Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

Các ân tứ có tính cách dấu hiệu thời đại đã rơi vào tình trạng không còn dùng đến.



Chúng ta nên xem xét ở đây rằng những người tôn giáo có khuynh hướng lựa chọn một giáo lí hay lẽ thật ưa chuộng nào đó và bám giữ sự thật đó dù cho có gây thiệt hại các nguyên lý cơ bản khác. Chúng ta có thể nhấn mạnh các lẽ thật quan trọng nào đó, nên che khuất sự thật quan trọng khác mà thực sự có thể làm chúng biến mất. Điều tôi ngụ ý là- một sự thật có thể bị biến mất - nó rơi vào tình trạng không còn sử dụng và do đó dễ bị lãng quên. Tôi sẽ minh họa điều này như sau.
Giả sử có một phím trên cây đàn piano không được gắn đúng cách và nó không phát ra âm thanh khi được nhấn xuống để chơi đàn. Nghệ sĩ dương cầm chắc chắn sẽ nhăn nhó khi anh ấy nhấn phím đó và không có gì xảy ra. Nếu bạn chụp ảnh bàn phím, phím đó đó còn ở đúng vị trí của nó trong bức ảnh, nhưng nó không tạo ra bất kỳ âm thanh nào dù bạn chạm vào cách thế nào đi nữa. Đó là một minh chứng cho điều tôi ngụ ý về một giáo lý cơ bản trong đức tin Cơ Đốc đã bị rơi vào tình trạng không còn sử dụng, đến nổi không còn được nói đến hoặc suy nghĩ hay giảng dạy nữa. Nếu bạn mở cuốn sách chép về kỷ luật, lời tuyên bố của giáo lý, vẫn còn ở chỗ của nó, nhưng ít người nhắc đến lẽ thật đó.

Nhưng nó không còn được chơi nữa - nó không còn nghe thấy nữa. Không có sự nhấn mạnh và không có sức mạnh, vì nó bị trượt qua và lãng quên. Đây là cách một lẽ thật Kinh Thánh cơ bản có thể rơi vào tình trạng không còn sử dụng, bởi vì có một số giáo lý nhất định đã được nhấn mạnh quá mức làm che khuất những lẽ thật khác. Sau đó, cuối cùng một vài vị tiên tri của Đức Chúa Trời phải đến và tái khẳng định những lẽ thật bị lãng quên, lại nhấn mạnh và thổi tiếng kèn báo động về chúng. Người đó được coi là kẻ dị giáo bởi vì ông rao giảng phân đoạn lẽ thật Kinh Thánh đã bị che khuất qua nhiều thế hệ. Nhưng giữa quần chúng đang càu nhàu, vị tiên tri của Đức Chúa Trời cứ kiên trì cho đến khi hội thánh tỉnh dậy, đọc được sự thật đó, đến nổi cảm giác cuộc sống như thể  được sống lại từ cõi chết.
Hội thánh ngày nay quá sức nhấn mạnh và ủng hộ độc quyền của đảng Ni cô la và che khuất chế độ tế lễ phổ thông của mọi tín đồ. Người ta quá chú trọng và thổi phòng vài trò giảng dạy độc quyền của đảng Ni cô la mà quên đi cách nhóm họp hỗ tương tương tác như 1 Cô rinh tô 14:26 chép.
Ở đây ông Tozer đang nói một cách sâu sắc. Ông Martin Luther là một ví dụ về điều này, ông ấy đã không phát minh ra một giáo lí mới nào, khi ông tuyên bố rằng chúng ta được xưng công bình bởi đức tin và không nhờ việc làm. Ông đã tái khám phá lẽ thật đó và trình bày nó cho một hội thánh mà từ lâu đã quên đi khía cạnh cơ bản và quan trọng bậc nhất này về những gì có nghĩa là được cứu. Nhiều thế kỷ trước đó, sự thật cơ bản nhất này đã bị biến mất trong lòng mộ đạo và giáo nghi. Từng thế kỷ nầy đến thế kỷ sau Cơ Đốc giáo giới từ từ trôi đi, mỗi thế hệ mất một cái gì đó từ thế hệ trước cho đến khi họ đã hoàn toàn trôi dạt khỏi sự thật.
Một khi họ đã hoàn toàn trôi dạt khỏi sự thật thì sau nhiều thế kỷ, người ta mới khẳng định và xác nhận lỗi lầm của họ. Rồi đến Martin Luther và khi ông ta đóng 95 luận đề vào cánh cửa một nhà thờ, toàn bộ Cơ Đốc giáo giới đều rung chuyển. Một cuộc cách mạng đẫm máu sau đó xảy ra khi những người cố nắm giữ các lỗi lầm theo truyền thống và có  tình trạng chiến đấu bằng sức mạnh của tất cả những gì họ có thể làm để chống lại vị linh mục mới nổi lên này, là con người không có tài khoản nào mà dám thách thức tôn giáo và lễ nghi của họ. Tôi tin rằng một cuộc cách mạng tôn giáo tương tự sẽ phải diễn ra để tái khám phá sự thật của 1 Cor 14:26 và cách chúng ta tương tác trong các buổi nhóm họp. Các ân tứ có tính cách dấu hiệu thời đại và mục đích của chúng để sửa đổi các thánh đồ cùng những người chưa được cứu và những người dốt nát lẽ thật, đã rơi vào tình trạng không còn sử dụng và đã bị lãng quên—đang được hồi sinh-