CUỘC GIA TỂ CỦA
ĐỨC CHÚA TRỜI
TRONG SỰ
TUYỂN CHỌN CỦA NGÀI
Trong bài này,
chúng ta đến điểm thứ hai trong phần
nói về sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời, gia tể của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời
có một gia tể, một sự sắp đặt thần thượng trong sự tuyển chọn của Ngài. Sự sắp
đặt hay sự quản trị thần thượng này ở trên toàn thế giới và toàn thể nhân loại.
Sự quản trị này ở dưới quyền tể
trị của Đức Chúa Trời trong gia tể thần thượng của Ngài.
I.
DÂN CÒN SÓT LẠI ĐƯỢC GÌN GIỮ BỞI ÂN ĐIỂN
Trong La-mã
11:1, Phao-lô hỏi: “Vậy, tôi nói: Đức Chúa Trời há đã xua bỏ dân Ngài chăng? Đời
nào có vậy!” Phao-lô là một luật sư xuất sắc, có tài tranh luận và thắng kiện
dầu ông ở bên nào. Nếu
không có La-mã chương 11, chắc chắn chúng ta nghĩ sau khi chọn người I-xra-ên,
chắc hẳn Đức Chúa Trời phải đổi ý. Chương 9 và 10 của Sách La-mã dường như bày
tỏ rằng Đức Chúa Trời đã từ bỏ I- xra-ên. Vì một số
người nghĩ như vậy, nên Phao-lô hỏi: “Đức Chúa Trời há đã
xua bỏ dân Ngài chăng?” Rồi chính ông trả lời câu hỏi này, ông mạnh mẽ nói: “Đời
nào có vậy! Vì chính tôi cũng là người I-xra-ên, do dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc
chi phái Bên-gia-min. Đức Chúa Trời chẳng xua bỏ dân Ngài mà Ngài đã biết trước.
Anh em há chăng biết điều Kinh Thánh nói về Ê-li
sao? Thế nào người tố cáo dân I-xra-ên
trước mặt Đức Chúa Trời mà rằng: ‘Chúa
ôi, họ đã giết tiên tri Chúa, đào phá bàn thờ
Chúa, tôi còn lại một mình, và họ săn mạng sống tôi’. Nhưng
Đức Chúa Trời đáp lại thể nào? ‘Ta đã để lại cho Ta bảy ngàn người không hề quì
gối trước Ba-anh’” (11:1-4), Ê-li là tiên tri của Đức Chúa Trời đã
tố cáo với Đức Chúa Trời về dân I-xra-ên. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời bảo Ê-li đừng
buộc tội họ trước mặt Ngài vì Ngài đã để
dành bảy ngàn người nam chưa quì gối trước Ba-anh. Phao-lô nói tiếp: “Hiện nay
cũng vậy, theo sự tuyển chọn của ân điển thi có một số còn sót lại. Nhưng nếu
đã bởi ân điển, thì chẳng còn phải bởi công việc nữa; bằng chẳng thì ân điển
không còn phải là ân điển nữa” (cc. 5-6).
Phao-lô
tranh luận cách tuyệt vời, ông luôn luôn thắng bất kể , tranh luận cho bên nào
của vấn đề tranh luận. Trong chương 10, khi nói I-xra-ên xấu xa, ông chứng minh
họ xấu xa dường nào. La- mã 10:21 chép: “Song về dân I-xra-ên thì người nói rằng:
“Ta đã giơ tay ra cả ngày hướng về dân bội nghịch
hay nói trái!” Chắc chắn dân tộc tệ nhất trên đất là dân bội nghịch và hay cãi
lại. Khi đọc một câu như vậy, chúng ta có khuynh hướng nói: “Tình trạng của dân
I-xra-ên thật vô vọng. Thế là xong đời I-xra-ên”. Tuy nhiên, khi đến chương 11,
chúng ta thấy [Kinh Thánh] ghi lại thế nào chính Chúa tranh luận với Ê-li. Ê-li
nói: “Chúa ôi, họ đã giết tiên tri Chúa, đào phá bàn thờ Chúa”. Cả hai câu này
đều đúng. Rồi Ê-li nói: “Tôi còn lại một mình, và họ săn mạng sống
tôi”. Chúa đến với Ê-li và dường như Ngài nói: “Hỡi Ê-li, hãy nghe Ta. Ngươi
không một mình. Ta đã để dành bảy ngàn người. Ê-li, ngươi đang nói gì vậy?”
Trong chương 10, theo một ý nghĩa, dường như Phao-lô đang chống lại I-xra-ên.
Bây giờ, trong chương 11, ông đang ủng hộ I-xra-ên. Trong 11:5, Phao-lô nói:
“Hiện nay cũng vậy, theo sự tuyển chọn của ân điển thì có một số còn sót lại”. Đơn giản là Phao-lô
không thể bị đánh bại. Phao-lô nói: “Không những
Đức Chúa Trời đã để dành bảy ngàn người vào thời Ê-li, nhưng hiện nay, là thời chúng ta đang sống, Đức Chúa Trời vẫn
còn tuyển chọn theo ân điển. Ngày nay cũng có dân sót được để
dành”. Vào thời chúng ta, nguyên tắc cũng vậy. Dầu Cơ-đốc
Giáo suy thoái đến đâu chăng nữa, chúng ta vẫn tin rằng giữa
hàng ngàn và thậm chí hàng triệu Cơ-đốc nhân, vẫn có một số dân sót được Đức
Chúa Trời để dành.
Tôi không nói tự
cao, nhưng tôi xem chính mình là một người được Đức Chúa Trời để dành. Anh em cảm
thấy thế nào về chính mình? Trong những năm qua, nhiều lần tôi có ý tưởng giống
như Ê-li. Nhưng tôi ngợi khen Chúa vì cuối
cùng tôi khám phá ra rằng Chúa đã để dành nhiều người
cho chính Ngài. Đức Chúa Trời đã dành lại một số dân sót cho mục đích đời đời của
Ngài. Anh em đừng thất vọng.
Câu 6 chép:
“Nhưng nếu đã bởi ân điển, thì chẳng còn phải công việc nữa; bằng chẳng thì ân điển không còn phải là ân điển
nữa”. Đừng bao giờ quên rằng tất cả chúng ta đều được ân điển dành riêng. Đó
không phải là kết quả công việc của chúng ta mà
hoàn toàn là ân điển của Ngài. Nếu không, ân điển không còn là ân điển nữa.
“Vậy thì làm
sao? Điều mà dân I-xra-ên tìm kiếm thì họ không được; song những kẻ được chọn
thì đã được điều đó, còn những kẻ khác thì ra cứng cỏi” (c. 7). Trên nguyên tắc,
tình trạng ngày nay cũng giống như vậy. Chúng ta có gì để khoe khoang? Chỉ có
ân điển của Chúa.
Câu 8 chép: “Như
có chép rằng: Đức Chúa Trời
đã phú cho họ tâm linh mê muội, mắt không thấy dược, tai không nghe được, cho đến
ngày nay.” Đây có phải là
tình trạng của chúng ta không? Một số
người có mắt,
nhưng mắt họ mất thị giác; một số người có tai, nhưng tai họ mất chức
năng. Đây chính là tình trạng của thời chúng ta. Vào năm 1937, công việc Chúa
phân định cho tôi là đi khắp miền bắc Trung Quốc với mục đích chia sẻ cho Cơ-đốc
Giáo tất cả những lẽ thật Chúa đã ban cho chúng ta. Công tác dưới đi
sự lãnh đạo của anh Nghê phân định cho tôi
làm điều này. Tôi được dặn không ở
lại một Hội Thánh địa phương nào, nhưng đi khắp miền bắc Trung Quốc. Trong khoảng
thời gian ấy, tôi thi hành chức vụ lưu động
rất nhiều trong các giáo phái. Qua đó tôi được biết tình hình thật đáng thương.
Không bao nhiêu người có tấm lòng; hầu hết đều không có mắt để thấy và tai để
nghe. Sau đó, tôi không đi đây đó nữa và ở
lại tại Cheefoo, là quê tôi. Rõ ràng Chúa cho tôi gánh
nặng không đi đây đó nữa, nhưng chỉ ở lại thành phố ấy với
Hội Thánh địa phương. Sau khi tôi ở đó
bốn năm, một cuộc phục hưng đã xảy ra.
Tôi xin kể cho
anh em nghe một câu chuyện khác. Trong năm 1934, tôi
ở tại Thượng Hải ít lâu với anh
Nghê. Một ngày kia, khi chúng tôi lái xe đến một thành phố khác, anh nói với
tôi: “Anh ơi, các giáo phái đã khước từ chúng ta”. Trích lời Phao-lô trong Công
Vụ 13:46, anh nói: “Chúng tôi xây qua Dân Ngoại”. Từ thời điểm ấy, công tác
trong sự khôi phục của Chúa dứt khoát chuyển hướng sang Dân Ngoại. Từ khi tôi ở
lại với anh Nghê lần đầu vào năm 1933 cho đến thời điểm chúng tôi chia tay nhau
vào năm 1950, anh không nhận được một lời mời của bất kỳ giáo phái nào tại
Trung Quốc. Mặc dầu không giáo phái nào mời anh cung ứng, nhưng sách của anh rất
phổ biến. Dầu tình huống có ra sao, ngày nay Chúa vẫn còn dân sót của Ngài.
Chúng ta tiếp tục
sang câu 9: “Đa-vít cũng nói: ‘Nguyện bàn tiệc của họ trở nên lưới và bẫy, và
làm đá vấp chơn để báo ứng cho họ”. Chúng ta thấy chính điều này xảy ra trong
tình trạng ngày nay.
Câu 10 chép:
“Nguyện mắt họ mù tối không thấy được, và Ngài làm cho lưng họ khom luôn”. Cơ-đốc
Giáo ngày nay không giống như vậy sao? Không phải là mắt của nhiều người tối
tăm và lưng họ khom sao? Họ thiếu ánh sáng để thấy và không thể đứng thẳng được.
II. CÁC QUỐC
GIA ĐƯỢC CỨU
NHỜ
SỰ VẤP NGÃ CỦA DÂN I-XRA-ÊN
Gia tể
của Đức Chúa Trời trong sự tuyển chọn của Ngài trước hết là với
dân sót được ân điển gìn giữ và thứ hai là với các quốc gia, là Dân
Ngoại được cứu nhờ sự vấp ngã của dân
I-xra-ên. Trong câu 11, Phao-lô nói: “Vậy, tôi
lại hỏi rằng: Có phải họ vấp để mà ngã ư? Đời nào có
vậy! Trái lại, nhơn sự quá phạm (Bản RcV: sự lầm lỡ) của
họ mà sự cứu rỗi đã đến Dân Ngoại, để giục
họ ganh đua”. Trong 0:32,
Phao-lô nói rằng dân I-xra-ên “vấp phải hòn
đá vấp chơn”. Bây giờ, trong
11:11, ông nói họ không vấp để mà ngã. Phao-lô
khai triển lời tranh luận của mình rất cẩn thận, ông nói họ vấp nhưng không
ngã. Trong phần tiếp theo của câu 11, Phao-lô mô tả sự ngã của họ là “lầm lỡ”.
Hậu quả của sự lầm lỡ vì vô tín này là sự cứu rỗi đến với các dân tộc. Phao-lô
đã đưa ra một vụ kiện và ông thật là một luật sư! Không ai có thể đánh bại ông.
Mọi người đều phải phục ông. Trong 11:12, Phao-lô nói: “Vả, nếu sự lầm lỡ của họ
là sự giàu có của thế gian, sự thiếu kém của họ là sự giàu có của Dân Ngoại, thì huống
chi là sự đầy đủ của họ!” Sự lầm lỡ của I-xra-ên trở
nên sự giàu có của thế gian và sự thiếu
kém của họ là sự giàu có của các dân. Ngoài Phao-lô ai có thể tranh luận như vậy?
Trong 11:13,
Phao-lô nói ông tôn đại chức vụ của ông giữa các dân. “Tôi nói cùng anh em là
Dân Ngoại: nhơn tôi là sứ dồ của Dân Ngoại nên tôi tôn trọng chức vụ của tôi, bất
cứ cách nào miễn là tôi có thể giục lòng ganh đua của cốt nhục tôi, để cứu một
vài người trong vòng họ”. Mặc dầu Phao-lô tôn trọng chức vụ của mình giữa Dân
Ngoại, nhưng thật ra ông đang tranh biện cho I-xra-ên.
Chúng ta cần đọc
câu 15 cách cẩn thận. “Vì nếu sự vứt bỏ họ (RcV: gạt họ sang một bên) là sự phục
hòa cho thế gian, thì sự nhận lại họ há chẳng phải là sự sống
từ trong kẻ chết sao?” Xin lưu ý Phao-lô không
nói “ném bỏ họ”. Ném bỏ là một điều gạt sang một bên là điều khác. Trong 11:1,
Phao-lô hỏi: “Đức Chúa Trời há đã xua bỏ dân Ngài chăng?” Chính Phao-lô trả lời
câu hỏi này: “Đời nào có vậy!”. Vì thế, có một sự khác biệt
quan trọng giữa ném bỏ và gạt sang một bên. Ném bỏ nghĩa là từ bỏ, trong khi
gạt sang một bên nghĩa là để qua một bên một thời gian. Vì vậy, tư tưởng của
Phao-lô là Đức Chúa Trời đã gạt I-xra-ên sang một bên, không phải là ném bỏ họ.
Chúng ta hãy đọc
các câu từ 16 đến 18: “Vả, nếu bột đầu mùa (Bản RcV:
bột được dâng như hoa quả đầu mùa)
là thánh thì cả đống cũng thánh; và nêu gốc là thánh, thì các nhánh cũng thánh.
Vì bằng có một vài nhánh bị bẻ đi, mà
ngươi, vốn là cây ô-liu hoang, được tháp vào giữa nó, cùng nó được dự phần
trong gốc và nhựa của cây ô-liu, thì chớ khoe khoang với các nhánh kia; còn nếu
ngươi khoe khoang, thì hãy nhớ ấy chẳng phải ngươi chịu đựng cái gốc, bèn là
cái gốc chịu đựng ngươi”. Ai là gốc của cây ô-liu và ai là bột đầu mùa? Tôi tin
câu trả lời đúng là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Trong 11:28, Phao-lô nói
I-xra-ên “là kẻ yêu dấu vì cở các tổ phụ”. “Các tổ phụ” chỉ về các tộc trưởng,
chỉ về Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ba tổ phụ này là gốc của cây ô-liu và bột
được dâng lên như hoa quả dầu mùa.
Chúng ta cần
sáng tỏ về sự khác biệt giữa bột được dâng như hoa quả đầu mùa và khối bột. Giả
sử anh em có một khối bột để nướng bánh và lấy ra một miếng bột từ khối bột ấy.
Miếng bột ấy có thể được gọi là bột đầu mùa. Trong Kinh Thánh, bột được dâng làm hoa quả đầu mùa không phải để người
ta ăn; trước hết bột đó được dâng cho Đức Chúa Trời và sau đó được ban cho các
thầy tế lễ để làm thức ăn cho họ. Theo Dân Số Ký 15:18-21, Đức Chúa Trời bảo
I-xra-ên rằng sau khi vào miền đất, họ phải dâng miếng bột đầu mùa cho Chúa. Miếng
bột ấy được gọi là bột đầu mùa và cụm từ “bột được dâng như hoa quả đầu mùa”
trong La-mã 11:16 chỉ về bột này. Sứ đồ Phao-lô dùng miếng bột đầu tiên này để
minh họa Áp-ra-ham, cùng với Y-sác và Gia-cốp. Khi đến với Áp-ra-ham, Y-sác và
Gia-cốp trong Nghiên Cứu Sự Sống
trong Sách Sáng Thế Ký, chúng ta sẽ khám phá ba tộc trưởng
này nên được kể là một người và những kinh nghiệm thuộc linh của cả ba thật ra
là kinh nghiệm của một người. Ba tộc trưởng này đã là và
vẫn là miếng bột đầu tiên dâng cho Đức Chúa Trời như trái đầu mùa và tết cả con
cháu họ là cả khối bột. Cũng vậy, ba tộc trưởng đã là và vẫn là gốc của cây
ô-liu được vun trồng của Đức Chúa Trời (Giê 11:6), và cả đòng dõi họ đều là các
nhánh. Vì vậy, lời tranh luận của Phao-lô là nếu bột dâng cho
Đức Chúa Trời là thánh, thì cả khối bột
cũng là thánh. Điều này có nghĩa là cả dân I-xra-ên đều là thánh. Hơn nữa, nếu gốc tức các tộc trưởng là thánh, thì
mọi nhánh, là con cháu của các tộc trưởng cũng đều là thánh. Mặc dầu
I-xra-ên đã vấp nhưng họ không ngã. Tạm
thời họ bị chặt đi; nhưng về sau họ sẽ được tháp lại.
Trong La-mã
chương 9, những người được chọn của Đức Chúa Trời được ví như đất sét và trong
La-mã chương 11, họ được ví như miếng bột được sử dụng để làm bánh. Anh em nghĩ
điều nào tốt hơn? Anh em muốn làm một miếng đất
sét hay một miếng bột? Mặc dầu tôi thích làm miếng bột hơn, nhưng làm đất sét vẫn
tốt vì đất sét được dùng làm chiếc bình thương xót để
chứa đựng Đấng Christ.
Do
đó, trong 2Cô-rin-tô 4:7, chúng ta được biết “chúng tôi đựng của báu này trong
khí mạnh (hay: chiếc bình) bằng đất”. Hơn nữa, 2Ti-mô-thê 2:20 nói: “có khí mạnh
(hay: chiếc bình) bằng vàng bằng bạc... dùng việc sang trọng”. Chúng ta đã thấy
những bình bằng đất sét trong La-mã chương 9 được để đầy bằng cách kêu cầu danh
Chúa như được khải thị trong La-mã chương 10. Điều này cũng đúng cho những chiếc
bình trong 2Ti-mô-thê 2:20. Trong câu 22 của chương này, chúng ta được biết những
người tìm kiếm Chúa cần lấy lòng thuần khiết kêu cầu Ngài. Vì vậy, những chiếc
bình tôn trọng được đổ đầy bằng cách kêu cầu danh Chúa.
La-mã
chương 9 cho thấy chúng ta là những miếng đất sét được làm thành những chiếc
bình chứa đựng Đấng Christ.
Đó
là điều kỳ diệu. Tuy nhiên, thậm chí tôi còn vui mừng hơn
nữa vì được làm một miếng bột nhào, một phần của
khối bột. Đất sét không có sự sống, nhưng khối
bột là vấn đề sự sống, được làm ra từ bột mì mịn. Mặc
dầu đất sét hữu dụng để làm nên những chiếc bình chứa đựng Đấng
Christ
cho
vinh hiển của Đức Chúa Trời, nhưng bột lại làm cho Đức Chúa Trời thỏa mãn; bột
được dâng lên cho Đức Chúa Trời như thức ăn để
làm thỏa lòng Ngài. Một-miếng đất sét không có sự ĩ sống không tìíể làm thỏa
mãn Đức Chúa Trời. Chỉ trong khối bột chúng ta
mới có yếu tố sự sống làm thỏa mãn Đức Chúa Trời.
Trong khi bột
nhào làm thỏa mãn Đức Chúa Trời thì rễ làm thỏa mãn chúng ta. La-mã 11:17 nói
chúng ta “vốn là cây ô-liu hoang, được tháp vào giữa nó, cùng nó được dự phần
trong gốc và nhựa của cây ô-liu”. Khi đến với đời sống
của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp trong Nghiên Cứu Sự Sống Sách Sáng Thế Ký,
chúng ta sẽ thấy họ là rễ đầy nhựa cây ô-liu. Cả cây ô-liu đều nương dựa vào nhựa
của họ. Ngợi khen Chúa vì chúng ta là cây ô-liu hoang, đã được tháp vào cây
ô-liu được vun trồng của Đức Chúa Trời để được dự phần trong nhựa từ rễ cây ấy!
Đó là sự vui hưởng của chúng ta. Đức Chúa
Trời vui hưởng bột; chúng ta vui hưởng rễ. Cả bột và rễ đều thuộc về sự sống
thực vật, là sự sống làm thỏa mãn Đức Chúa Trời và con người.
Cả lúa mì và ô-liu đều đem lại sự vui thỏa và làm thỏa mãn Đức Chúa Trời và con
người. Ngợi khen Chúa! Một lần nữa chúng ta thấy Phao-lô là tác giả sâu nhiệm
biết bao. Không một điều gì trong Sách La-mã là nông cạn.
Trong câu 17,
Phao-lô nói chúng ta là Dân Ngoại, “vốn là cây ô-liu hoang, được tháp vào giữa
nó, cùng nó được dự phần trong gốc”. Tháp vào là vấn đề sự sống.
Một nhánh cây hoang được tháp vào cây vun trồng là để nó nhận
sự sống từ cây được vun trồng. Vì vậy, vấn đề không phải là Dân Ngoại thay đổi
tôn giáo mà là để nhận sự sống của rễ,
sự sống ấy là Đấng Christ.
Nhiều
Dân Ngoại đã quay khỏi các tôn giáo ngoại đạo của họ, hướng về Cơ-đốc Giáo
nhưng vẫn không hề nhận lãnh sự sống của Đấng Christ. Họ chưa
bao giờ được tháp vào cây ô-liu do Đức Chúa Trời
vun trồng, với Đấng Christ
là
sự sống. Nhưng chúng ta đã được tháp vào để
vui hưởng sự phong phú của sự sống Đấng Christ cùng với Áp-ra-ham, Y-sác và
Gia-côp. Ngợi khen Chúa!
Thay mặt cho Dân
Ngoại, Phao-lô nói trong câu 19: “Vậy, ngươi chắc nói rằng:
Các nhánh kia đã bị bệ đi là để ta được tháp vào”. Dân Ngoại có thể nghĩ như vậy.
Phao-lô trả lời “Phải, họ vì vô tín nên đã bị
bẻ đi, còn ngươi nhờ đức tin mà được đứng đó. Ngươi chớ tự cao, nhưng hãy sợ sệt.
Vì nếu Đức Chúa Trời đã chẳng tiếc những nhánh tự nhiên, thì chắc cũng chẳng tiếc
ngươi đâu. Hãy xem sự nhơn từ và sự nghiêm nhặt của Đức Chúa Trời: sự nghiêm nhặt
đối với kẻ vấp ngã, còn sự nhơn từ đối
với ngươi, miễn là ngươi cứ ở trong sự nhơn từ của Ngài; bằng chẳng, ngươi cũng
sẽ bị chặt đi” (cc. 20-22). Lời lẽ của Phao-lô khôn ngoan dường bao.
Vì vậy, do sự
quá phạm của I-xra-ên, do họ bị vấp nên sự cứu rỗi đã đến với Dân Ngoại. Tuy
nhiên, I-xra-ên không ngã; họ chỉ vấp. Đó là gia tể của Đức Chúa Trời trong sự
tuyển chọn của Ngài.
III.
I-XRA-ÊN ĐƯỢC PHỤC HỒI
NHỜ
SỰ THƯƠNG XÓT DÂN NGOẠI
“Còn họ, nếu
không ghì mài trong sự vô tín, thì cũng sẽ được tháp lại, vì Đức Chúa Trời có
thể lại tháp họ vào. Vì nếu ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-liu hoang thuận tánh, mà
được tháp vào cây ô-liu tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy nguyên là
nhánh thuận tánh, sẽ lại được tháp vào chính cây ô-liu của mình” (cc. 23-24). Mặc
dầu Phao-lô dường như nói thay cho Dân Ngoại, nhưng thật ra ông ủng hộ người
Do-thái nhiều hơn vì chính ông là người Do-thái. Ẩn dưới
những lời ông nói về Dân Ngoại là gánh nặng của ông đối với người Do-thái.
“Anh
em ơi, tôi chẳng muốn anh em không biết sự mầu nhiệm này, e anh em tự khoe mình
là khôn ngoan chăng: ấy là sự cứng cỏi đã xen vào
dân I-xra-ên đôi phần cho đến chừng nào số Dân Ngoại được đầy đủ” (c. 25). “Số
Dân Ngoại được đầy đủ” chỉ về những người mới hối cải giữa vòng Dân Ngoại. Bây giờ là thời điểm nhiều Dân Ngoại hối cải.
Vì vậy, “số Dân Ngoại” chưa đầy đủ; số này hiện vẫn đang tiếp tục. “Số Dân Ngoại
được đầy đủ” khác với cụm từ “cho đến chừng
các thời kỳ Dân Ngoại được trọn” (Lu 21-24). Một số Cơ-đốc nhận lẫn lộn hai
cụm từ này. Cụm từ “cho đến chừng các thời kỳ Dân Ngoại được trọn” ngụ ý lời
tiên tri nói về sự chấm dứt thế lực Dân Ngoại; “số Dân Ngoại được đầy đủ” ngụ ý
đủ số người hối cải giữa vòng Dân Ngoại. ...
Trong câu 26,
Phao-lô tuyên bố: “Dường ấy cả dân I-xra-ên đều sẽ được cứu, như có chép rằng:
‘Đấng giải cứu sẽ đến từ Si-ôn, cất sự bất kỉnh khỏi Gia-cốp”. Vào thời điểm ấy
tất cả dân I-xra-ên còn sót lại sẽ được cứu. “ ‘Ấy là
giao ước mà Ta lập với họ, khi Ta cất tội lỗi
họ đi’. Cứ như Phúc Âm mà nói, thì họ là kẻ thù nghịch vì cớ anh em; còn cứ như
sự tuyển chọn mà nói, thì họ là kẻ yêu dấu vì cớ các tể phụ” (cc. 27-28). Xin
lưu ý hai từ “vì cớ” trong câu 28: “vì cớ anh em” và “vì cớ các tổ phụ”.
Họ là kẻ thù vì cớ chúng ta, nhưng được yêu dấu vì cớ các tổ phụ. “Vì các ân
ban nhưng không và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời chẳng hề hối cải” (c. 29). Những
ân ban và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời là đời đời, không ăn năn, không thay đổi.
Một khi ân ban của Đức Chúa Trời được ban cho thì được ban cho đời dời. Một khi
Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta, Ngài kêu gọi chúng ta cho đến đời đời. Ngài
không bao giờ ăn năn về sự ban cho và sự kêu gọi. Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời
biết bao vì “trong Ngài... chẳng có bóng dời đổi” (Gia
1:17). “Bởi chưng như trước kia anh em chẳng vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng nay
nhơn sự chẳng vâng phục của họ mà anh
em lại được thương xót, thì cũng một
thể ấy, bây giờ họ chẳng vâng phục, hầu cho bởi sự thương xót đã ban cho anh em mà họ cũng được thương
xót. Vì Đức Chúa Trời đã nhốt mọi người trong sự không vâng phục, cốt để thương
xót hết thảy” (cc. 30-32). Ở đây, chúng ta thấy Phao-lô dùng cả sự không vâng
phục lẫn thương xót làm phương tiện tranh luận. Sự không vâng phục của con người
tạo cơ hội cho sự thương xót của Đức Chúa Trời, và sự thương xót của Đức Chúa
Trời đem đến sự cứu rỗi con người. Do đó, một lần nữa chúng ta thấy Phao-lô đã
thắng trong mọi trường hợp. Đức Chúa Trời đã nhốt mọi người trong sự không vâng
phục để bày tỏ lòng thương xót đối với mọi
người. Đó là gia tể của Đức Chúa Trời. Chúng
ta có thể nói gì? Tất cả những gì chúng ta có thể nói là: “Ha-lê-lu-gia
về sự thương xót của Ngài!” Thậm chí Ngài dừng sự không vâng phục của chúng ta
như một mảnh đất có rào để giữ chúng ta làm những chiếc bình hầu bày tỏ sự thương xót của Ngài trên
đó.
IV. NGỢI KHEN SỰ TUYỂN CHỌN
CỦA
ĐỨC
CHÚA
TRỜI
Đến đây Phao-lô
dâng lên lời ngợi khen Đức Chúa Trời, ngợi khen sự tuyển chọn của Ngài. “Ôi,
sâu thẳm thay là sự giàu có của cả sự khôn ngoan lẫn tri thức của Đức Chúa Trời!
Sự phán đoán của Ngài nào ai dò lường được, đường
lối của Ngài nào ai tìm dấu được! ‘Vì ai biết tâm trí của Chúa, Ai đã làm mưu
sĩ cho Ngài ư?’ ‘Hay là ai đã cho Ngài trước, hầu sau sẽ được
đền đáp lại ư?’ Vì muốn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài, và về
Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời! A-men” (cc. 33-36). Dường như trong La-mã từ
chương 9 đến 11, Phao-lô cho chúng ta một bản dồ để có thể dò theo đường lối
của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nhận được lời
khen ngợi và vinh hiển trong ba giai đoạn: trong quá khứ, về mọi sự đến từ
Ngài; trong hiện tại, về mọi sự tồn tại nhờ Ngài, trong tương lai, về mọi sự sẽ
qui về Ngài. Mọi sự hiện hữu đều ra từ Đức Chúa Trời trong quá khứ, mọi sự tồn
tại nhờ Ngài trong hiện tại và mọi sự sẽ qui về Ngài trong tương lai. Sự tuyển
chọn của Đức Chúa Trời là theo chính
Ngài, tùy sự tuyển chọn của Ngài, không tùy thuộc một điều
gì khác. Mọi sự đều thuộc về Ngài, bởi Ngài và cho
Ngài. “Vinh hiển cho Ngài đời đời. A-men”.