Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

LA-MÃ BÀI SÁU



GƯƠNG MẪU VỀ SỰ XƯNG CÔNG CHÍNH
Tôi yêu thích Sách La-mã vì Sách này được viết cách vững chắc và thiết thực. Mặc dầu đề cập đến nhiều giáo lý, nhưng Sách này thật ra được viết theo sự kiện và kinh nghiệm. Sách La-mã dựa trên kinh nghiệm. Xưng công chính dường như là một vấn đề giáo lý, nhưng kèm theo giáo lý về xưng công chính, sứ đồ Phao-lô đã cho chúng ta một gương mẫu sống động về điều này-con người Áp-ra-ham (4:1-25). Trong bài này, chúng ta sẽ xem xét Áp-ra-ham, gương mẫu của sự xưng công chính. Ông là tấm gương của chúng ta, khuôn mẫu của chúng ta. Tên Áp-ra-ham có nghĩa là “cha của nhiều người”. Theo Kinh Thánh, Áp-ra-ham là cha của cả người Do-thái lẫn tín đồ dân Ngoại (La. 4:11-12,16-17; Ga. 3:7-9,29). Bất cứ ai có đức tin, dầu là người Do-thái hay dân Ngoại, đều là con cháu của Áp-ra-ham.
I. NGƯỜI ĐƯỢC KÊU GỌI
Áp-ra-ham là người được kêu gọi. A-đam được tạo nên, nhưng Áp-ra-ham được kêu gọi. Có một khác biệt lớn giữa việc được tạo nên và được kêu gọi. Sách Sáng Thế Ký được chia làm hai phần chính: phần thứ nhất gồm mười chương rưỡi đầu, thuật lại lịch sử của dòng dõi thọ tạo, với A-đam là cha và đầu; phần hai từ giữa chương mười một đến cuối Sách, thuật lại lịch sử của dòng dõi được kêu gọi, với Áp-ra-ham là cha và đầu. Như được ghi lại trong Sáng Thế Ký, lịch sử của dòng dõi thọ tạo kết thúc với sự xây dựng tháp và thành Ba-bên (trong tiếng Hi-lạp là Ba-by-lôn). Tên của các hình tượng được viết trên tháp này, nghĩa là cả dòng dõi thọ tạo đã quay sang thờ lạy hình tượng. Do đó, Phao-lô nói nhân loại đã đi Đức Chúa Trời lấy hình tượng (1:23,25).

Phao-lô viết La-mã chương 1 theo lịch sử được thuật lại trong Sáng Thế Ký. Bắt dầu vào thời Ca-in, con người đã từ chối nắm lấy Đức Chúa Trời trong sự hiểu biết đầy đủ và từ bỏ Ngài. Nhân loại từ bỏ Đức Chúa Trời và xây thành Hê-nóc, là nền văn hóa đầu tiên của nhân loại như được ghi lại trong Sáng Thế Ký chương 4. Với nền văn hóa ấy, nhân loại đã sa vào tình trạng bại hoại và tiếp tục ở trong tình trạng ấy cho đến khi Đức Chúa Trời phán xét họ bằng một trận lụt. Bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, tám người được cứu nhờ chiếc tàu, tượng trưng cho Đấng Christ. Số 8 là con số phục sinh, ngụ ý rằng những người này được cứu và được gìn giữ trong sự phục sinh. Theo một ý nghĩa, Nô-ê là đầu của dòng dõi mới. Tuy nhiên, không bao lâu sau, tại Ba-bên trong Sáng Thế Ký chương 11, con cháu Nô-ê cũng từ bỏ Đức Chúa Trời. Khi họ đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng, họ đã hoàn toàn từ bỏ Ngài. Trước trận lụt, loài người chưa hoàn toàn từ bỏ Đức Chúa Trời; sau đó, bởi dòng dõi Nô-ê là những người sa vào thờ lạy hình tượng, loài người mới hoàn toàn từ bỏ Đức Chúa Trời.
Gian dâm theo sau thờ lạy hình tượng. Sau tháp Ba-bên, Sô-đôm xuất hiện. Sô-đôm là một thành phố gian dâm. Trong Anh Ngữ, chúng ta có từ sodomy sodomites, có nghĩa là những hành động gian dâm đáng xấu hổ nhất. Dân cư thành Sô-đôm đã vi phạm chính bản chất của mình và gây nên rối loạn lớn. Vào thời điểm Sáng Thế Ký chương 19, [bởi] đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng, nhân loại đã sa vào kê gian. Hậu quả là mọi đồi bại bộc phát.
Đó là bối cảnh của La-mã chương 1. La-mã chương 1 được viết theo lịch sử sa ngã của loài người: không chịu nắm lấy Đức Chúa Trời, đã đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng, sa vào gian dâm, và sinh ra mọi loại gian ác.
Trong quá trình sa ngã kinh khủng ấy, nhân loại đã đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng và hoàn toàn từ bỏ Ngài. Do đó, Đức Chúa Trời cũng từ bỏ loài người. Dường như Đức Chúa Trời phán: “Vì các ngươi từ bỏ Ta, nên Ta sẽ bỏ mặc các ngươi”. Dòng dõi thọ tạo từ bỏ Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời cũng từ bỏ dòng dõi thọ tạo.
Tuy nhiên, từ trong dòng dõi này, Đức Chúa Trời kêu gọi một người cùng với vợ người ấy. Đức Chúa Trời không có ý định kêu gọi một người thứ ba. Ý định của Ngài là kêu gọi một con người trọn vẹn, bao hàm một người đàn ông và vợ người ấy. Nếu là một người nam chưa có gia đình, anh em chưa trọn vẹn. Không có vợ, anh em là một người chưa trọn vẹn; anh em cần có vợ bổ túc cho mình. Anh em cùng với vợ mình là một thực thể trọn vẹn. Vì vậy, Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham cùng với vợ ông như một con người trọn vẹn.
Có lẽ chúng ta nghĩ chính mình không được tuyệt đối lm cho Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, chính Áp-ra-ham là tổ phụ và gương mẫu đức tin của chúng ta cũng không tuyệt đối. Khi được Đức Chúa Trời kêu gọi lìa khỏi U-rơ, xứ Canh-đê, không những ông đem theo vợ, mà còn đem theo những người bà con khác nữa.
Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham bằng cách hiện ra với ông như là Đức Chúa Trời Vinh Hiển (Công. 7:2-3). Đức Chúa Trời không kêu gọi ông bằng những lời nói suông: Ngài kêu gọi ông bằng vinh hiển của Ngài, Áp-ra-ham thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời và được thu hút.
Kinh nghiệm của chúng ta cũng tương tự như vậy. Theo một ý nghĩa, chúng ta cũng đã thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời. Khi nghe Phúc Âm và được Phúc Âm thẩm thâu, chúng ta thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời. Anh em không thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời vào lúc được cứu sao? Tôi thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời khi còn là một thanh niên đầy tham vọng. Tôi không có ý định tiếp nhận Đức Chúa Trời, nhưng khi Phúc Âm xuyên thấu vào trong tôi, tôi không thể không nói: “Đức Chúa Trời ơi, con muốn Ngài”. Tôi không thể phủ nhận rằng vinh hiển của Đức Chúa Trời đã hiện ra với tôi. Kinh nghiệm ấy không thể định nghĩa được. Không lời nào của loài người có thể mô tả đầy đủ những gì chúng ta đã thấy khi Phúc Âm xuyên thấu bản thể mình. Chúng ta chỉ có thể nói Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra với chúng ta, thu hút chúng ta và kêu gọi chúng ta. Giống như Áp-ra-ham, chúng ta được Đức Chúa Trời Vinh Hiển kêu gọi.
Áp-ra-ham cũng giống như chúng ta. Không nên nghĩ mình khác với Áp-ra-ham. Chúng ta không nên xem Áp-ra-ham quá cao và coi nhẹ chính mình, vì tất cả chúng ta đều trên cùng một mức độ. Tất cả chúng ta đều là Áp-ra-ham. Áp-ra-ham không phi thường. Tôi nghe câu chuyện Áp-ra-ham khi còn bé, tôi nghĩ ông thật phi thường. Tuy nhiên, những năm sau đó, khi đọc Lời, tôi nhận biết Áp-ra-ham và tôi không khác nhau lắm, chúng tôi hầu như ging nhau. Mặc dầu được Đức Chúa Trời kêu gọi nhưng Áp-ra-ham không dạn dĩ lìa khỏi xứ thờ hình tượng, bắt buộc Đức Chúa Trời phải dùng cha ông đem ông ra khỏi U-rơ. Áp-ra-ham là người được kêu gọi, nhưng cha ông lại khởi xướng việc ra đi. Họ lìa khỏi U-rơ thuộc xứ Canh-đê và cư ngụ tại Cha-ran. Tuy nhiên, khi Áp-ra-ham vẫn không đủ dạn dĩ để theo Đức Chúa Trời cách tuyệt đối thì Đức Chúa Trời buộc phải cất cha ông đi. Cha ông qua đời tại Cha-ran, và Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham lần thứ hai.
Lần thứ nhất Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham được ghi lại trong Công Vụ 7:2-4; lần thứ hai Đức Chúa Trời kêu gọi ông được tìm thấy trong Sáng Thế Ký 12:1. Chúng ta nên lưu ý đến sự khác biệt giữa hai lần kêu gọi. Theo Công Vụ 7:2, Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham ra khỏi hai điều là quê hương và bà con. Theo Sáng Thế Ký 12:1, một điều khác được thêm vào là nhà cha ông. Sự kêu gọi lần đầu đòi hỏi Áp-ra-ham lìa quê hương và dân tộc ông; sự kêu gọi lần thứ hai yêu cầu ông lìa quê hương, bà con và nhà cha mình. Áp-ra-ham và vợ ông phải ra đi một mình. Đức Chúa Trời cất cha của Áp-ra-ham đi, và Ngài không muốn ông đem theo một người bà con nào cả.
Nếu xem xét những gì Áp-ra-ham làm, chúng ta sẽ nhận thấy mình không phải là người duy nhất không tuyệt đối vâng phục sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta là người đầu tiên đi theo Đức Chúa Trời cách không tuyệt đối. Ông cảm thấy cô đơn. Ông không muốn ra đi một mình. Do đó, ông đem theo cháu trai là Lót. Điều này vi phạm sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Mặc dầu Áp-ra-ham đáp lại sự kêu gọi của Chúa, nhưng sự đáp lại của ông ít nhất là phần nào không vâng phục sự kêu gọi ấy. Cũng vậy, hầu như tất cả chúng ta đã đáp lại sự kêu gọi của Đức Chúa Trời; nhưng trong sự đáp lại đó, chúng ta hành động ngược lại với sự kêu gọi của Ngài. Không ai trong chúng ta đã đáp lại sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cách tuyệt đối. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thì tuyệt đối. Dầu chúng ta không tuyệt đối, nhưng Đức Chúa Trời vẫn hoàn thành sự kêu gọi của Ngài.
Áp-ra-ham yêu thương Lót. Đức Chúa Trời dùng Lót để kỷ luật Áp-ra-ham. Cuối cùng, Lót phân rẽ Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham theo sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cách tuyệt đối. Ông không còn cha hay cháu. Ông còn lại một mình với vợ. Ông đã lìa khỏi quê hương, bà con và nhà cha mình. Tuy nhiên, Áp-ra-ham phải lìa khỏi một điều nữa là chính ông. Ông đã giữ lại chính mình.
Chúng ta biết Áp-ra-ham vẫn bám lấy chính mình bởi phản ứng của ông trước lời đề nghị của Sa-ra về việc có con với A-ga. Mặc dầu lời đề nghị này được đưa ra với ý định tốt, nhưng ngược với sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham lẽ ra phải biện biệt và không nên nghe theo vợ. Lời đề nghị của Sa-ra là một thử nghiệm để chứng minh Áp-ra-ham vẫn ở trong bản ngã cũ kỹ của mình, phần ấy của ông vẫn còn trong sáng tạo cũ. Tuy nhiên, ý định của Đức Chúa Trời là kêu gọi Áp-ra-ham hoàn toàn ra khỏi mọi phần của sáng tạo cũ “không những ra khỏi quê hương, bà con và nhà cha mình, mà còn ra khỏi chính ông. Dường như Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham rằng: “Ngươi không nên làm gì cả. Ngươi phải ra khỏi chính mình. Ta sẽ làm mọi sự cho ngươi. Nhưng Ta không thể làm gì được khi ngươi còn ở trong chính mình”. Tuy nhiên, Áp-ra-ham đã hành động theo lời Sa-ra đề nghị, và hậu quả là ích-ma-ên. Đó là một lỗi lầm nghiêm trọng, và người Do-thái vẫn tiếp tục chịu khổ do lỗi lầm này. Tại sao Áp-ra-ham lại phạm một lỗi lầm như vậy? Vì ông vẫn ở trong chính mình. Ông đã từ bỏ nhiều điều khác, nhưng ông chưa từ bỏ chính mình.
Áp-ra-ham lìa khỏi chính mình khi nào? Ông lìa khỏi chính mình khi được 100 tuổi, vào thời điểm ấy ông kể chính mình như đã chết. Chắc chắn mọi người chết đều ra khỏi chính mình. Vào tuổi 100, Áp-ra-ham nhìn vào chính mình và nói: “Tôi chấm dứt rồi. Tôi như người đã chết”. La-mã 4:19 chép: “Người nhìn thấy thân thể mình dường như đã chết rồi”. Điều này cho thấy cuối cùng, ông đã ra khỏi chính mình. Ông trở nên một người hoàn toàn được kêu gọi. Không phải anh em đã được kêu gọi sao? Mặc dầu là một người được kêu gọi, nhưng anh em chưa từ bỏ chính mình.
Như chúng ta đã thấy, dòng dõi thọ tạo đã sa sút đến mức đổi Đức Chúa Trời lấy hình tượng. Đức Chúa Trời không thể làm gì với họ. Theo Đức Chúa Trời, dòng dõi thọ tạo dưới quyền làm đầu của A-đam là vô vọng, Ngài hoàn toàn từ bỏ họ. Tuy nhiên, từ trong dòng dõi thọ tạo và sa ngã ấy, Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham làm cha và đầu của dòng dõi mới, là dòng dõi được kêu gọi. Chúng ta thuộc về dòng dõi nào-dòng dõi thọ tạo hay dòng dõi được kêu gọi? Chúng ta thuộc về dòng dõi được kêu gọi. Tuy nhiên, chúng ta giống như tổ phụ Áp-ra-ham của mình. Giống như ông, chúng ta đáp ứng sự kêu gọi của Chúa từng bước một chứ không tuyệt đối. Tất cả chúng ta đều đang ở trong tiến trình đáp ứng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Bất kể anh em yếu đuối đến đâu, tôi bảo đảm rằng cuối cùng, anh em cũng sẽ được gọi ra. Tuy nhiên, anh em nên mau chóng đáp ứng sự kêu gọi của mình và từ bỏ mọi sự không phải là chính Đức Chúa Trời. Anh em chuyển động càng nhanh, càng tốt. Tôi khích lệ anh em tiến nhanh lên. Hãy ra khỏi mọi sự không phải là Đức Chúa Trời.
II. NGƯỜI TIN
Dòng dõi được kêu gọi trở nên dòng dõi tin. Áp-ra-ham trước hết là người được kêu gọi, sau đó là người tin. Ông đã từ bỏ mọi sự và không có cách nào tiến bước ngoại trừ tin cậy Đức Chúa Trời. Ông tin cậy Đức Chúa Trời vì không biết mình sẽ đi đâu. Đức Chúa Trời chỉ mới bảo ông lìa khỏi quê hương, bà con và nhà cha ông. Ngài không bảo Áp-ra-ham đi đâu, bắt buộc ông phải tin cậy Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham có thể nói: “Tôi chỉ tin cậy Đức Chúa Trời. Tôi đi bất cứ nơi nào Ngài dẫn dắt tôi”. Nếu nghiên cứu lịch sử của Áp-ra-ham, chúng ta sẽ nhận thấy đời sống của ông là một đời sống tin cậy, một đời sng đức tin. Đức Chúa Trời không mong Áp-ra-ham làm gì cả. Dường như Đức Chúa Trời phán với ông: “Áp-ra-ham, ngươi đã được Ta kêu gọi. Đừng làm gì cả. Ta sẽ làm mọi sự cho ngươi. Chỉ hãy cứ ở với Ta. Khi Ta chuyển động, ngươi chuyển động. Ngươi phải đi bất cứ nơi nào Ta đi. Đừng làm gì cho chính mình hay bởi chính mình”. Đó là ý nghĩa của sự tin cậy Đức Chúa Trời.
Nhiều người đã có ấn tượng sai rằng tin Chúa Jesus đơn giản là nói: “Chúa Jesus ơi, con tin Ngài. Con nhận Ngài làm Đấng Cứu Rỗi của con”. Điều đó đúng, nhưng ngụ ý của điều đó thật mênh mông. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải kết liễu chính mình, thừa nhận mình không là gì cả, không có gì cả và không thể làm gì cả. Mỗi bước đi và mỗi giây phút, chúng ta phải tin cậy Ngài. Tôi không biết làm mọi điều như thế nào; tôi chỉ biết cách tin cậy Chúa tôi. Tôi đã được kêu gọi ra khỏi mọi sự không phải là Đức Chúa Trời, và bây giờ tôi tin vào mọi sự nào là Đức Chúa Trời. Tôi tin Ngài và tôi tin tất cả những gì Ngài đã hoàn thành cho tôi. Tôi tin những gì Ngài có thể làm cho tôi và những gì Ngài sẽ làm cho tôi. Tôi đặt lòng tin trọn vẹn nơi Ngài. Đó là chứng cớ của dòng dõi được kêu gọi và tin cậy. Là con cháu của Áp-ra-ham, tổ phụ đức tin, chúng ta là những người tin (Ga. 3:7-9).
A. Đức Chứa Trời
Là Đấng Gọi Những Sự Không Có Như Đã Có
Áp-ra-ham tin một Đức Chúa Trời như thế nào? Đức Chúa Trời mà chúng ta tin là ai? Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham tin là Đấng gọi những sự không có như đã có (4:17). Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham gọi những điều không hiện hữu như hiện hữu, nghĩa là Ngài sáng tạo những điều từ chỗ không có gì cả. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Áp-ra-ham tin vào một Đức Chúa Trời như vậy và áp dụng Ngài cho tình cảnh của mình. Theo một ý nghĩa, Áp-ra-ham không thể sinh ra một người thừa kế. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời gọi Y-sác là đã có. Mặc dầu Y-sác chưa hiện hữu, nhưng Đức Chúa Trời gọi ông ấy như đã hiện hữu. Khi Y-sác chưa hiện hữu và khi Y-sác không thể hiện hữu, Đức Chúa Trời tuyên bố: “Sẽ có một Y-sác. Y-sác ra đời: Đức Chúa Trời gọi một điều gì đó không có như đã có. Chúng ta phải tin chính Đức Chúa Trời này, vì Ngài là Đấng Tạo Hóa toàn năng, tức Đấng gọi những điều không hiện hữu như đã hiện hữu.
B. Đức Chúa Trời
Là Đấng Ban Sự sống Cho Kẻ Chết
Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham tin là Đức Chúa Trời ban sự sng cho kẻ chết (4:17). Điều này có nghĩa là Đức Chứa Trời có thể làm cho kẻ chết sng lại. Áp-ra-ham kinh nghiệm điều này khi Đức Chúa Trời yêu cầu ông dâng Y-sác. Áp-ra-ham vâng lời. Khi Áp-ra-ham dâng Y-sác, ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm cho Y-sác từ kẻ chết sống lại (Hê. 11:17-19). Ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban sự sng cho con ông, và ông sẽ được lại con mình trong sự phục sinh.
Chúng ta cần tin Chúa Jesus ging như vậy. Chúng ta tin Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là Đấng gọi những điều không có như đã có. Chúng ta cũng tin Ngài là Đấng Ban Sự Sống, Đấng có thể làm cho kẻ chết sng lại. Ngài có thể sáng tạo từ chỗ không có gì, và Ngài có thể ban sự sng cho kẻ chết.
Chúng ta có thể áp dụng điều này cho nếp sng Hội Thánh. Có thể anh em cảm thấy tình trạng Hội Thánh địa phương của mình nghèo nàn. Vâng, tình trạng Hội Thánh anh em rất nghèo nàn, thật ra Hội Thánh ấy không có gì cả. Anh em phải nói với Chúa rằng: “Chúa ơi, xin Ngài đến gọi những điều không có như đã có”. Có lẽ anh em di trú đến một địa phương nào đó và thấy nơi ấy đầy dẫy sự chết. Đó là lý do Đức Chúa Trời sai anh em. Anh em phải tin Ngài là Đấng ban sự sống cho kẻ chết.
Vào năm 1949, tôi được sai đến Đài Loan. Tôi cho rằng hòn đảo ấy là một vùng lạc hậu. Tôi đã sống và công tác tại Thượng Hải, thành phố lớn nhất Viễn Đông, là nơi công việc Chúa đang mạnh mẽ. Một ngàn thánh đồ nhóm họp với nhau. Chúng tôi có mười bảy nhà nhóm và bn ấn phẩm định kỳ. Thình lình tôi bị chuyển khỏi Hoa Lục và được sai đến đảo Đài Loan nhỏ bé. Khi xem xét tình hình, tôi thất vọng sâu xa. Tôi không thể làm gì cả, và tôi không muốn làm gì cả. Tôi không cảm thấy hứng thú khi công tác ở một xứ sở lạc hậu và dân chúng nghèo nàn. Tôi nằm trên giường, nhìn lên trần nhà và tự nhủ: “Ngươi làm gì đây? Tại sao ngươi đến đây?” Rồi tôi quay sang hỏi vợ tôi: “Tại sao chúng ta đến đây? Chúng ta có thể làm gì?” Tôi rất bối rối, và vợ tôi không có lời nào giúp đỡ tôi. Một ngày nọ, Đức Chúa Trời là Đấng gọi những sự không có như đã có và là Đấng ban sự sống cho kẻ chết chạm đến lòng tôi, bảo tôi đừng thất vọng. Sau đó, tôi có gánh nặng cho công tác tại Đài Loan. Chưa đầy 5 năm, chúng tôi gia tăng từ 350 người đến 20 ngàn người. Trong năm đầu tiên, chúng tôi gia tăng gần như gấp 30 lần. Nhiều người được cứu trong thời gian ấy bây giờ là đồng công.
Chúng ta phải tin Đức Chúa Trời là Đấng gọi những sự không có như đã có và là Đấng ban sự sống cho kẻ chết. Đừng tht vọng về tình cảnh tại địa phương của anh em. Đừng nói mọi sự thật nghèo nàn và chết chóc. Một nơi như vậy thích hợp cho anh em và thích hợp cho Đức Chúa Trời. Nơi ấy nghèo nàn ư? Anh em có một Đức Chúa Trời giàu có là Đấng gọi những sự không có như đã có. Nơi ấy chết chóc ư? Anh em có một Đức Chúa Trời hằng sống là Đấng ban sự sng cho kẻ chết. Hoàn cảnh của anh em tạo cho Đức Chúa Trời cơ hội bước vào và truyền sự sng cho kẻ chết. Đừng phàn nàn. Hãy kêu cầu Ngài và tin Ngài. Đừng thất vọng về tình trạng gia đình của mình. Đừng nói vợ mình tệ quá hay chồng mình chết chóc quá. Anh em càng nói như vậy, vợ anh em càng tệ. Chị em càng nói chồng mình chết chóc, anh ấy càng chết chóc hơn. Anh em phải công b: “Vợ tôi tệ nhưng Đức Chúa Trời của tôi không tệ. Chồng tôi chết chóc nhưng Đức Chúa Trời của tôi không chết chóc. Đức Chúa Trời mà tôi tin cậy là Đức Chúa Trời tạo nên mọi sự từ chỗ không có gì cả và Ngài ban sự sống cho kẻ chết. Đức Chúa Trời của tôi không ban sự sng cho người sng-Ngài ban sự sng cho kẻ chết. Tình trạng của tôi là cơ hội tuyệt hảo cho Đức Chúa Trời”.
III. ĐỨC TIN CỦA ÔNG ĐƯỢC KỂ LÀ CÔNG CHÍNH
Loại đức tin này được Đức Chúa Trời kể là công chính (4:3,22). Càng tin cậy Đức Chúa Trời như vậy, chúng ta càng cảm thầy Đức Chúa Trời hài lòng về mình. Đó là sự công chính Đức Chúa Trời đưc kể cho chúng ta như kết quả của đức tin chúng ta. Như chúng ta đã thấy trong bài trước, đức tin là chính Đấng Christ hằng sống. Khi Đấng Christ vào trong chúng ta như Đấng tin, Ngài là đức tin của chúng ta. Khi ấy Đức Chúa Trời kể đức tin của chúng ta là công chính. Do đó, chúng ta có cả đức tin lẫn sự công chính. Điều này có nghĩa là chúng ta đưc thêm Đấng Christ. Chúng ta có Ngài là đức tin và là scông chính của mình. Ngài là đức tin bởi đó chúng ta tin Ngài, và Ngài là sự công chính mà Đức Chúa Trời kể cho chúng ta. Ngài là mọi sự của chúng ta. Càng tin Ngài, chúng ta càng có thêm Ngài. Càng tin Ngài, Đức Chúa Trời càng ban Ngài cho chúng ta.                                                    
IV. SỰ CẮT BÌ ĐƯỢC NHN NHƯ DẤU ẤN
Đức tin được kể cho Áp-ra-ham như sự công chính không tùy thuộc vào hình thức cắt bì bề ngoài, vì sự cắt bì đến sau. Áp-ra-ham nhận dấu hiệu cắt bì như dấu ấn của sự công chính bởi đức tin mà ông đã có được khi chưa chịu cắt bì (4:11). cắt bì như một hình thức bề ngoài là dấu ấn của thực tại bề trong. Nếu không có thực tại, chúng ta nên quên hình thức bề ngoài đi. Nếu có thực tại, đôi khi chúng ta cần hình thức bề ngoài làm dấu ấn. Cắt bì là một dấu ấn như vậy đối với Áp-ra- ham. Hơn nữa, đó là dấu ấn đối với những tín đồ Dân Ngoại, tức người không chịu cắt bì, mà Áp-ra-ham cũng là tổ phụ của họ.
V. ĐƯỢC LẬP LÀM TỔ PHỤ CỦA ĐỨC TIN
Vì vậy, Áp-ra-ham tr nên tổ phụ của đức tin (La. 4:16; Gal. 3:7- 9,29). Ông là tể phụ của những người không chịu cắt bì có cùng đức tin (4:1) và tổ phụ của những người chịu cắt bì bước đi theo dấu chân của cùng một đức tin (4:12). Áp-ra-ham là tổ phụ của hai nhóm người “tín đồ Do-thái và tín đồ dân Ngoại. Nếu anh em tin Chúa, Áp-ra-ham là tổ phụ của anh em. Tất cả tín đồ trong Đấng Christ đều là con cháu của ông.
VI. LỜI HỨẠ ĐƯỢC BAN CHO ÔNG VÀ DÒNG DÕI
CỦA ÔNG ĐỂ LÀM NGƯỜI THỪA HƯỞNG THẾ GIỚI
Lời hứa được ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi của ông để họ làm người thừa hưởng thế giới (4:13). Đây là một vấn đề quan trọng. Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thừa hưởng Đức Chúa Trời, và họ cũng sẽ thừa hưởng thế giới. Hãy để người khác tranh giành quyền cai trị thế giới. Thế gii sẽ thuộc về chúng ta. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hãy để dân Ta sở hữu thế giới này”. Lời hứa này không được ban cho qua công việc của Kinh Luật, nhưng qua sự công chính của đức tin. Ai sẽ thừa hưởng trái đất? Những người đã được kêu gọi và tin Chúa Jesus, những người đã có Đấng Christ là đức tin và sự công chính của mình. Hãy tin chắc rằng thế giới sẽ thuộc về chúng ta. Chúng ta không cần tranh đấu hay gắng sức. Chúng ta chỉ cần tin vào những hành động quyền năng của Đức Chúa Trời. Mỗi ngày tôi đọc tin tức quốc tế để thấy những gì Đức Chúa Trời đang làm, đặc biệt tại Trung Đông. Thật tuyệt vời khi được sống trong thời đại này, một thời đại Đức Chúa Trời đang hành động. Đức Chúa Trời không những hành động vì người Do-thái, mà cũng vì chúng ta nữa. Một ngày kia, thế giới sẽ thuộc về tất cả những người thừa kế của Áp-ra-ham trong đức tin.
Anh em có tin điều này không? Tôi hoàn toàn tin rằng một ngày kia chúng ta sẽ thừa hưởng trái đất. Chúng ta nên mong đợi thừa hưởng thế giới. Kinh Thánh bảo đảm rằng chúng ta sẽ thừa hưởng thế giới. Chính Đấng Christ nôn nóng trở lại và phục hồi trái đất. Ngài quan tâm đến trái đất hơn các từng trời rất nhiều. Chúa sẽ trở lại để chiếm hữu trái đất không những cho chính Ngài, mà cũng cho chúng ta nữa. Chúng ta là những người thừa kế của lời hứa, và chúng ta sẽ thừa hưởng thế giới.
VII. BẰNG CHỨNG CHO SỰ XƯNG CÔNG CHÍNH
CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Bằng chứng cho sự xưng công chính của Đức Chúa Trời là Đấng Christ phục sinh (4:22-25). Tôi thích bài Thánh Ca được viết như sau:
Đức Chúa Trời Cha ơi, Ngài đã chấp nhận
Jesus làm Đấng Thay Thế cho chúng con;
Ngài đã phán xét Đấng Công Chính thay cho kẻ không công chính,
Có thể nào Ngài thay đổi thái độ?
Là bằng chứng cho sự chánh trực hoàn hảo,
Chúa ngồi bên tay hữu Ngài;
Là sự thỏa mãn trọn vẹn của Ngài,
Chúa đáp ứng nhu cầu của Ngài cách công chính.
Do đó, Đấng Christ phục sinh ngồi bên hữu Đức Chúa Trời là bằng chứng cho thấy chúng ta đã được xưng công chính. Là nền tảng để Đức Chúa Trời xưng công chính cho chúng ta, sự chết cứu chuộc của Đấng Christ đã được Đức Chúa Trời chấp nhận hoàn toàn, và Đấng Christ đã phục sinh từ kẻ chết là bằng chứng cho điều này. Đó là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời xưng công chính cho chúng ta.
Sự chết của Đấng Christ đã hoàn toàn đáp ứng và làm thỏa mãn những đòi hỏi công chính của Đức Chúa Trời để chúng ta được Đức Chúa Trời xưng công chính qua sự chết của Ngài (3:24). Sự phục sinh của Ngài là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời thỏa mãn với sự chết của Ngài vì chúng ta, rằng chúng ta đã được Đức Chúa Trời xưng công chính vì sự chết của Ngài, và rằng trong Ngài, là Đấng Phục Sinh, chúng ta được chấp nhận trưc mặt Đức Chúa Trời. Không những vậy, là Đấng Phục Sinh, Ngài cũng ở trong chúng ta để sng cho chúng ta một đời sống được Đức Chúa Trời xưng công chính và luôn luôn được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời. Vì vậy, La-mã 4:25 nói rằng Ngài được làm cho sống lại để chúng ta được xưng công chính.