gần chúng ta hễ khi nào chúng ta kều cầu Ngài”. Thi Thiên 145:18 chép: “Đức Giê-hô-va gần mọi người cầu khẩn Ngài”. Thi Thiên 18:6 và 118:5 nói Đa-vít cầu khẩn Chúa trong cơn gian truân. Trong Thi Thiên 50:15, Chúa bảo chúng ta hãy kêu cầu Ngài trong ngày hoạn nạn, và trong Thi Thiên 86:7, Đa-vít làm theo điều đó. Thi Thiên 81:7 nói con cái I-xra-ên cũng làm, như vậy (Xuất. 2:23) và Chúa bảo họ: “Hãy hả hoác miệng ngươi ra, thi Ta sẽ làm đầy dẫy nó” (c. 10). Thi Thiên 86:5 nói Chúa tốt lành, sẵn sàng tha thứ và dư dật lòng thương xót cho mọi kẻ kêu cầu Ngài. Thi Thiên 116:3- 4 chép: “Dây sự chết vương vấn tôi,/ Sự đau đn Âm Phủ áp hãm tôi,/Tôi gặp sự gian truân và sự sầu khổ./Nhưng tôi kêu cầu danh Đức Giê-hô-va”. Câu 13 của chính Thi Thiên này chép: “Tôi sẽ cầm cái chén cứu rỗi mà cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va”. Để cầm cái chén cứu rỗi, tức là để dự phần và vui hưởng sự cứu rỗi của Chúa, chúng ta cần kêu cầu danh Chúa. Ê-sai 12:2-6 bảo rằng Chúa là sự cứu rỗi, sức mạnh, bài ca của chúng ta, và chúng ta có thể vui mừng múc nước từ các giếng cứu rỗi của Ngài. Phương cách múc nước từ các giếng cứu rỗi của Chúa, tức vui hưởng Chúa là sự cứu rỗi của mình, là ca ngợi Ngài, kêu cầu danh Ngài, hát cho Ngài, và thậm chí kêu lớn và la lên. Trong Ê-sai 55:1-6, chúng ta thấy lời Chúa kêu gọi dân Ngài cách kỳ diệu. Ngài kêu gọi người khát đến các dòng nước, vui hưởng sự phong phú mà Chúa chu cấp, như rượu, sữa, thức ăn ngon, và làm cho mình vui thích nơi của béo. Cách làm điều này là tìm kiếm Chúa và “kêu cầu Ngài đang khi Ngài ở gần”. Ê-sai 64:7 cho thấy rằng bằng cách kêu cầu Chúa, chúng ta có thể dứt dấy chính mình để nắm lấy Ngài.
Ca Thương 3:55-57 nói rõ rằng khi chúng ta kêu cầu Chúa, Ngài đến gần, và kêu cầu Ngài là hít th, là kêu la. Bằng cách này, chúng ta có thể nhận thức rằng kều cầu danh Chúa không những là kêu la cùng Ngài mà cũng để kinh nghiệm hít thở thuộc linh (Xuất. 2:23), trong đó, chúng ta th ra tất cả những gì trong mình, dầu đó là thng khổ, đau đớn, hay đè nén, v.v... Giê-rê-mi làm điều này khi ông kêu cầu Chúa từ trong ngục tối dưới thp, tức là từ đáy h sâu. Bất cứ khi nào ở trong ngục tối thuộc linh hay hố sâu thuộc linh, dưi một đè nén nào đó, chúng ta đều có thể kêu cầu Chúa, thở ra nặng nề trong mình, và nhờ đó được giải cứu khỏi hố sâu nhất. Kêu cầu Chúa như vậy không những làm cho chúng ta có thể thở ra những điều tiêu cực từ bên trong, mà cũng hít chính Chúa vào với tất cả những giàu có của Ngài như là sức mạnh, sự vui hưởng, yên ủi và an nghỉ của chúng ta. Bằng cách này, chúng ta nhận lãnh phong phú của Chúa. Như vậy, trong La-mã 10:12 này, Phao-lô cho biết rằng: “Chúa…giàu có đối với mọi kẻ kêu cầu Ngài”. Ngày nay trong sự phục sinh, Chúa sẵn sàng và có sẵn để chúng ta dự phần, và Ngài thật phong phú để chúng ta vui hưởng. Chúng ta chỉ cần kêu cầu Ngài luôn luôn. Khi kêu cầu Ngài, chúng ta nhận lãnh và vui hưởng mọi phong phú của Ngài.
Kêu cầu Chúa khác với chỉ cầu nguyện với Ngài. Trong tiếng Hi-lạp, từ được dịch là “kêu cầu” nghĩa là cầu khẩn một người, gọi tên một người. Mặc dầu có thể cầu nguyện với Chúa cách yên lặng, nhưng kêu cầu Chúa thì đòi hỏi phải kêu la cùng Ngài hay nói với Ngài thành tiếng. Từ Hê-bơ-rơ cho từ “kêu cầu” trong Sáng Thế Ký 4:26 trước hết có nghĩa là “kêu lên” hay “la lên”. Ê-sai 12:4 và 6 cho thấy kêu cầu danh Chúa có nghĩa là “kêu lên và la lớn”. Ca Thương 3:55 và 56 khải thị cùng một điều-kêu cầu danh Chúa là “kêu la” với Chúa. Do đó, Đa-vít nói: “...Tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va, Tôi kêu la cùng Đức Chúa Trời tôi” (2Sa. 22:7). Kêu cầu Chúa là kêu la cùng Ngài.
Theo như Kinh Thánh ghi lại, vấn đề kêu cầu danh Chúa bắt đầu với thế hệ thứ ba của loài người. Từ thời Ê-nót “người ta bắt đầu cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va” (Sáng. 4:26). Kế đến Áp-ra-ham (Sáng. 12:8), Y-sác (Sáng. 26:25), Gióp (Gióp 12:4), Môi-se (Phục. 4:7), Gia-bê (lSử. 4:10), Sam-sôn (Quan. 16:28), Sa-mu-ên (lSa. 12:18), Đa-vít (2Sa. 22:4; lSử. 21:16), Giô-na (Giôna 1:6), Ê-li (lVua. 18:24), Ê-li-sê (2Vua. 5:11), Giê-rê-mi (Ca. 3:55)-họ đều thực hành vấn đề kêu cầu danh Chúa. Hơn nữa, Giô-ên 2:32, Sô-phô-ni 3:9, và Xa-cha-ri 13:9 cũng nói tiên tri rằng người ta sẽ kêu cầu danh Chúa.
Vào Lễ Ngũ Tuần, tín đồ Tân Ước cũng kêu cầu danh Chúa để nhận lãnh Linh để ra, là sự ứng nghiệm lời tiên tri của Giô-ên (Công. 2:17-21). Đức Chúa Trời đổ Linh Ngài ra và tín đồ mở miệng để nhận lãnh Linh bằng cách kêu cầu danh Chúa. Linh được Đức Chúa Trời đổ ra, nhưng chúng ta phải nhận lãnh Ngài. Cách nhận lãnh Ngài là mở miệng và kêu cầu danh Chúa. Vì vậy, tín đồ Tân Ước, như Ê-tiên (Công. 7:59), đã thực hành điều này. Do thực hành điều này, họ bày tỏ họ là môn đồ của Chúa (Công. 9:14). Khi Phao-lô còn là Sau-lơ, người bắt bớ Hội Thánh, dự định bắt tín đồ, ông nhận ra họ nhờ họ kêu cầu danh Chúa. Sau khi được hoán cải, ông được khuyên hãy rửa sạch tội mình (chủ yếu là việc ông bắt bớ những người kêu cầu danh Chúa) bằng cách chính ông kêu cầu danh Chúa (Công. 22:16). Chắc chắn thực hành này là phổ biến giữa vòng các thánh đồ đầu tiên.
Khi gửi bức thư đầu tiên cho Hội Thánh tại Cô-rin-tô, Phao-lô nói: “...Hết thảy những người bất luận nơi nào, cầu khẩn danh Chúa chúng ta là Jesus Christ” (lCô. 1:2). Điều này cho thấy tất cả tín đồ đầu tiên đều thực hành kêu cầu như vậy. Trong bức thư thứ hai gửi cho Ti-mô-thê, Phao-lô bảo ông hãy theo đuổi những điều thuộc linh “cùng với kẻ lấy lòng trong sạch kêu cầu Chúa” (2:22). Cho nên, chúng ta cũng phải thực hành điều này. Các thánh đồ Cựu ước kêu cầu Chúa hằng ngày (Thi. 88:9) và suốt đời họ (Thi. 116:2). Còn chúng ta thì sao? Chúng ta nên thực hành nhiều hơn, kêu cầu Chúa với “lòng trong sạch” (2Ti. 2:22) và với “môi miếng thanh sạch” (Sô. 3:9). Nếu thực hành điều này, chắc chắn chúng ta sẽ nhặn lãnh và vui hưởng phong phú của Chúa. Kêu cầu Chúa không những để được cứu rỗi mà cũng để vui hưởng Chúa với mọi giàu có của Ngài.
Thư Cô-rin-tô Thứ Nhất mở đầu với việc kêu cầu danh Chúa, bày tỏ rằng đó là Sách vui hưởng Ngài. Sách này cho thấy Đấng Christ là sự khôn ngoan và quyền năng của chúng ta (1Cô. 1:24) và Ngài đã được lậm nên sự công chính, thánh hóa, cứu chuộc (1:30) và rất nhiều điều khác để chúng ta vui hưởng. Cuối cùng trong sự phục sinh, Ngài trở nên Linh Ban Sự Sống để chúng ta uống (1Cô. 15:45; 12:13). Cách uống Ngài như Linh Ban Sự Sng là kêu cầu danh Ngài. Do đó, lCô-rin-tô 12:3 cho thấy nếu nói: “Chúa Jesus”, ngay lập tức chúng ta ở trong linh. Nói “Chúa Jesus” là kêu cầu danh Chúa. Jesus là danh của Chúa, và Linh là thân vị của Ngài. Khi kêu cầu danh Chúa, chúng ta nhận được thân vị của Chúa. Khi kêu “Chúa Jesus”, chúng ta nhận được Linh. Kêu cầu danh Chúa để nhận lãnh Linh như vậy không những là hít thở thuộc linh, mà còn là uống thuộc linh. Khi kêu cầu danh Chúa, chúng ta hít Ngài vào như hơi thở sự sống và ung Ngài như là nước sự sống. Câu hai của Thánh Ca 73 viết:
Jesus đáng chúc tụng! Cứu Chúa Toàn Năng!
Tất cả những gì con cần dều ở trong Danh Ngài;
Chỉ cần hít thở Danh Jesus,
Là thật sự uống Sự Sống.
Đó là cách chúng ta nhận lãnh và vui hưởng Chúa. Tất cả chúng ta đều cần làm điều này. Nguyện Chúa ban phước cho chúng ta trong điều này. Nguyện điều này được hoàn toàn khôi phục trong những ngày này.
E. Đấng Christ, Được Giảng Và Nghe
Trong các câu 14 và 15, Phao-lô nói: “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe đến Ngài thì tin thể nào? Nếu chẳng ai rao giảng thì làm sao mà nghe? Lại nêu chẳng ai được sai đi, thì rao giảng thể nào? Như có chép rằng: “Chơn kẻ giảng Phúc Âm đẹp đẽ là dường nào!” Kêu cầu danh Chúa đòi hỏi phải tin Ngài, tin Ngài đòi hỏi phải nghe về Ngài, và nghe,về Ngài đòi hỏi tin mừng phải được rao giảng. Nếu muốn Phúc Âm được rao giảng thì một người nào đó phải được Đức Chúa Trời sai đi. Những người được Đức Chúa Trời sai đi phải rao giảng tin mừng để người ta nghe, tin, kêu cầu danh Chúa và được cứu. Sau khi tin Chúa và kêu cầu Ngài, chúng ta cũng phải rao giảng Ngài. Đấng Christ đã được rao giảng và nghe trên cả đất. Những người được sai đi đã rao giảng Ngài, cả người Do-thái lẫn các dân tộc đều đã nghe Ngài. Nhiều người đã tin để được công chính và đã kêu cầu để được cứu rỗi.
F. Đấng Christ, Được Tiếp Nhận Và Bị Khước Từ
Trong các câu từ 16 đến 21, chúng ta thấy Đấng Christ được tiếp nhận và bị khước từ. Một mặt, Đấng Christ được các dân tộc tiếp nhận, nhưng mặt khác Ngài bị người I-xra-ên khước từ.
Cả chương 9 và 10 của Sách La-mã đề cập đến một điểm-sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời. Sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời là phần định của chúng ta. Sự tuyển chọn này thuộc về Đức Chúa Trời là Đấng kêu gọi; điều đó là bởi thương xót và quyền chủ tể của Đức Chúa Trời, bởi sự công chính của đức tin, và qua Đấng Christ.
Trong tất cả các chương của Sách La-mã, chương 10 trình bày Đấng Christ nhiều nhất. Trong 10:4, Đấng Christ được gọi là “kết cuộc của Kinh Luật”. Trong cả Tân Ước, không một chương nào khác bày tỏ Đấng Christ theo cách như vậy. Do đó, La-mã chương 10 cho chúng ta một danh xưng rất quan trọng của Đấng Christ: kết cuộc của Kinh Luật. Đấng Christ đã nhục hóa bằng cách từ trời xuống, và phục sinh bằng cách lên khỏi vực. Sau khi trải qua tiến trình này, Đấng Christ là kết cuộc của Kinh Luật, đã trở nên Lời Sống. Ngài ở gần chúng ta, thậm chí ở trong miệng và trong lòng chúng ta. Hai cụm từ trong miệng ngươi” và “trong lòng ngươi” ngụ ý Đấng Christ giống như không khí. Chỉ có không khí mới có thể ở trong miệng và trong tim anh em. Đấng Christ phục sinh là Lời sống động, tức là Linh; Ngài giống như không khí, hơi thở, để chúng ta nhận vào bản thể mình. Tất cả những gì chúng ta cần là dùng miệng để hít Ngài vào, dùng lòng để tiếp nhận Ngài, và dùng linh để giữ Ngài lại. Nếu làm như vậy, chúng ta sẽ được cứu và được cung ứng tất cả những phong phú của Ngài bằng cách kêu cầu danh Ngài. Chúng ta cũng cần rao giảng Ngài. Khi chúng ta rao giảng Ngài và người ta nghe Ngài, một s sẽ tin một số khác sẽ khước từ.
La-mã chương 10 đưa ra một lời mô tả và định nghĩa tuyệt hảo về Đấng Christ để chúng ta dự phần. Không những chúng ta phải tin Ngài bằng tấm lòng mà còn phải kêu cầu Ngài bằng miệng. Chúng ta phải kêu cầu Ngài không những để được cứu mà cũng để vui hưởng phong phú của Ngài. Chúng ta được dựng nên là những chiếc bình để chứa dựng Ngài; chúng ta được chọn và tiền định để làm vật chứa đựng Ngài. Điều này đòi hỏi chúng ta phải hợp tác trong việc tiếp nhận Ngài và đem Ngài vào. Để làm điều này, chúng ta cần mở chính mình ra từ những nơi sâu thẳm của bản thể và kêu cầu Ngài bằng miệng từ sâu trong linh. Do đó, trong chương 9, chúng ta có những chiếc bình, và trong chương 10, chúng ta được ban cho phương cách để có những chiếc bình đầy dẫy sự phong phú của Đấng Christ. Đó là gia tể của sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời, là mục đích của khát vọng lòng Ngài.