Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

CÁC LÝ DO CHÚA Đã KHÔNG THẤT VỌNG



Đọc Kinh Thánh: John 4:13-14; 2:23-24; 6:15; 7:3-4, 6, 9;
12:24; 13:37-38; 16:31-33

“Jêsus đáp rằng: “Hễ ai uống nước nầy vẫn còn khát nữa, nhưng hễ ai uống nước ta cho, thì đời đời hẳn chẳng hề khát nữa; vì nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời.”
“Đang kỳ lễ Vượt-qua Ngài ở Giê-ru-sa-lem, có nhiều người thấy các dấu lạ Ngài làm thì tin đến danh Ngài. Nhưng Jêsus chẳng giao thác mình cho họ, vì Ngài biết mọi người”.


“Jêsus biết chúng sắp đến bắt ép Ngài làm vua, bèn lại lánh riêng ở một mình trên núi.”
“Anh em Ngài nói cùng Ngài rằng: “Hãy đi khỏi đây, qua Giu-đê, để môn đồ anh cũng được xem công việc anh làm. Vì chẳng ai muốn tỏ mình ra mà lại làm việc gì kín giấu. Nếu anh làm những sự đó, hãy tỏ mình cho thiên hạ.”- Jêsus bèn phán cùng họ rằng: “Thì giờ ta chưa đến, còn về các ngươi thì giờ được tiện luôn.- Ngài nói xong, rồi cứ ở lại Ga-li-lê.

“Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột lúa mì chẳng rơi xuống đất mà chết, thì cứ chỉ một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả nhiều.”.

“Phi-e-rơ lại nói rằng: “Thưa Chúa, sao bây giờ tôi không thể theo Ngài được? Tôi sẵn vì Ngài mà bỏ mạng sống tôi.” Jêsus đáp rằng: “Ngươi sẵn vì ta bỏ mạng sống ngươi sao? Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, khi gà chưa gáy, thì người đã chối ta ba lần.”

“Jêsus đáp rằng: “Bây giờ các ngươi tin chăng?  Nầy, giờ sắp đến, thật đến rồi, các ngươi sẽ tan tác, ai đi đường nấy, bỏ ta lại một mình; nhưng ta không ở một mình đâu, vì Cha ở cùng ta. Những điều đó ta đã nói cho các ngươi, hầu cho các ngươi được bình an trong ta. Các ngươi sẽ có hoạn nạn trong thế giới; nhưng hãy vững lòng, ta đã thắng thế giới rồi.”

Chúa Giêsu đã làm tất cả mọi thứ khi Ngài còn ở trên đất. Có một câu trong Mark nói rằng Ngài đã làm tất cả những điều
đó cách tốt đẹp (Mark 7:37). Thật vậy, tất cả những gì Ngài đã làm đều tốt đẹp. Hôm nay chúng ta sẽ nói về những gì Chúa đã làm. Đồng thời, chúng ta sẽ đặc biệt chú ý những lời John 4:13 và 14.

Đây là những lời của Chúa Giêsu. Ngài cho chúng ta biết làm thế nào Ngài sẽ lấp đầy trái tim của một
cơ đốc nhân và dập tắt tất cả những khao khát không thể dặp tắt. Đây là lời hứa của Chúa dành cho chúng ta: "Hễ ai uống nước nầy vẫn còn khát nữa, nhưng hễ ai uống nước ta cho, thì đời đời hẳn chẳng hề khát nữa." Bất cứ ai uống nước mà Chúa ban cho sẽ được dập tắt những ham muốn của mình mãi mãi, anh sẽ không bao giờ cảm thấy rằng anh đang thiếu một cái gì đó và sẽ không bao giờ phải thất vọng. Câu hỏi tiếp theo của chúng ta là, điều này có thể có không? Có, có thể là những người đã nhận được Chúa Giêsu sẽ không bao giờ khát nữa. Nhưng tại sao một số người vẫn không hài lòng? Một số người nói rằng họ vẫn còn khát nướ, họ vẫn chưa nhận được những gì họ muốn, và rằng vẫn còn một cái gì đó họ đang theo đuổi. Điều này có nghĩa là lời hứa của Chúa không được ứng nghiệm sao? Không, không phải vì Chúa nói rằng bất cứ ai uống nước Ngài ban cho sẽ không khát đến mãi mãi. Chúa làm thỏ mãn mãi mãi.

Tại sao sau đó
chúng ta vẫn còn khát? Tại sao sau đó chúng ta không hài lòng và vẫn còn đầy dẫy những ham muốn? Tại sao vẫn còn nỗi buồn, lo lắng, nhu cầu, và tự thương hại? Lý do là chúng ta chỉ nhìn thấy lời hứa của câu 14, nhưng đã quên tuyên rao của câu 13. Chúa không chỉ nói, ", nhưng hễ ai uống nước ta cho, thì đời đời hẳn chẳng hề khát nữa "; Ngài cũng nói trước đó rằng "tất cả những người uống này [nước của thế giới,  nước do Jacob để lại của, mà là nước tốt nhất trên thế giới] thì cứ khát nữa. "

Nhiều người không hiểu được bản chất của các nước trên thế giới này. Họ không hiểu được bản chất của những điều mà thế giới có thể cung cấp cho họ, cho dù họ
sống lâu, và họ sống đến bao lâu. Trước hết, họ không thể nói sự khác biệt giữa cái tạm thời và cái vĩnh cửu, cái nhìn thấy và cái vô hình, cái thể chất và cái thuộc linh. Đây là lý do tại sao họ không hiểu rằng để có những lời hứa của Chúa trong câu 14, trong đó Ngài hứa hẹn làm thỏa mãn trái tim của họ, trước hết phải có sự nhận thức câu 13 mà nói rằng nước của thế giới này không thể đáp ứng được trái tim của họ. Trước tiên, chúng ta phải biết rằng "tất cả những người uống nước này sẽ còn khát nữa" trước khi chúng ta hiểu lời của Chúa, "sẽ không khát đến mãi mãi." Chúa muốn chúng ta được hài lòng, Ngài không muốn chúng ta tiếp lấy một điều và hy vọng điều khác nữa và hơn nữa và không bao giờ tìm thấy chính mình hài lòng.

Hôm nay tôi không nói về nước của thế giới và làm thế nào nó không thể
thỏa mãn được trái tim của con người. đây tôi giải thích lý do tại sao các cơ đốc nhân cảm thấy khát trong thế giới này. Tại sao các cơ đốc nhân khát? Lý do chúng ta đang khát là bởi vì chúng ta quay trở lại để uống nước của câu 13. Tại sao chúng ta trở thành thất vọng? Nếu không có hy vọng, sẽ không có sự thất vọng. Nếu không bao giờ có một niềm hy vọng, sẽ không bao giờ là một sự thất vọng. Nếu chúng ta không bao giờ hy vọng sẽ có tiền, chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng bởi sự thiếu tiền. Trong cùng một cách, nếu chúng ta hy vọng rằng nước trên thế giới này có thể thỏa mãn chúng ta, đôi mắt của chúng ta sẽ được chuyển theo hướng sai lầm, và chúng ta sẽ cảm thấy khát. Đây là lý do chúng ta trở nên tan nát tấm lòng, khó chịu và thất vọng. Tại sao chúng ta không thể hài lòng? Chúng ta muốn làm thỏa mãn các mong muốn của chúng ta với những điều sớm qua đi. Nếu chúng ta muốn những điều thoáng qua, danh vọng và tài sản thoáng qua, Chúng ta sẽ không bao giờ được hài lòng. Một khi những điều này rơi vào tay của chúng ta, chúng ta sẽ thấy rằng chúng không làm thỏa mãn chúng ta, chúng sẽ không làm cho chúng ta hạnh phúc hay hài lòng. Chúng ta cảm thấy rằng chúng ta còn ham muốn nhiều hơn nữa, chúng ta muốn nhiều điều hơn. Chúng ta đang khát một lần nữa và phải uống một lần nữa. Sai lầm của chúng ta nằm trong một thực tế là chúng ta cố gắng làm thỏa mãn bản thân với những điều thoáng qua. Nếu bàn tay của chúng ta đang nắm giữ những điều thoáng qua này và trái tim của chúng ta đặt trên những điều thoáng qua, chúng ta sẽ không bao giờ được hài lòng trong trái tim của chúng ta


Hôm nay tôi sẽ nói về các
lời riêng của Chúa khác với tin mừng của John. Ngoài Tin Mừng của John, ba sách Tin Mừng khác ghi lại những lời của Chúa. Chúa của chúng ta không bao giờ nản lòng. Những gì Ngài đã kinh nghiệm và gặp phải trong môi trường của Ngài trong suốt cuộc đời của Ngài, Ngài đáng phải chịu nhiều chán nản và thất vọng. Nhưng Ngài đã không nản lòng hay thất vọng. Ê-sai 49 nói một cái gì đó liên quan đến Chúa. Nó nói rằng Đức Chúa Trời có ý định cho Đấng Christ mang Jacob trở lại với Ngài và thu thập Israel trở lại với chính Ngài. Nhưng bề ngoài tất cả mọi thứ dường như đã thất bại hoàn toàn. Ngài cảm thấy như thế nào?  nói, " Ta có nói rằng: Ta đã làm việc luống công, đã hao sức vô ích và không kết quả. Song lẽ ngay thẳng của ta ở nơi Đức Giê-hô-va, sự ban thưởng cho ta ở nơi Đức Chúa Trời ta. " (câu 4). Ngài đã không thất vọng. Ê-sai 42 cũng nói rằng Chúa đã không mòn mõi và không nản lòng. Mặc dù những gì Ngài gặp phải có thể gây cho Ngài uề oải chán nản, Ngài đã không hành xử theo cách đó.


Sự nhấn mạnh của
tin mừng John là khác với sự nhấn mạnh của Phúc Âm Matthew. Chúa trong tin mừng của John đã bị từ chối bởi những người từ đầu. Chúa trong tin mừng của Matthew không bị từ chối cho đến sau chương 12. John 1 ghi chép rằng Chúa đã đến xứ của Ngài, và dân của chính Ngài không tiếp nhận Ngài. Ngài đến để mang các tội lỗi của dân Israel và dân ngoại. Tuy nhiên, người ta không muốn Ngài, họ chối bỏ Ngài và sẽ không tiếp nhận Ngài. Khi Ngài trên thập tự giá, người ta chối bỏ Ngài, và Đức Chúa Trời cũng chối bỏ Ngài. Chúng ta đã bị thất vọng, chán nản, buồn bã, đau lòng. Tuy nhiên, John 19 ghi chép rằng Chúa đã kêu lên trên thập tự giá, là xong rồi!" 


Chúng ta nên kêu lên, "Đã qua rồi!" Nhưng Ngài đã la hét giống như một đội quân chiến thắng, "xong rồi!" Trong suốt cuộc đời của Ngài, Ngài đã tiếp lấy sự hài lòng của Đức Chúa Trời. Ngài không có hy vọng về thế giới và không mong đợi để nhận được bất cứ điều gì từ nó. Hy vọng duy nhất của Ngài là ở trong Đức Chúa Trời, và sự hài lòng duy nhất của Ngài là ở trong Đức Chúa Trời. Ngài nói rằng không ai biết Con, trừ Chúa Cha, Ngài đã không tiếp nhận vinh quang từ loài người, Ngài không đến để làm theo ý muốn của Ngài, nhưng ý của Đấng đã sai Ngài, và Ngài luôn luôn làm theo ý muốn của Đấng đã sai Ngài. Chúa của chúng ta có ý muốn của Đức Chúa Trời như là sự hài lòng của tất cả cuộc đời Ngài. Ngài đã được hài lòng chỉ với Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại sao Ngài đã không thất vọng, bất kể có vấn đề con người, các sự kiện, và những thứ trong thế giới này thay đổi đến như thế nào. Những ai tiếp lấy sự hài lòng của họ trong Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ phải thất vọng.

Về mặt tiêu cực, chúng ta không nên trân trọng bất kỳ hy vọng nào liên quan đến thế giới. Nếu chúng ta không mong đợi bất kỳ
sự nổi tiếng, vinh quang, trợ giúp, an ủi, hoặc tài trợ từ thế giới này, chúng ta sẽ không bao giờ khát. Chúng ta nên chăm sóc cách chúng ta xem nước của thế giới này. Quan điểm của chúng ta liên quan đến thế giới chắc chắn sẽ xác định hy vọng của chúng ta đối với những người trên thế giới.

"
Đang kỳ lễ Vượt-qua Ngài ở Giê-ru-sa-lem, có nhiều người thấy các dấu lạ Ngài làm thì tin đến danh Ngài. Nhưng Jêsus chẳng giao thác mình cho họ, vì Ngài biết mọi người”(John 2:23-24).

Trong Giăng 2 Chúa thực hiện hai phép lạ tuyệt vời. Sau khi thực hiện phép lạ đầu tiên, các môn đệ tin vào Ngài. Sau khi thực hiện phép lạ thứ hai, nhiều người thấy phép lạ của Ngài cũng tin vào Ngài (câu 23). Khi chúng ta thấy cộng đ
ồng ngày càng tăng và số lượng của các tín hữu ngày càng tăng thông qua việc rao giảng của chúng ta, trái tim của chúng ta bước tới để làm việc theo cách tiềm thức . Nhưng Chúa không theo cách này.

 Câu 24 nói, " Nhưng Jêsus chẳng giao thác mình cho họ, vì Ngài biết mọi người." Ngài sẽ không có bất kỳ sự vui hưởng nào từ người ta. Ngài đã không giao thác chính mình Ngài cho người ta bởi vì Ngài biết rằng cuối cùng họ sẽ là những người đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Chúa vui mừng khi có rất nhiều người tin vào Ngài. Nhưng Ngài sẽ không phó thác chính mình Ngài cho họ. Ngài không cho phép họ chiếm được trái tim của Ngài. Công việc có thể thành công, nhưng nó đã không chiếm trái tim của Ngài. Điều này là lý do tại sao Ngài có thể duy trì sự siêu việt của Ngài.

"T
a không tiếp nhận vinh quang từ loài người" (John 5:41).Trong chương này, có một người đã bị bệnh trong 38 năm. Ông đã được Chúa chữa lành ngay lập tức. Sau điều này, nhiều người đã từng phản đối Ngài không còn chống đối Ngài nữa . Nhiều người đã vinh danh Đức Chúa Trời. Nhưng Chúa Giêsu nói, "Ta không nhận vinh quang từ loài người." Chúa nói rằng Ngài sẽ không muốn nhận vinh quang từ loài người. Chúng ta hoan hỉ chào đón vinh quang từ loài người. Nếu chúng ta mong đợi vinh quang từ loài người, chúng ta sẽ vui mừng khi người ta cung cấp cho chúng ta vinh quang và sẽ phải thất vọng khi họ không cho chúng ta vinh quang. Nhưng Chúa không chấp nhận bất kỳ vinh quang nào từ loài người về mặt tiêu cực. Ngài sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì. Ngài đã không mong đợi bất cứ điều gì và sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì. Kết quả là, Ngài đã không thất vọng trong bất cứ điều gì.

"
“Jêsus biết chúng sắp đến bắt ép Ngài làm vua, bèn lại lánh riêng ở một mình trên núi.” (John 6:15). Vào thời điểm đó, đã có vài ngàn người tụ tập ở đó. Họ đã nhìn thấy phép lạ hóa các ổ bánh mì ra nhiều họ cảm thán rằng người này thực sự là vua của họ. Mặc dù nhiều người tôn cao Chúa, Ngài đã từ chối tất cả. Ngài không muốn nhận vinh quang từ loài người. Ngài không muốn tiếp lấy bất cứ thứ gì từ loài người và uống nước của thế giới này. Đức Chúa Trời trong Ngài là đầy đủ để làm thỏa mãn trái tim của Ngài. Điều này là lý do tại sao Ngài có thể từ chối tất cả mọi thứ mà thế giới sẽ cung cấp cho Ngài."Lánh riêng" là thái độ tốt nhất. Lánh riêng sẽ bảo tồn một công nhân của Chúa khỏi bị thiệt hại khi được tôn cao. Lánh riêng cho một người cơ hội chứng minh rằng Đức Chúa Trời là sự hài lòng, nó cũng là kết quả của việc được thỏa mãn trong Đức Chúa Trời.

"
Anh em Ngài nói cùng Ngài rằng: “Hãy đi khỏi đây, qua Giu-đê, để môn đồ anh cũng được xem công việc anh làm. Vì chẳng ai muốn tỏ mình ra mà lại làm việc gì kín giấu. Nếu anh làm những sự đó, hãy tỏ mình cho thiên hạ.”- Jêsus bèn phán cùng họ rằng: “Thì giờ ta chưa đến, còn về các ngươi thì giờ được tiện luôn.- Ngài nói xong, rồi cứ ở lại Ga-li-lê. "(John 7: 3- 4, 6, 9). Vào thời điểm đó, anh em của Chúa nghĩ rằng Ngài có thể trở thành nổi tiếng bằng cách thực hiện nhiều phép lạ hơn. Vì vậy, họ nói với Chúa: "Nếu Anh muốn có một tên tuổi, Anh nên đi đến những nơi có nhiều người. Nếu các môn đệ của Anh đã không nhìn thấy Anh, họ sẽ không tin Anh, và nếu người Do Thái không nhìn thấy Anh, họ không tin Anh hoặc tại Giê-ru-sa-lem là một nơi rộng lớn và có nhiều người. Nếu Anh đi đến đó, người ta sẽ tin vào Anh, và Anh sẽ được nổi tiếng." Tuy nhiên, Chúa vẫn ở Ga-li-lê. " Mặc dù là một điều dễ dàng để di chuyển đến nơi khác, và mặc dù một động thái như vậy sẽ cho Ngài nhiều tiện ích, Ngài không làm điều đó. Hầu hết mọi người đang tò mò và nhiều người sẽ thốt ra lời khen ngợi từ sự tò mò. Nếu Chúa đã thích nghi với họ, sẽ có hàng trăm cơ hội để Ngài nhận được lời khen ngợi. Nhưng Chúa đã không giao thác chính mình Ngài cho họ. Ngài không muốn lời khen ngợi đặc biệt từ loài người. Ngài đã có một cái gì đó trong Ngài và không cần bất cứ điều gì từ bên ngoài. Ngài biết bản chất của nước uống trên thế giới này. Đây là lý do tại sao Ngài có thể nói với những người phụ nữ khóc cho Ngài khi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá, "Đừng khóc cho Ta, nhưng hãy khóc cho mình và cho các con cái của các ngươi" (Lu-ca 23:28). Ngài đã không thất vọng.





"
“Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột lúa mì chẳng rơi xuống đất mà chết, thì cứ chỉ một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả nhiều.”. (Giăng 12:24). Trong chương này, chúng ta thấy ngày vinh quang nhất mà Chúa đã có trên trái đất. Không chỉ nhiều người Do Thái tin vào Ngài, và không chỉ bạn bè của Ngài tin tưởng vào Ngài, ngay cả những người Pha-ri-si nói với nhau, "Nên người Pha-ri-si bèn nói với nhau rằng: “Các ngươi thấy mình chẳng làm chi nổi cả; kìa, cả thế giới đều kéo theo người!”(Giăng 12 : 19). Không chỉ những kẻ thù của Ngài thừa nhận thất bại của họ, bạn bè của Ngài tin tưởng ở trong Ngài, và người Do Thái tin vào Ngài, nhưng các dân ngoại cũng tin vào Ngài. Vào thời điểm đó, một vài người Hy Lạp yêu cầu Philip nói với Chúa Giêsu rằng họ muốn nhìn thấy Ngài. Những nhóm người này thú nhận rằng đây là ngày chiến thắng cho Chúa Giê-xu. Nếu chúng ta trong tình hình như vậy, chúng ta đã được cưỡi trên những đám mây và phơi mình trong vinh quang của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu đã làm gì? Tức thời vào lúc đó, Ngài nói với môn đồ của Ngài, "Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hột lúa mì chẳng rơi xuống đất mà chết, thì cứ chỉ một mình; nhưng nếu chết đi, thì kết quả nhiều " Chúa đã nói điều này ám chỉ đến cái chết của Ngài (12:33). Có vẻ như lời Chúa đã nói với Philip, "Đường lối Chúa Cha đã ủy nhiệm cho Ta thực hiện không phải luôn luôn cách cỡi lừa vào Giê-ru-sa-lem. Nó không phải luôn luôn là cách mà người ta chào đón." Thế giới đã sẵn sàng dâng tất cả mọi thứ cho Ngài, nhưng Ngài đã không tận hưởng nó và không muốn chấp nhận nó. Ngài không uống bất cứ nước uống nào trên thế giới này. Ngài từ chối tất cả mọi thứ từ con người và hướng tầm mắt của Ngài về những gì Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài.

Chúng ta nên học bài học này. Đặc biệt, các công nhân của Chúa nên học bài học này. Mặc dù
loài người có thể quay mặt của họ đối với chúng ta ngày nay, họ có thể đá gót nhân của họ vào chúng ta vào ngày mai. Những người đã la "Hosanna", với Chúa vào một ngày cũng là những người kêu lên, "cất bỏ Ngài đi," ngày hôm sau. Chúa đã không nản lòng hay thất vọng họ. Ngài từ chối một cách ẩn giấu tất cả các điều đối xử tuyệt vời từ người ta. Ngài sẽ không bao giờ có bất kỳ mối quan hệ trực tiếp nào với môi trường của Ngài. Mối quan tâm trực tiếp của Ngài là Đức Chúa Trời và ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là lý do tại sao cách của Ngài trên thế giới là không quanh co. Nhưng cách của chúng ta trên thế giới là quanh co. Chúa của chúng ta đã không cho phép bạn bè của Ngài làm cho cách của Ngài thành quanh co, không cho phép lời khen ngợi của loài người ảnh hưởng đến con đường của Ngài, cũng không cho phép sự chống đối của kẻ thù thay đổi cuộc hành trình của Ngài.
"
Phi-e-rơ lại nói rằng: “Thưa Chúa, sao bây giờ tôi không thể theo Ngài được? Tôi sẵn vì Ngài mà bỏ mạng sống tôi.” Jêsus đáp rằng: “Ngươi sẵn vì ta bỏ mạng sống ngươi sao? Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, khi gà chưa gáy, thì người đã chối ta ba lần.” "(John 13:37-38).Tất cả những cám dỗ đã đề cập ở trên, hoặc từ vinh quang của loài người hoặc lời đề nghị của kẻ thù. Đây là một sự cám dỗ khó khăn hơn cho Chúa từ Peter. Peter nói, " tại sao bây giờ tôi không thể theo Ngài được? Tôi sẵn vì Ngài mà bỏ mạng sống tôi.”

Chúa trả lời cùng Peter, ", khi gà chưa gáy, thì ngươi đã chối ta ba lần.”. Đối với ấn tượng của chúng ta, Peter thường đi trước Chúa để giúp đỡ Ngài. Nhưng Chúa sẽ không phó thác chính mình Ngài cho ông. Nếu tôi có một đệ tử --dĩ nhiên, tôi không có bất kỳ ai--và nếu anh ta luôn luôn giúp đỡ tôi ở bên cạnh tôi, tôi sợ tôi sẽ cho anh ta một cái nhìn dữ dội nếu anh ta chối bỏ i giữa phiên tòa xét xử tôi tại tòa án. Thực vậy, cái nhìn sẽ nói rằng, "Tại sao bạn từ chối tôi?" Nhưng Chúa quay lại và nhìn Peter (Luke 22:61). Đó là một trong nhìn khiến Peter đi ra ngoài và kêu khóc. 

Một khi
Ngài có một cái nhìn vào chúng ta với đôi mắt của Ngài, chúng ta tan chảy.

Nhưng có một sự mặc khải
khác trong việc Ngài nhìn Peter. Chúng ta đã đặt quá nhiều hy vọng trong "Peter của chúng ta." Khi ông nói một số lời không đáng tin cậy, xúc phạm đến chúng ta, hoặc nói về chúng ta, chúng ta trở thành thất vọng, nản lòng, và thậm chí đau buồn. Chúng ta không thể chịu được sự hiểu lầm và bất trung của Peter của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta uống nước trên thế giới này, hy vọng rằng bạn bè, người thân của chúng ta, hoặc những người khác sẽ làm hài lòng chúng ta, chúng ta chắc chắn sẽ khát một lần nữa. Nếu chúng ta hài lòng về căn nhà, bạn bè của chúng ta, thực phẩm, và tất cả những điều khác, vì chúng từ Đức Chúa Trời, chúng ta có thể được thỏa mãn với Đức Chúa Trời và sẽ không phải thất vọng khi tình hình của chúng ta thay đổi. Chúng ta sẽ không bị vấp ngã  hay tổn thương.

" “Jêsus đáp rằng: “Bây giờ các ngươi tin chăng?  Nầy, giờ sắp đến, thật đến rồi, các ngươi sẽ tan tác, ai đi đường nấy, bỏ ta lại một mình; nhưng ta không ở một mình đâu, vì Cha ở cùng ta. 33 Những điều đó ta đã nói cho các ngươi, hầu cho các ngươi được bình an trong ta. Các ngươi sẽ có hoạn nạn trong thế giới; nhưng hãy vững lòng, ta đã thắng thế giới rồi.”(John 16:31-33). Vào thời điểm đó, các môn đệ đều đã tin vào Chúa Giêsu. Chúa hỏi: "Bây giờ các ngươi có tin tưởng không?".  Ngài cũng cho biết, "các ngươi sẽ tan tác, ai đi đường nấy, bỏ Ta lại một mình; nhưng ta không ở một mình đâu, vì Cha ở cùng Ta."

John 17 là lời cầu nguyện cuối cùng của Chúa, trong khi John 16 là bài giảng cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Tổng kết bài giảng của Ngài là trong một vài câu cuối cùng của chương 16. Ngài nói rằng tất cả mọi người sẽ tản lạc và rằng Ngài sẽ bị bỏ lại một mình. Chúng ta đã phàn nàn với Đức Chúa Trời nếu chúng ta đã được bỏ lại một mình, nhưng Chúa nói rằng Chúa Cha với Ngài. Ngài có thể cố gắng rút sự an ủi từ tất cả các môn đệ đã ở với Ngài trong nhiều năm, nhưng Ngài đã không đặt niềm hy vọng của Ngài trong bất kỳ một ai trong số họ. Mặc dù tất cả họ đều lìa bỏ Ngài, Ngài không cảm thấy bị tổn thương hoặc không ổn định. Ngược lại, Ngài nói với họ kinh nghiệm của Ngài để họ sẽ có sự bình an trong Ngài. Ngài biết rằng những người uống nước trên thế giới này sẽ khát một lần nữa, và Ngài sẽ không uống nó, ngay cả khi có nước sẵn dành cho Ngài. Những người không uống nước nầy , nhưng uống nước hằng sống sẽ không bao giờ khát nữa.


Tại sao chúng ta không thể sống một cuộc sống hài lòng? Tại sao chúng ta thất vọng? Đó là bởi vì chúng ta có
các niềm hy vọng. Trong thực tế, chúng ta có các niềm hy vọng tuyệt vời. Nhưng khi chúng ta không thể có được những gì chúng ta hy vọng và không có thể được hài lòng, chúng ta trở thành thất vọng. Tôi có thể làm chứng rằng nhiều lần tôi đã bị nhạo báng, nhưng nhiều lần tôi cũng đã được ca ngợi. Đôi khi ngay cả Sa-tan sẽ khen ngợi tôi. Vào những lúc như vậy, Chúa nhắc nhở tôi câu này, và tôi đã được nhắc nhở uống nước này ít thôi. Trong cách này, tôi sẽ không khát nước sau một thời gian và phải thất vọng một lần nữa. Khi tình yêu con người, sự giúp đỡ, tiền bạc, danh vọng, sự dễ dàng và thoải mái đến với chúng ta, chúng ta có thể nghĩ rằng chúng là của chúng ta và chúng ta có thể uống chúng càng nhiều theo như chúng ta muốn. Nhưng nếu chúng ta uống chúng rất nhiều, một ngày nào đó chúng ta sẽ khát nước! Số lượng chúng ta uống trên thế giới sẽ là mức độ khát nước mà chúng ta sẽ có.

Một số
cơ đốc nhân đã hỏi tôi lý do tại sao họ không cảm thấy sự quý báu của Chúa khi những người khác cảm thấy tính quý báu của Ngài rất nhiều. Câu trả lời của tôi với họ rằng họ đã uống quá nhiều các loại nước bên cạnh Chúa. Điều này là lý do tại sao Chúa không phải là quý báu đối với họ. Chúng ta chỉ cần nhìn thấy chúng ta đã thánh hiến bao nhiêu trên trái đất và chúng ta đã từ bỏ trên trái đất bao nhiêu, chúng ta sẽ biết mình quí trọng Chúa là bao nhiêu.

Paul đã nói rằng ông
vì sự tuyệt vời của Đấng Christ. Nhưng đó không phải là tất cả những gì ông nói, ông cũng nói rằng ông từ bỏ một cái gì đó. Ông đã coi tất cả mọi thứ như sự mất mát. Ông đã từ bỏ tất cả mọi thứ, và cùng một lúc, ông đã theo đuổi sự tuyệt vời của kiến ​​thức về Đấng Christ. Nếu chúng ta không có gì ngoài Chúa, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi thứ trong Chúa là quý giá cho chúng ta và sẽ làm thỏa mãn chúng ta. Theo John 4, số lượng chúng ta từ bỏ sẽ là số lượngchúng ta nhận được. Tuy nhiên chúng ta từ bỏ thế giới được bao nhiêu, chúng ta sẽ vui hưởng sự giàu của Chúa bấy nhiêu.

Các bạn ơi, nếu những người khác ban cho bạn tình yêu, danh vọng, tiện nghi, vinh quang, và may mắn, bạn sẽ làm gì? Bạn có nghĩ rằng người phụ nữ Samaria ngừng uống nước của thế giới chỉ bởi vì cô đã có nước sự sống không? Không, cô ấy vẫn phải uống nước của thế giới. Chúng ta không thể ngừng uống nước. Đây là lý do tại sao khi thế giới, bạn bè và người thân ban cho chúng ta vinh quang, danh vọng, hạnh phúc, thoải mái, và giúp đỡ, chúng ta có thể để cho họ làm điều đó. Tuy nhiên, chúng ta không được nuông chiều chính mình trong những điều này, chúng ta không được phó thác mình cho chúng và không nên được chuyển động theo chúng. Chúng ta không nên đòi hỏi bất cứ điều gì từ chúng và không nên uống và cũng không xin uống. Nếu bạn làm điều này, bạn sẽ không bị thất vọng.

Ê-sai 53:2 là một
lời liên quan đến Chúa Giêsu mà tôi quí trọng rất nhiều: "Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cái chồi, như cái rễ ra từ đất khô. Người chẳng có hình dung, chẳng có sự đẹp đẽ; khi chúng ta thấy người, không có sự tốt đẹp cho chúng ta ưa thích được." Điều này có nghĩa là gì? Trong một nơi mà có nước, cây cối phát triển một cách dễ dàng và nhanh chóng. Tuy nhiên, môi trường của Chúa là như vậy, là nó đã không dành cho Ngài bất kỳ sự giúp đỡ nào. Môi trường xung quanh của Ngài không ban cho Ngài bất cứ điều gì. Thế giới đã không giúp đỡ Ngài cả. Kẻ thù của Ngài đã không ban cho Ngài sự giúp đỡ nào, cả ma quỷ cũng như các thiên thần đã không ban cho Ngài bất cứ sự giúp đỡ nào. Mọi thứ Ngàiđều từ Đức Chúa Trời, Ngài đã không nhận được bất cứ điều gì từ môi trường xung quanh của mình, mà sẽ khuyến khích, hỗ trợ, hoặc an ủi Ngài. Cuộc sống của Ngài là một đường thẳng. Chúng ta biết rằng một đường thẳng là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm. Chúa của chúng ta đã tiếp lấy con đường thẳng từ thế giới này để đến số phận của Ngài.
 Ngài nói rằng không có người nào đặt tay vào cây cày và nhìn lại phía sau là phù hợp cho vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là gì? Những người đặt bàn tay của mình vào cây cày phải nhìn về phía trước, nếu không, các rãnh cày sẽ quanh co. Khi mắt nhìn về phía trước, cái cày sẽ chạy thẳng. Nếu một người nhìn lại phía đằng sau ông ta, các rãnh cày mà anh cày sẽ không được thẳng. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta chuyển hướng hay quay vòng tròn. Ngài là sự hài lòng của chúng ta.

Tại sao chúng ta có thể hài lòng? 
Chúng ta có thể hài lòng vì cớ nước uống mà Ngài sẽ ban cho chúng ta sẽ trở thành một nguồn mạch trong chúng ta, phun nước vào sự sống đời đời. Tất cả danh tiếng và vinh quang bề ngoài, tất cả mọi thứ bề ngoài đều là vô ích. Trừ khi Đấng Christ ở trong chúng ta, và trừ khi Linh của Đức Chúa Trời ở trong chúng ta, không có gì sẽ làm chúng ta thỏa mãn. Thật vậy, ngoài Chúa ra, không có gì có thể làm chúng ta thỏa mãn. Đồng thời, nếu chúng ta không hài lòng với Ngài, chúng ta không thể nhớ Ngài ở đây( bàn Chúa).

Tôi cảm ơn Ngài vì Ngài
đã giẫm trên con đường thay cho chúng ta. Ngài thực sự Chúa đáng yêu của chúng ta

Watchman Nee.