Có một giáo hội tự xưng mình là “Chứng Nhân Của Đức Jehovah”,
ngụ ý chỉ có họ là đại diện chính thức của Đức Gia-Vê trên trái đất.
Có một tạp chí của một giáo sư Kinh thánh, Theodore Austin
Spark, tại London, Anh quốc đã phát hành trên toàn cầu trong nửa sau thế kỉ 20
vừa qua, có nhan đề: A Witness and a testimony- “Chứng Nhân và Chứng cớ”.
Trong nguyên ngữ Hi lạp,
chữ martus (Khải 1:5, Công. 1:8) dịch là
chứng nhân và người tuận đạo. Vì martus có hai ý nghĩa: witness “chứng nhân” và
martyr “người tuận đạo”. Người chứng nhân của Chúa là người tuận đạo. Còn chữ marturia
dịch là “chứng cớ”, là bằng chứng, thực chứng. Chứng nhân ngụ ý tính cá nhân,
còn chứng cớ nói lên tập thể, cộng đồng các chứng nhân.
Khải huyền 1: 5 giới
thiệu Chúa Giê-su là Chứng Nhân thành tín của Đức Chúa Trời, còn Khải huyền
1:9 hàm ý giáo hội là “chứng cớ của
Giê-su”.
Trong Cựu ước, cái
rương giao ước của Chúa cũng được gọi là hòm chứng cớ. Cái hòm nầy là một tiêu
biểu quan trọng bậc nhất trong mọi tiêu biểu hay hình bóng trong Cựu ước.
Hôm nay tôi xin bàn luận
qua những cách giao tiếp của thánh dân Cựu ước đối với cái rương chứng cớ nầy
trong lịch sử của cái hòm, kể từ khi cái hòm ra đi từ đến tạm Si-lô đến khi nó
cư ngụ trong nhà của A-mi-na-đáp. Thời gian nầy kéo dài khoảng 107 năm.
Sách 1 Sa-mu-ên chương 4 kể lại thế nào hai con trai của thượng
tế Hê-li đã cẩu thả rước hòm thánh ra chiến trường, lợi dụng nó làm một loại vũ
khí, một Lá Bùa Hộ Mệnh để chống trả quân Phi-li-tin trong trận chiến. Kết quả
dân Israel bại trận, cái hòm thánh bị quân thù cướp lấy. Tiên tri Sa-mu-ên chép
lại rằng: dân “Phi-li-tin cướp được
rương giao ước của Đức Chúa Trời, họ khiêng rương từ Ê-bên Ê-xe về Ách-đốt”.
Thật ô nhục biết bao,
khi chứng cớ của Chúa, vinh quang của Ngài đã từ một thành phố Ê-bên Ê-xe có
mang tên Đức Chúa Trời (El) bị cầm tù, bị vùi dập vào chốn thờ ma lạy quỷ.
Nhạc trưởng A-sáp nói
tiên tri, “Đến nỗi Ngài bỏ chỗ ở tại Si-lô, Cái lều mà Ngài đã dựng lên giữa
loài người, Và phó sức mạnh của Ngài cho sự bị giam-cầm, Và vinh-quang của Ngài
vào trong tay cừu-địch” (Thi thiên 78:60-61).
Người ta muốn xóa bỏ những vết tích, những chứng cớ, những hiện
vật liên quan đến Chúa, về danh Giê-su Christ, nhưng trải nhiều thời đại con
người đã thất bại. Triết gia người Pháp là Voltaire sống vào đầu thế kỉ 18. Ông Voltaire nói rằng: “ trong 50 năm sắp đến,
loài người sẽ không còn đọc Kinh thánh nữa”. Nhưng trớ trêu thay, mấy mươi năm
sau khi ông phát biểu lời đó, ông đã chết, ngôi biệt thự của ông phải phát mãi,
và Chúa cho phép Thánh Kinh hội của Hội thánh tại Pháp quốc đã mua ngôi nhà ấy
để làm trụ sở của Thánh Kinh hội, in ấn và phát hành Kinh thánh Pháp ngữ, bán
cho dân Âu châu, Phi châu.
Trong mọi thời đại, con người có thể xóa bỏ những ngôi nhà giảng,
những giáo đường, những họ không thể tiêu diệt hết các chứng nhận, nhất là
không thể nào xóa nhòa, hay làm phai mờ Danh của Chúa Jesus Christ và chứng cớ
của Ngài trên trái đất.
Thánh đồ thời tiên tri
Sa-mu-ên đã có những kinh nghiệm liên quan cái rương chứng cớ như sau:
-- Vui mừng vì cái rương chứng cớ-
“Bấy giờ, dân Bết-Sê-mết
đang gặt lúa mì trong thung lũng, và họ ngước mắt mình lên, thấy cái rương, và
vui mừng thấy nó” (1
Sa-mu-ên 6:13).
Thi thiên 119:14 “Tôi vui mừng về đường chứng cớ Chúa, Như thể
vui mừng về của cải hiếm hiệm”
Châm ngôn 8:31 bày tỏ
về tấm lòng của Chúa Giê-su đối với chứng cớ của Đức Chúa Trời ở trên trái đất,
“Ta lấy làm vui vẻ về chỗ có người ở trên trái đất của Ngài, Và sự vui thích ta
ở nơi con cái loài người”.
Bạn có vui mừng khi gặp được một thánh đồ xa lạ, có hoan hỉ
khi tình cờ gặp một cộng đồng dân Chúa ở một nơi nào đó không?
--Không đứng nổi trước Nhan Chúa qua cái rương:
“Và các người ở Bết-Sê-mết nói: "Ai có thể đứng nổi trước
mặt Đức GIA-VÊ, Đức Chúa TRỜI thánh nầy? Và đến ai Ngài sẽ đi lên từ chúng
ta?" Thế là họ sai các sứ-giả đến cùng cư-dân ở Ki-ri-át-Giê-a-rim, nói: "Dân
Phi-li-tin đã đem trả lại rương của Đức GIA-VÊ; hãy xuống và lấy nó lên cùng
quý ông." (1 Sa. 6:20-21).
Dân Bết-sê-mết đã tò mò
dở nắp rương chứng cớ để dòm vào bên trong Do đó Chúa hình phạt họ một số
người ngã chết.
Cô rê, Đa than,
A-bi-ram và 250 nhà lãnh đạo các cấp trong 12 chi phái Israel không thể đến đứng
nổi trước mặt Môi-se. Họ từ xa nói xấu, phỉ báng Môi se, nhưng họ không đủ sứ đối
diện Môi-se. Khi Ghê-ha-xi mạo danh thầy mình là Ê-li-sê để ăn xin quan tổng binh
Na-a-man, Kinh thánh chép, “Lúc đã đến trên gò, Ghê-ha-xi lấy các bao khỏi tay
hai đầy tớ, và để trong nhà mình, đoạn
cho họ đi trở về. Người bèn ra mắt
Ê-li-sê, chủ mình; người hỏi rằng: Ớ Ghê-ha-xi, ngươi ở đâu đến? Người thưa rằng:
Tôi tớ thầy không có đi đâu. Nhưng
Ê-li-sê tiếp rằng: Khi người kia xuống khỏi xe đặng đi đón ngươi, lòng ta há chẳng ở cùng ngươi sao?
Rày há có phải lúc nên nhậm lấy bạc, quần
áo, vườn ô-li-ve, vườn nho, chiên và bò, tôi trai và tớ gái sao? Vì vậy,
bịnh phung của Na-a-man sẽ dính vào ngươi và dòng dõi ngươi đời đời. Ghê-ha-xi đi ra khỏi Ê-li-sê, bị
tật phung trắng như tuyết” (2 Các vua 5: 24-27).
Ghê-ha-xi không thể đứng
nổi trước mặt Ê-li-sê nữa, phải tránh mặt Ê-li-sê mãi mãi. Nếu bạn nói xấu chứng
nhân nào, mượn danh chứng cớ của Chúa để làm điều gì cho quyền lợi của minh, bạn
không còn đứng nổi trước mặt giáo hội. Vì vua Sa-lô-môn chẩn bệnh của các bạn,“Mặt
dọi mặt trong nước thế nào, Lòng người đối
với người cũng thế ấy” (Châm 27:19”.
Lối sống của dân Hoa-kì
có một điểm tôi cho là rất hay. Khi nói chuyện với ai, họ nhìn ngay vào con mắt
của người đối diện.Tôi hỏi bạn: bạn có đứng nổi, có đối diện nỗi với cộng động
dân Chúa, hay đối diện nói chuyện với mọi con cái của Chúa khi có cơ hội gặp
nhau?
--Cung hiến người chầu chực cái rương:
“Những người ở Ki-ri-át-Giê-a-rim đến và lấy rương của Đức
GIA-VÊ và đem nó vào trong nhà của A-bi-na-đáp ở trên đồi, và biệt Ê-lê-a-sa
ra, con trai của người, để giữ rương của Đức GIA-VÊ” ( 1 Sa. 7:1).
2 Sa-mu-ên 6:3 nói A-bi-na-đáp có hai con trai và U-xa và
A-bi-giô đi hai bên chiếc xe bò khi vua Đa-vít rước cái rương về Jerusalem. Có
thể Ê-lê-a-sa là con thứ ba của A-mi-na-đáp chăng?
Dân Ki-ri-át-Giê-a-rm đề
cử Ê-lê-a-sa dâng trọn thì giờ chầu chực bên cái hòm để bảo vệ nó.
Thật rất khó hiểu về
tuổi thọ của các con của A-mi-na-đáp khi phục vụ cái rương nầy. Vì sau khi cái
hòm ở nhà nầy 20 năm, dân Israel nhớ Chúa, Ngày đó tiên tri Sa-mu-ên khởi sự một
chức vụ quan xét, chức thầy tế lễ và tiên tri 40 năm. Sau đó vua Sau-lơ cai trị
cũng 40 năm. Sau khi vua Đa vít cai trị chi phái Giu đa 7 năm 6 tháng, ông mới
rước cái rương chứng cớ từ ngôi nhà nầy lên Jeruslaem. Cho nên thời gian cho
cái rương nầy ngụ trong nhà của A-mi-na-đáp cũng phải đến chừng 107 năm.
Ê-lê-a-sa cùng sống nổi đến ngày thấy vua Đa-vít đến chăng? U-xa và A-hi-giô là
con đẻ của A-mi-na-đáp hay là cháu của cụ ấy. Vì trong tiếng Hê-bơ-rơ của Kinh
văn Cựu ước không có chữ “cháu”.
Phải chăng gia đình cụ
A-mi-na-đáp phụng sự Chúa, tức là chầu chực canh giữ cái rương chứng cớ, nên
Chúa chúc phước cho họ trường thọ?.
Há ngôi nhà và gia đình A-mi-na-đáp không được
Chúa chúc phước dồi dào trong suốt 107 năm như gia đình Ô-bết Ê-đôm được chúc
phước trong ba tháng hay sao?. “Và Đa-vít không muốn dời rương của Đức GIA-VÊ
vào trong thành Đa-vít với người; nhưng Đa-vít đem nó qua một bên đến nhà của
Ô-bết-Ê-đôm, người Gát. Như vậy rương của Đức GIA-VÊ ở lại trong nhà của Ô-bết-Ê-đôm,
người Gát trong 3 tháng; và Đức GIA-VÊ ban phước cho Ô-bết-Ê-đôm và tất cả
gia-hộ của người” (2 Sa-mu-ên 6:10-11).
Phước cho tư gia của bạn
hôm nay tiếp đãi giáo hội tư gia nhóm họp trong nhà bạn hết năm nầy đến năm
kia.
--Giữ Gìn Cái Rương:
“Ê-lê-a-sa ra, con trai của người, để giữ rương của Đức
GIA-VÊ” (! Sa. 7:1).
Tại sao con cái A-bi-na-đáp phải giữ gìn, bảo vệ cái rương nầy?
Thứ nhất cái rương nầy làm bằng gỗ cây keo sa mạc và bọc vàng. Mà vàng dễ kích
động lòng tham của những người bất lương. Thứ hai chúng ta phải bảo vệ chứng cớ
của Chúa, là gìn giữ cộng dồng các chứng nhân. Đấng Christ là hiện thân của Đúc
Chúa Trời, giáo hội của Chúa là hiện thân của Đấng Christ. Bảo vật nầy khêu gợi
lòng tham lam, ganh tị của Sa-tan. Bằng mọi giá chúng ta phải dâng đời mình để
bảo vệ chứng cớ của Chúa Giê-su trên trái đất.
--Thương Nhớ Đức
Gia-Vê:
“Và xảy ra từ cái ngày mà cái rương ở lại tại Ki-ri-át-Giê-a-rim,
thì thời-gian đã lâu, vì đã 20 năm; và tất cả nhà Israel đều than-khóc tìm Đức
GIA-VÊ”(1 Sa. 7:2). Theo nghĩa đen chữ “thương nhớ” đây có nghĩa rên rỉ, kêu gào khóc lóc.
Cái rương nầy tượng
trưng Đấng Christ và tiêu biểu cho hội thánh của Ngài.
Đa-vít làm chứng, “Tôi
sẽ không vào nhà ở,Sẽ không lên giường ngủ; Tôi sẽ không chợp mắt ngủ nghỉ, Không
để cho mí mắt nghỉ ngơi; Cho đến khi tôi tìm được một địa điểm cho CHÚA, Một
nơi cư trú cho Đấng Quyền Năng của Gia-cốp” (Thi 132: 3-5).
Nguyện chúng ta có tấm
lòng vưi mừng, yêu thích, gìn giữ chứng cớ của Chúa trong địa phương của chúng
ta. Đức Chúa Trời sẽ ban phước dồi dào cho anh em cả về thuộc linh và thuộc thể.
Khải Đạo- May 5, 2021