Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

LA-MÃ BÀI MƯỜI LĂM



SỰ TỰ DO CỦA LINH TRONG LINH CHÚNG TA
(2)
Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét La-mã 8:1-6. Như chúng ta đã thấy, La-mã chương 8 tương phản với La-mã chương 7 cách rõ nét. Trong La-mã chương 7, chúng ta thấy ách nô lệ của luật trong xác thịt chúng ta, và trong La-mã chương 8, chúng ta thấy sự tự do của Linh trong linh chúng ta. Khi đến chương 8, chúng ta quay khỏi ách nô lệ trong xác thịt sang sự tự do trong Linh.
II. SỰ TỰ DO CỦA LUẬT CỦA LINH SỰ SỐNG
A. Hiện Nay Không Có Sự Định Tội
Vào cuối La-mã chương 7, Phao-lô kêu lên: “Ôi, tôi là người khốn khổ! Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết này?” (c. 24). Phao-lô mở đầu chương 8 rằng: “Cho nên hiện nay chẳng có sự định tội cho những kẻ ở trong Christ Jesus” (c. 1). Trong Sách La-mã có hai loại định tội: sự định tội bề ngoài, khách quan, và sự định tội bề trong, chủ quan. Sự định tội bề ngoài đến từ Đức Chúa Trời, và sự định tội bề trong đến từ chính chúng ta. Chúng ta thấy sự định tội khách quan của Đức Chúa Trời trong những chương đầu của Sách La-mã, chẳng hạn như trong 3:19 chép rằng: “hầu cho mọi miệng phải ngậm lại, và cả thế gian đều phải phục dưới sự xét đoán của Đức Chúa Trời”. Như vậy, sự định tội khách quan là hậu quả của việc ở dưới sự phán xét công chính của Đức Chúa Trời. Loại định tội này được giải quyết hoàn toàn bởi huyết cứu chuộc của Đấng Christ. Huyết cứu chuộc của Đấng Christ đã cứu chúng ta khỏi sự phán xét của Đức Chúa Trời.

1. Sự Định Tội Ở Ngoài Đấng Christ
Sự định tội bên trong, chủ quan, được tìm thấy trong chương 7. Khi Phao-lô than: “Ôi, tôi là người khốn khổ dường nào”, ông không đang kinh nghiệm sự định tội của Đức Chúa Trời mà kinh nghiệm sự định tội đến từ chính mình, là sự tự định tội của người cố gắng giữ Luật. Sự định tội này ra từ chính người ấy, chứ không phải ra từ Đức Chúa Trời. Anh em càng c gắng trở nên tt và làm trọn Luật, càng bị định tội ở bên trong. Nếu là một người cẩu thả, không bao giờ c gắng trở nên tốt thì anh em sẽ không kinh nghiệm sự định tội bên trong. Tuy nhiên, nếu nói: “Tôi phải đúng đắn và hoàn hảo”, thì anh em sẽ bị chính mình định tội. Càng cố gắng tự cải thiện, anh em càng bị định tội. Sự định tội trong La-mã chương 7 là sự định tội của người ở ngoài Đấng Christ, mặc dầu vẫn có nhiều Cơ-đốc nhân kinh nghiệm sự định tội này. Họ là những Cơ-đốc nhân cố gắng làm trọn Kinh Luật sau khi được cứu. Sự định tội này không đến từ Đức Chúa Trời. Có lẽ Đức Chúa Trời phán: “Đứa con ngu dại ơi, Ta không mun con bị định tội như vậy. Con tự gây rắc rối cho mình”. Sau khi đã giải quyết nan đề về sự định tội khách quan, nhiều Cơ-đốc nhân tự tạo cho mình nan đề về sự định tội bên trong. Một số bị định tội đến nỗi mất ăn mt ngủ. Thậm chí tôi biết một số người sinh ra bệnh tâm thần do sự định tội chủ quan. Một s anh em tự định tội mình cách gay gắt vì đã không thương yêu vợ, và một số chị em tự phán xét mình vì đã không nhân từ với chồng. Cuối cùng, cảm nhận về sự định tội chủ quan trở nên cực kỳ trầm trọng đến nỗi phát sinh bệnh tâm thần. Những người như vậy bị sự tự định tội đè nặng trên mình.
2. Hiện Nay Không Có Sự Định Tội Trong Đấng Christ
Sau khi kêu lên khốn khổ vào cuối chương 7, Phao-lô tuyên b cách đắc thắng rằng: “Cho nên hiện nay chẳng có sự định tội trong Christ Jesus”. Điều này có nghĩa là những gì ông kinh nghiệm trong La-mã chương 7 không phải là kinh nghiệm trong Đấng Christ. Không có Đấng Christ, hay ở bên ngoài Đấng Christ, ông vật lộn theo luật trong tâm trí để giữ Luật của Đức Chúa Trời hầu có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn hoàn toàn bị luật của tội đánh bại. Điều đó xảy ra khi ông còn ngoài Đấng Christ. Do đó, Phao-lô tự định tội mình. Ông bị cảo trách sâu xa bởi sự định tội chủ quan bên trong. Nhưng “hiện nay” “trong Christ Jesus” không còn có loại định tội này nữa. Phao-lô “chẳng có sự định tội” vì trong Đấng Christ, ông không cần tự mình giữ Luật của Đức Chúa Trời nữa, đó là nỗ lực sinh ra sự tự định tội; “chẳng có sự định tội” vì trong Đấng Christ, ông có luật của Linh Sự Sống mạnh hơn luật của tội, giải thoát ông khỏi luật của tội; “chẳng có sự định tội” ngày nay không phải vì huyết cứu chuộc của Đấng Christ cất bỏ sự định tội khách quan của Đức Chúa Trời, mà là vì luật của Linh Sự Sng đem lại sự tự do của Linh trong linh ông và khắc phục mọi sự định tội chủ quan của ông; và “chẳng có sự định tội” vì ông được giải thoát khỏi Luật của Đức Chúa Trời lẫn luật của tội.
B. Sự Tự Do Của Luật Của Linh Sự sống
Trong La-mã chương 8, Phao-lô không nói: “Chẳng có sự định tội trong Christ Jesus vì huyết của Jesus đã tẩy sạch tôi”. Sự định tội này không được giải quyết bằng huyết. Chúng ta được thoát khỏi sự định tội chủ quan không phải vì huyết tẩy sạch, mà là vì luật giải phóng chúng ta. Có một luật giải phóng chúng ta khỏi sự định tội bên trong. Luật giải phóng chúng ta có uy lực lớn hơn hết trong các luật. Mặc dầu có Luật của Đức Chúa Trời bên ngoài luôn đòi hỏi, luật của điều thiện trong tâm trí đồng ý với Luật của Đức Chúa Trời, và luật của tội trong thân thể chng lại và đánh bại luật của điều thiện, nhưng chúng ta phải ngợi khen Chúa vì trong linh chúng ta là luật của Linh Sự Sống. Không luật nào có thể thắng hơn luật này. Ai có thể đánh bại Linh Sự Sống? Không ai và không điều gì-có thể đánh bại Linh Sự Sng. Luật của Linh Sự Sng là quyền năng tự phát của Linh Sự Sng. Đó là luật mạnh mẽ nhất trong vũ trụ; luật này ở trong chúng ta và giải phóng chúng ta.
Luật của Linh Sự Sng giải phóng chúng ta như thế nào? Luật này giải phóng chúng ta cách “siêu đẳng”. Theo chiến thuật cổ xưa, nếu một vài người lính bị quân địch bao vây, họ phải phá vòng vây. Nhưng trong chiến tranh hiện đại thì không cần làm như vậy. Nếu bị kẻ thù bao vây, chúng ta không cần phá vòng vây -chúng ta có đường đi lên. Chúng ta có đường đi lên. Do đó, chúng ta có thể nói với Sa-tan rằng: “Hỡi Sa-tan, so với ta thì ngươi mạnh mẽ. Nhưng ngươi không biết rằng ta có một Đức Chúa Trời kỳ diệu vừa ở trong linh ta, vừa trên các từng trời sao? Lên trời khó đối với ta, nhưng dễ đối với Ngài. Ngài vừa ở trong ta vừa ở trên trời. Hỡi Sa-tan, ta không cần phá vòng vây. Ta chỉ nói: ‘Ngợi khen Chúa và ta ở từng trời thứ ba. Sa-tan, ngươi và quân đội tấn công của ngươi ở dưới chân ta, và ta tự do”.
Nếu anh em nghĩ đây chỉ là một lý thuyết tốt, tôi xin áp dụng và làm cho nó rất thực tế. Giả sử chúng ta có một chị em muốn thuận phục chồng theo Ê-phê-sô chương 5. Chị ấy nói: “Tôi yêu thích lời này. Lời này ngọt ngào và thánh khiết. Tôi mun thuận phục chồng”. Đó chỉ là sự vận dụng tâm trí cố gắng thực hiện mạng lệnh trong Ê-phê-sô chương 5. Tuy nhiên, khi chị quyết định làm như vậy, một điều kỳ lạ xảy ra. Dường như môi trường xung quanh chị thay đổi và chính điều trái với sự vâng phục lại xảy ra. Chồng chị vốn luôn luôn tử tế và hòa nhã với chị lại rất khó chịu vào chính buổi sáng chị quyết định thuận phục anh. Trước thất vọng lớn của chị, chị không thực hiện được điều răn này. Sa-tan đến chông đối, bao vây, và tấn công chị. Càng c gắng đè nén cơn bực dọc trước cách cư xử của chồng, chị càng giận dữ, cho đến cuối cùng, chị không còn kiềm chế được tánh nóng nảy của mình. Tranh đấu, nỗ lực của chị thật vô ích. Chị em này bị đánh bại vì đã dùng sai chiến thuật. Bất cứ khi nào bị kẻ thù bao vây chúng ta không nên cố gắng phá vòng vây mà phải nói: “Ngợi khen Chúa! A-men!” Ngay lập tức chúng ta sẽ vượt trỗi. Mọi kẻ thù, kể cả những người làm chúng ta bực mình, đều sẽ ở dưới chân chúng ta. Nếu không tin, tôi mời anh em hãy làm thử. Chiến thuật này có hiệu quả, “hiện đại” hơn hết, là vũ khí lợi hại nhất để chống kẻ thù. Thay vì định tội thì có ngợi khen. Tại sao có ngợi khen và giải phóng thay vì định tội? Vì luật của Linh Sự Sống giải phóng chúng ta khỏi luật của tội và sự chết.
Chúng ta có hai phương thuốc cho hai loại định tội. Huyết của Đấng Christ chịu đóng đinh là thuốc chữa cho sự định tội khách quan, và Linh Sự Sng-tức Đấng Christ đã trải qua một tiến trình để trở nên Linh Ban Sự Sống- trong linh chúng ta là phương thuốc cho sự định tội chủ quan. Khi kinh nghiệm sự định tội chủ quan, tất cả chúng ta đều cần ngợi khen Chúa và chúng ta sẽ vượt lên cao. Đừng cầu nguyện vào những lúc như vậy, vì càng cầu nguyện, anh em càng kinh nghiệm sự định tội. Anh em cũng không nên nói: “Chúa ơi, con áp dụng huyết Ngài”. Đó không phải phương thuốc cho hoàn cảnh này. Đó là chữa bệnh sai thuốc. Khi ở dưới sự định tội chủ quan, chúng ta cần Linh Sự Sng. “Vì luật của Linh Sự Sng trong Christ Jesus đã buông tha tôi khỏi luật của tội và sự chết”.
2. Trong Đấng Christ
Đây không phải là một kinh nghiệm ngoài Đấng Christ, mà là kinh nghiệm hoàn toàn ở trong Đấng Christ. Trong Đấng Christ, không phải trong A-đam hay trong chính chúng ta, mà trong Đấng Christ, chúng ta có Linh của sự sng, chính Đấng Christ là Linh Ban Sự Sng ở trong linh chúng ta. Trong Đấng Christ, linh chúng ta được làm cho sng động bằng Đấng Christ là sự sng. Vì chúng ta ở trong Đấng Christ, nên Linh Sự Sng, là chính Đấng Christ, cư ngụ trong linh chúng ta và hòa quyện chính Ngài với linh chúng ta làm một linh. Trong Đấng Christ, chúng tá có linh được làm cho sng động, sự sng thần thượng và Linh Sự Sng. Trong Đấng Christ, ba điều này “ linh chúng ta, sự sng thần thượng và Linh Sự Sng-hòa quyện với nhau làm thành một đơn vị. Trong Đấng Christ, đơn vị này có quyền năng tự phát, tc là luật của Linh Sự Sng, liên tục giải phóng chúng ta khỏi luật của tội và sự chết khi chúng ta bước đi theo linh hòa quyện.
2. Hằng Ngày
Kinh nghiệm này không phải một lần đủ cả, mà phải là một kinh nghiệm liên tục hằng ngày. Hằng ngày, từng giây phút, chúng ta cần sống trong linh hòa quyện, bước đi theo linh này, và đặt tâm trí vào linh kỳ diệu này, đừng cố gắng giữ Luật của Đức Chúa Trời hay cố gắng làm điều tốt. Vì một khi quay lại thói quen cũ là cố gắng làm điều tốt, chúng ta liền bị cách ly với luật đầy quyền năng của Linh Sự Sng. Chúng ta phải ngửa trông Chúa để có thể tiếp tục ở trong linh luôn luôn hầu vui hưởng sự tự do của luật của Linh Sự Sống.
C. Sự Bất Năng Của Kinh Luật
La-mã 8:3 chép: Vì điều Kinh Luật không làm nổi, tại xác thịt làm cho nó ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì tội mà sai chính Con Ngài lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội) và định tội cho tội ở trong xác thịt”. Câu này nói rằng có một sự bất năng liên quan đến Luật; Luật ở đây không chỉ về luật của Linh Sự Sống vì đối với luật của Linh Sự Sng không có điều gì bất năng cả, mà chỉ về Luật của Đức Chúa Trời bên ngoài chúng ta. Có một sự bất năng liên kết với Luật của Đức Chúa Trời vì Luật ấy yếu đui do xác thịt. Xác thịt là nhân t của sự yếu đui, sinh ra tình trạng bất năng được đề cập trong 8:3.
Chủ từ của 8:3 là Đức Chưa Trời. Đức Chúa Trời sai chính Con Ngài trong hình trạng của xác thịt của tội, liên quan đến tội và kết án tội trong xác thịt. Câu này là câu sâu xa nhất trong La-mã chương 8, rất khó hiểu.
“Xác thịt của tội” là gì? Xác thịt của tội là thân thể chúng ta. “Xác thịt của tội” trong 8:3 tương ứng với cụm từ “thân thể của tội” trong 6:6, là câu cho biết người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá để “thân thể của tội” bị mất hiệu lực. Tại sao thân thể của chúng ta được gọi là “thân thể của tội” và “xác thịt của tội”? Vì tội cư trú trong thân thể chúng ta như đã thấy từ La-mã chương 7. Vì thân thể của chúng ta là nơi cư ngụ của tội, nên nó được gọi là “thân thể của tội”. Vì thân thể chúng ta đã trở nên một thân thể sa ngã, nên nó cũng được gọi là “xác thịt”, tức là “xác thịt của tội”.
Sự yếu đuối của chúng ta trong việc giữ Luật của Đức Chúa Trời là thân thể của tội. Thân thể chúng ta yếu đuối đến tột cùng trong việc giữ Luật của Đức Chúa Trời. Mặc dầu tâm trí chúng ta muôn giữ Luật của Đức Chúa Trời, nhưng thân thể chúng ta không có sức lực thực hiện điều đó. Nó bị tội làm cho yếu đui và tê liệt. Tội ging như bệnh bại liệt làm cho cơ thể của trẻ em bị liệt và tàn tật. Cũng vậy, thân thể con người của chúng ta đã bị tội làm tê liệt. Thân thể của tội này là nhân t cơ bản của sự yếu đuối trong việc giữ Luật của Đức Chúa Trời. La-mã 8:3 nói Luật của Đức Chúa Trời là yếu đui do xác thịt. Tại sao Luật của Đức Chúa Trời trở nên yếu đuối? Vì xác thịt. Luật của Đức Chúa Trời đưa ra những đòi hỏi, nhưng thân thể của tội nhân không thể thực hiện vì bên trong thân thể này là tội, tức nhân t làm cho yếu đuối.
Mặc dầu thân thể của tội hay xác thịt của tội cực kỳ yếu đui trong việc giữ Luật của Đức Chúa Trời, nhưng lại rất mạnh mẽ trong việc phạm tội. Nếu không có sự thương xót và ân điển của Chúa, anh em khó có thể ngồi suốt các buổi nhóm của Hội Thánh. Khi nghĩ đến việc tham dự buổi nhóm cầu nguyện, có lẽ anh em nói: “Đêm qua tôi ngủ không ngon và tôi bị nhức đầu. Tôi mệt quá không thể đến nhóm được”. Tuy nhiên, nếu có người rủ đi xem phim thì thân thể của tội lại tràn đầy sinh lực và mạnh mẽ. Vì vậy, thân thể chúng ta yếu đuối đối với Luật của Đức Chúa Trời, nhưng rất mạnh mẽ đối với việc phạm tội. Cho nên, do thân thể của tội mà Luật của Đức Chúa Trời bị yếu đui.
D. Tội Bị Kết Án
Kinh Luật yếu đuối do thân thể của tội, như vậy Đức Chúa Trời đã làm gì đối với điều này? Đức Chúa Trời đã làm gì đối với tình hung ấy? Luật của Đức Chúa Trời đưa ra những đòi hỏi, nhưng nó bị yếu đuối do xác thịt. Nan đề không phải tại Kinh Luật; sự khó khăn chính là tội và xác thịt của tội. Tội là kẻ vi phạm, và xác thịt của tội là kẻ giúp đỡ (tòng phạm). Hai kẻ ấy hợp tác với nhau. Nếu Đức Chúa Trời mun giải quyết nan đề, hẳn Ngài phải xử lý cả tội lẫn xác thịt. Mặc dầu tội, chứ không phải xác thịt, là nan đề lớn nhất, nhưng Đức Chúa Trời phải xử lý cả hai.
Ngài thực hiện điều ấy như thế nào? Đức Chúa Trời thực hiện điều đó thật kỳ diệu theo cách mà ngôn ngữ loài người không thể giải thích đầy đủ được. Đức Chúa Trời giải quyết nan đề bằng cách sai chính Con Ngài “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)”. Đức Chúa Trời thật khôn ngoan. Ngài biết không nên sai Con Ngài làm xác thịt của tội, vì nếu làm như vậy, Con Ngài hẳn đã bị vướng vào tội. Vì vậy, Ngài sai Con Ngài “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)”, như đã được tượng trưng bởi con rắn bằng đồng mà Môi-se treo lên trong đồng vắng (Dân. 21:9) và được chính Chúa Jesus đề cập đến. Trong Giăng 3:14, Jesus phán: “Ví như Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con [Loài] Người cũng cần phải chịu treo lên thể ấy” cho thấy con rắn bằng đồng là hình bóng của chính Ngài trên thập tự giá thay cho chúng ta. Khi Ngài ở trên thập tự giá, Jesus ở trong hình dạng của con rắn theo cách nhìn Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời nhìn vào Jesus lúc Ngài bị đóng đinh vào thập tự giá, Ngài thấy Jesus trong hình dạng của con rắn. Con rắn là ai? Sa-tan. Tội mà đã tiêm vào trong thân thể con người và biến nó thành xác thịt của tội, là gì? Đó là bản chất của Satan. Vì vậy, xác thịt của tội thật ra có nghĩa là xác thịt với bản chất của Sa-tan. Kinh Thánh nói Jesus, Con của Đức Chúa Trời, đã trở nên xác thịt (Gi. 4:14). Tuy nhiên, điều này tuyệt nhiên không có nghĩa là Jesus trở nên xác thịt với bản chất của Sa-tan vì 8:3 nói Ngài được sai đến trong “hình trạng của xác thịt của tội”, qua đó cho thấy Jesus chỉ khoác lên “hình trạng của xác thịt”, chứ không phải bản chất tội của xác thịt. Hơn nữa, 2Cô-rin-tô 5:21 chép: “Vì Đức Chúa Trời đã khiến cho Đấng [Christ]... trở nên tội vì chúng ta”. Mặc dầu câu này nói rõ Đấng Christ được làm cho tr nên tội, nhưng điều này không có nghĩa là Ngài có tội trong bản chất. Ngài chỉ được làm cho trở nên “hình trạng của xác thịt của tội”. Con rắn bằng đồng có hình dạng của con rắn nhưng không có nọc độc của rắn. Nó có hình dạng của rắn, nhưng không có bản chất của rắn. Đấng Christ đã được làm cho trở nên tội trong hình dạng. Bên trong Ngài “không có tội”; (2Cô. 5:21; Hê. 4:15); Ngài không liên quan gì đến bản chất của tội. Ngài chỉ được làm cho trở nên hình dạng của con rắn, “hình trạng của xác thịt của tội” vì chúng ta.
Giăng 12:31 chép: “Hiện nay có sự xét đoán thế gian này, hiện nay bá chủ của thế gian này bị đuổi ra”. Khi nói những lời này, Chúa Jesus nói về cái chết sắp đến trên thập tự giá của Ngài. Chúa phán rằng thời điểm Ngài chịu đóng đinh sẽ là thời điểm phán xét Sa-tan, vì Satan là bá chủ của thế gian này, sự phán xét hắn được công b trong Giăng 12:31. Chính Jesus bị treo trên thập tự giá, nhưng theo cách nhìn Đức Chúa Trời, Sa-tan bị phán xét tại đó. Vì vậy, Hê-bơ-rơ 2:14 nói rằng nhờ sự chết, Đấng Christ hủy diệt kẻ có quyền lực của sự chết, là Ma Quỉ, tức Sa-tan. Đấng Christ hủy diệt Sa-tan bởi sự chết của Ngài trong xác thịt trên thập tự giá. Trên thập tự giá, Đấng Christ “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)” không những là sự thay thế cho tội nhân, cất đi mọi tội của họ, mà còn bị đóng đinh dưới hình dạng của con rắn, hoàn toàn hủy diệt Sa-tan, là ma quỉ.
Do xác thịt của tội, Luật của Đức Chúa Trời bị yếu đuối. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải xử lý cả xác thịt lẫn tội. Ngài sai Con Ngài đến “trong hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)”, tức là trong hình dạng của con rắn. Đấng Christ đem xác thịt này lên thập tự giá và đóng đinh nó tại đó. Mọi hữu thể trong thế giới thuộc linh, các thiên sứ và các ác linh, đều biết ý nghĩa của điều này. Khi vào cõi đời đời, chúng ta sẽ nhìn lại và nói: “Bây giờ, tôi mới hiểu Sa-tan đã bị giày đạp qua xác thịt của Đấng Christ trên thập tự giá là như thế nào”. Sa-tan bị giày đạp, bị hủy diệt qua chính xác thịt mà Đấng Christ đã mặc lấy, vì xác thịt ấy ở dưới hình dạng con rắn. Khi xác thịt ấy bị đóng đinh trên thập tự giá, Sa-tan bị giày đạp và bị hủy diệt.
La-mã 8:3 không những nói Đức Chúa Trời sai Con Ngài “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)”, mà Ngài cũng sai Con Ngài đến “vì tội”. Một s bản Kinh Thánh dịch “vì tội” là “như một của lễ cho tội”, lấy từ liệu tội ở đây để chỉ về của lễ chuộc tội. Sự diễn dịch này tuy không sai, nhưng chưa chuyển đạt tư tưởng cách đầy đủ. Phao-lô có ý nói Đức Chúa Trời sai Con Ngài, không những “lấy hình trạng của xác thịt của tội”, mà còn “vì tội”, tức là vì mọi điều liên quan đến tội, để Ngài có thể lên án tội và mọi điều liên quan đến tội. Mọi điều gắn liền với tội đều bị định tội trong xác thịt của Đấng Christ trên thập tự giá. Đừng bao giờ quên rằng tội là bản chất của Sa-tan. Bản chất của Sa-tan, tức là tội, ở trong xác thịt, và Đấng Christ mặc lấy xác thịt này, trong đó tội, tức là bản chất của Sa-tan, cư trú. Sau đó, Đấng Christ đem xác thịt này lên thập tự giá và đóng đinh xác thịt. Do đó, cả tội và Sa-tan đều bị định tội.
Sa-tan hăm hở và vui mừng vào trong thân thể con người, là thân thể đã trở nên xác thịt sau khi hn bước vào, và hắn hài lòng vì có một nơi ở. Bất kể khôn ngoan đến đâu, Sa-tan cũng không bao giờ có thể trội hơn Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời khôn ngoan hơn nhiều, Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến trong hình trạng của xác thịt mà Satan đang trong đó, và định tội xác thịt trên thập tự giá. Dường như Sa-tan nghĩ: “Bây giờ, ta vào được trong thân thể con người”. Tuy nhiên, Sa-tan không nhận biết đó là một cái bẫy. Khi Sa-tan ăn miếng mồi, hắn đã mắc bẫy. Chúng ta có thể lấy bẫy chuột để minh họa. Khó bắt được chuột vì chúng luôn luôn bỏ chạy. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng bẫy với một ít mồi. Vì mun chiếm lấy miếng mồi, con chuột đã vào trong cái bẫy. Sau đó nó mắc bẫy, và người ta có thể dễ dàng đè bẹp nó. Cũng vậy, Sa-tan đã bị mắc bẫy, và bị giày đạp trong xác thịt của Đấng Christ trên thập tự giá. Khi làm như vậy, Đức Chúa Trời giải quyết hai nan đề cùng một lúc: Ngài giải quyết nan đề tội và nan đề xác thịt của tội. Đức Chúa Trời đã giải quyết nan đề tội mà tội là bản chất của Sa-tan và bắt nguồn từ Sa-tan, và cũng giải quyết nan đề xác thịt. Ngợi khen Chúa!
E. Đòi Hỏi Công Chính Của Kinh Luật Được Thực Hiện
La-mã 8:4 chép: “Hầu cho điều nghĩa mà Kinh Luật buộc được thành tựu trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Linh (RcV: linh)”. Sự kiện 8:3 chấm dứt với một dấu phẩy ngụ ý rằng điều được thực hiện trong câu ấy là cho câu tiếp theo. Đức Chúa Trời kết án tội trong xác thịt để đòi hỏi công chính của Kinh Luật được thực hiện trong chúng ta. Vì cớ xác thịt, Luật của Đức Chúa Trời không thể được thực hiện, Vì vậy, Đức Chúa Trời sai Con Ngài “lấy hình trạng của xác thịt tội lỗi (nguyên văn: xác thịt của tội)” và kết án tội, giải quyết nan đề gồm hai mặt là tội và xác thịt, để đòi hỏi công chính của Kinh Luật được thực hiện trong chúng ta. “Chúng ta” chỉ về những ai “chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo linh”. Điều Phao-lô viết thật kỳ diệu.
Trong 8:2, ông đề cập đến Thánh Linh, và trong 8:4, ông không những đề cập đến Thánh Linh, mà hơn thế nữa còn đề cập đến nhân linh. Thánh Linh là Linh Sự Sng, và nhân linh được Thánh Linh cư ngụ và hòa quyện, chính là linh mà chúng ta phải bước theo. Thánh Linh sự sống ở trong nhân linh. Nếu bước đi theo linh hòa quyện này, mọi đòi hỏi công chính của Kinh Luật sẽ tự phát được thực hiện. Chúng ta không cần giữ Kinh Luật. Những đòi hỏi của Kinh Luật được thực hiện cách tự phát bởi luật của Linh Sự Sống.
F. Tâm Trí Là Chìa Khóa
Câu tiếp theo giải thích thêm: “Vì kẻ ở theo xác thịt thì chí hướng về những sự thuộc xác thịt, còn kẻ ở theo Linh (RcV: linh) thì chí hướng về những sự thuộc Linh”. Sau khi đề cập đến Linh Sự Sống và nhân linh hòa quyện với Thánh Linh, Phao-lô nói đến tâm trí. Trước đó Phao-15 đã đề cập đến tâm trí trong 7:25: “Chính mình tôi lấy tâm trí phục Luật của Đức Chúa Trời... Cụm từ “chính mình tôi lấy tâm trí” cho thấy tâm trí trong 7:25 độc lập. Tâm trí trong chương 8 thì khác; đó là tâm trí đặt nơi những điều thuộc về Linh. Trong La-mã chương 7, tâm trí đi ra để hành động độc lập; trong La-mã chương 8, tâm trí quay về nương dựa trên linh, không còn tự hành động nữa.
Tâm trí có địa vị của một người vợ. Cách sống khôn ngoan nhất của một người vợ là không hành động độc lập mà đến với chồng. Nếu gặp khó khăn, người vợ không nên giải quyết một mình mà nên nói với chồng. Trong La-mã chương 7, tâm trí hành động độc lập, một người vợ cư xử như người chồng. Trong La-mã chương 8, tâm trí duy trì địa vị làm vợ, không còn tự hành động, nhưng luôn quay về với chồng. Tâm trí trong chương 8 nói: “Chồng linh yêu quí ơi, em nên làm gì?” “Chồng linh” trả lời: “Vợ yêu quí ơi, em không cần làm gì cả. Anh sẽ lo liệu cho”. La-mã chương 7 và 8 cho thấy rằng cùng một tâm trí có thể có hai hành động khác nhau. Trong chương 7, tâm trí hành động độc lập với một địa vị sai, tự tác như người chồng. Trong chương 8, tâm trí trở nên người vợ đúng đắn, duy trì địa vị đúng đắn và quay về nương dựa nơi chồng mình là linh.
Chúng ta kết luận với 8:6: “Vì tâm trí đặt nơi xác thịt là sự chết, nhưng tâm trí đặt nơi linh là sự sống và bình an” (RcV). Qua câu này, chúng ta có thể thấy rằng ngay cả tâm trí cũng có thể là sự sng. Tâm trí độc lập không thể giữ Luật của Đức Chúa Trời, nhưng tâm trí đặt nơi linh là sự sống và bình an. Một tâm trí như vậy đầy dẫy sự vui hưởng và an nghỉ. Sự bình an là để an nghỉ còn sự sống là để vui hưởng. Khi tâm trí đặt nơi linh thì không có sự thất bại, sự định tội, hay những cảm xúc tiêu cực, mà chỉ có sự sống, bình an, vui hưởng và an nghỉ. Chính tâm trí không thể tự giữ Luật của Đức Chúa Trời lại có thể là tâm trí của sự sống và bình an bởi được đặt nơi linh.
Đây không phải là lý thuyết mà có hiệu quả thực tế. Nếu thực hành điều này, anh em sẽ tự mình phát hiện. Phao-lô không viết La-mã chương 8 theo lý thuyết, nhưng theo kinh nghiệm của ông. Kinh Luật được thực hiện cách tự phát là điều dễ dàng. Thật ra, thậm chí chúng ta không cần tự mình làm điều đó, vì Kinh Luật sẽ được thực hiện trong chúng ta cách tự phát và trong tiềm thức. Mặc dầu không có ý định thực hiện Kinh Luật, nhưng chúng ta thấy Kinh Luật được thực hiện. Có thể anh em không c ý yêu vợ, nhưng anh em yêu vợ cách vô thức. Có lẽ chị em không ý thức là phải thuận phục chồng, nhưng chị em hoàn toàn thuận phục cách vô thức. Đó là tự phát, tự động thực hiện đòi hỏi của Kinh Luật bằng cách đặt tâm trí nơi linh.
Trong cả 7:25 lẫn 8:6,  dầu độc lập hay lệ thuộc nơi linh, tâm trí vẫn đại diện cho chính con người. Cho nên khi tâm trí độc lập với linh, có nghĩa là con người tự hành động, không nương dựa nơi linh. Nhưng khi tâm trí lệ thuộc linh, con người không tự hành động, mà nương cậy nơi linh. Vì vậy, tâm trí đặt nơi linh có nghĩa là cả bản thể mình đặt nơi linh và hành động theo linh. Khi Đấng Christ, hiện nay là Linh Ban Sự Sống, cư ngụ trong linh chúng ta để làm sự sng và mọi sự của chúng ta thì chúng ta không còn tự hành động theo tâm trí độc lập nữa. Chúng ta phải giữ cho tâm trí hiệp một với linh và hành động, bước đi, tồn tại theo linh để được thoát khỏi luật của tội và khỏi xác thịt, và để có thể tự phát thỏa đáp đòi hỏi công chính của Luật Đức Chúa Trời. Đổ là thoát khỏi luật của tội và sự chết bởi luật của Linh Sự Sống trong Đấng Christ. Điều này cũng để vui hưởng Đấng Christ Nội Cư là sự sng và nguồn cung ứng sự sng của chúng ta.