Tôi muốn tương giao cùng anh em về các tên họ của Sa-tan. Tên riêng, tên cúng cơm của sa-tan là Lucifer, và 6 tên khác nữa, tất cả là 7 tên.
1.
Lucifer:
Ê-sai 14:
“Hỡi sao mai, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa
xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi bị chặt xuống đất là thể nào”.
Chúa dùng vua Ba-by-lôn ví sánh cho sa-tan. Trong nguyên văn
Hê-bơ-rơ, chữ Sao mai là “hêylêl”, có nghĩa đen là brightness; the morning
star, Lucifer. Nên chữ Lucifer có nghĩa là người mang ánh sáng. Lucifer là
thiên sứ trưởng trên mọi thiên sứ trưởng khác. Sau khi sa ngã hắn bị đuổi khỏi
thiên dàng, không bao giờ được trở lại. Vào ngày thứ 2 khi Chúa tái tạo phục hồi
trái đất và bầu trời quanh trái đất thì Lucifer
và các thiên sứ sa ngã theo hắn chiếm lấy khoảng không xây dụng chỗ ở của
chúng nó trong 6000 năm qua.
Khải huyền 12:9 nói 4
tên khác của Lucifer như sau: “Con rồng lớn bị quăng xuống, tức là con rắn xưa,
gọi là Ma quỷ và Sa-tan”.
2.
Con
rắn xưa:
Sáng thế kí 3 : 1, “Vả, trong các loài thú đồng mà Giê-hô-va
Đức Chúa Trời đã làm nên, có con rắn là giống quỉ quyệt hơn hết. Rắn nói cùng
người nữ rằng: Mà chi! Đức Chúa Trời há có phán dặn các ngươi không được phép
ăn trái các cây trong vườn sao?”.
Chúng ta không biết
Lucifer đã dùng con rắn cụ thể trong vườn hay nó hóa phép thánh con rắn khi tiếp
cập bà Ê-va. Nhưng chữ Con Rắn trở thành tên của nó.
3.
Con
rồng:
Rắn thì bó bằng bụng trên đất, Lucifer lên khoảng không để sống,
nên hắn được Kinh thánh sách Khải huyền gọi là con rồng. Rắn thì điều ngoa,
cong quẹo, rồng thì bí hiểm, quỷ quyệt.
4.
Ma
quỷ
Ma-thi-ơ 4:1, “Bấy giờ Thánh Linh đưa Jêsus đến đồng vắng để
chịu ma quỷ cám dỗ”. Chữ ma quỷ đây là the devil khác với các quỷ nhỏ (demon),
là lính của Lucifer. Chữ devil xuất hiện chừng 35 lần trong Kinh thánh Tân ước.
Nguyên ngữ Hi lạp là: diabolos, có nghĩa đen là slander, kẻ vu khống, kẻ phỉ
báng, kẻ gièm pha.
Ngoài 35 danh từ Ma quỷ
còn có tính từ diabolos. Anh văn dịch là slanderous, công kích có tính vu khống,
phỉ báng, vu cáo người ta, gièm pha. Chữ nầy xuất hiện 3 lần ở:
1 Ti. 3:11- Đờn bà cũng vậy, …chớ nói gièm
2 Ti. 3:3- không thân tình, cừu hờn, hay nói gièm
Tít 2:3-- Các bà già cũng vậy, đừng nói gièm
5.
Sa-
tan
Chữ Sa-tan xuất hiện gần 35 lần, nghĩa đen là adversary, kẻ
thù của Chúa.
Ma-thi-ơ 4:10, “Đức Jêsus bèn phán cùng nó rằng: "Ớ
Sa-tan, hãy lui đi!”
6.
Bê-ên
xê-bun
Trong nguyên ngữ Hi lạp là: Beelzeboul. Chữ nầy có nghĩa
“dung god”, thần của đống phân,
vua bầy ruồi xanh bay trên đống phân, theo gốc từ ngữ của tiếng Canh-đê.
“Song người Pha-ri-si
nghe vậy thì nói rằng: "Người nầy không đuổi quỉ được trừ phi nhờ Bê-ên-xê-bun, chủ quỉ,
thôi." Jêsus biết ý tưởng họ, bèn
phán cùng họ rằng: "Hễ nước nào tự chia xé thì bị phá hoang, hễ thành hay là
nhà nào mà tự chia xé thì không đứng nổi.
Nếu Sa-tan đuổi Sa-tan, thì tự nó chia xé, nước nó đứng sao nổi?
Còn nếu ta nhờ Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỉ, thì con trai các ngươi nhờ ai
mà đuổi quỉ ư? Bởi vậy, chúng nó sẽ là kẻ định tội các ngươi” (Ma-thi-ơ 12;24-27).
Tóm lại Lucifer có 6 tên khác nhau.
7.
Bê-li-an:
2 Cô- rinh-tô 6:15, “Đấng Christ và Bê-li-an nào có tương hoà
chi?”
Bê-li-an al2 tên gọi của
sa-tan. Chũ nầy chép 1 lần duy nhất trong Kinh tân ước. Nguyên ngữ là: Belial, có nguồn gốc từ tiếng
Hê-bơ-rơ có nghĩa worthlessness, không có giá trị, vô lại, vô ích, không ra gì.
Barzillai- 9-6-2021