Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2013

Melchizedek, Chúa Giêsu, và chúng ta

Một hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô đến với những đám mây của thiên đường chắn ngang một con ngựa trắng.
Chúa Jesus đến

Đức Giê-hô-va phán cùng Chúa tôi rằng: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi. Đức Giê-hô-va từ Si-ôn sẽ sai đến cây phủ việt về sự năng lực ngươi:”.( Thánh Vịnh 110:1 -2 )

“Đức Giê-hô-va đã thề, không hề đổi ý, rằng: Ngươi là thầy tế lễ đời đời, Tùy theo ban Mên-chi-xê-đéc." ( Thánh Vịnh 110:4 )

'Chúa phán cùng Chúa tôi: Hãy ngồi bên hữu ta, Cho đến khi ta đặt kẻ thù nghịch ngươi dưới chân ngươi?'  Vậy, nếu Đa-vít gọi Ngài là Chúa, thì thể nào Ngài là con của người được ư?"  Không ai có thể đáp một lời, và từ ngày đó cũng chẳng ai dám hỏi Ngài nữa.” (Matt 22: 41-46 )


Thật khá rõ ràng cả Chúa và người Pharisi mà Ngài đang nói chuyện đều tin rằng Thánh Vịnh 110 ám chỉ Đấng Messiah và Thánh Linh đã cảm thúc vua David viết nó. Nơi họ có khác biệt là trong sự hiểu biết của họ về nguồn gốc của Đấng Messiah. Người Pharisi tin rằng Ngài sẽ là một hậu duệ loài người của Vua David, và không có gì hơn. Chúa biết Ngài cũng đã là Đức Chúa Trời trong xác thịt, và trích dẫn Thánh Vịnh 110 để nhắc nhở họ rằng David đã biết điều này nữa.

Nhiều bản dịch cho thấy sự xuất hiện đầu tiên của chữ “Chúa” trong Thánh Vịnh 110 là chữ hoa trong tất cả ( CHÚA) và chữ thứ hai theo cách thấp hơn ngoại trừ chữ cái đầu tiên (Chúa). Điều này cho thấy rằng David đã viết lại một cuộc trò chuyện ông nghe, thông qua quyền năng của Thánh Linh, giữa Chúa Cha và Chúa Con.

Có hai sự kiện để hỗ trợ cho kết luận này. Thứ nhất, Chúa là một danh hiệu để ai đó sử dụng khi nói chuyện với một bậc cao hơn, và chỉ chữ thứ hai ưu việt hơn Vua. Một là Đức Chúa Trời Cha, được CHÚA đại diện và người kia là Đức Chúa Trời Con, được gọi là Chúa. Trong thực tế, Chúa Giêsu nhắc nhở những người Pharisees rằng David đã ám chỉ đến một hậu duệ đơn thuần là con người như con trai của mình, không phải là Chúa của mình.
Và thứ hai, trong tiếng Do Thái "từ ngữ" dịch “CHÚA” là YHWH, bốn chữ cái đầu của tên phát âm thành tên của Đức Chúa Trời, và chỉ được sử dụng cho Ngài, trong khi một chữ được dịch là “Chúa” thì là một từ ngữ khác, Adonai.

Trả lời cách trung thực cho câu hỏi của Chúa sẽ buộc những người Pharisees đồng ý với David, một cái gì đó họ không được chuẩn bị để làm. Không có sau đó, không bao giờ hết. Khi Ngài bị xử án trước Tòa công luận, tuyên bố của Chúa rằng Ngài là Đấng Messiah và tất cả họ sẽ thấy Ngài ngồi bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự trên mây trời mà đến, là những gì đã khuấy động chúng để kết tội Ngài phạm thượng, một tội phạm đáng tử hình. ( Matt 26:64. )

Vấn đề duy nhất của họ là những người La Mã đã không cho phép họ hành quyết bất cứ ai mà không được phép. Vì vậy, họ đưa Ngài đến Bôn-xơ Phi-lát. Phi-lát đã không quan tâm đến lời tố cáo phạm thượng. Đó là một vấn đề nội bộ giữa những người Do Thái. Nhưng khi gọi chính mình Ngài là một vị vua ( John 18:33-37 ), Chúa Giêsu đã thú nhận tội phản quốc theo luật pháp La Mã, cũng là một tội tử hình ( Matt.27: 11 ). Thậm chí sau đó, Phi-lát đã có xu hướng phóng thích Giêsu, nhưng khi đám đông trở nên cứng rắn, ông đã nhìn thấy một cách là chìu theo mong muốn của họ để còn làm theo luật La Mã. Đó là lý do tại sao ông đã cho họ đặt một dấu hiệu trên thập tự giá của Chúa mà nói: "Giêsu thành Nazareth, Vua dân Do Thái." Ông thông báo rằng tội mà Chúa Giêsu đã bị hành quyết là tội phản quốc.


Vua Giêsu, Thượng Tế của chúng ta

David đã viết rằng Đấng Messiah sẽ vừa là một vị vua và một thầy tế lễ giống như Melchizedek. Từ Sáng. 14:18 chúng ta biết rằng Melchizedek, tên có nghĩa là vua của sự công bình, vừa là một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Tối Cao, và vua của Salem, một thành phố của người Jebusite mà sau này được gọi là Jerusalem. Khi David chinh phục người Jebusites ông đã làm cho Jerusalem thành thủ đô của Israel, và mua miếng đất gần núi Moriah nơi Abraham đã dâng Isaac làm sinh tế vài trăm năm trước đó trên vị trí đền thờ.


Kể từ khi sáng lập nước Israel, không bao giờ có một người nào vừa là một vị vua và là thầy tế lễ. Điều đó đã bị cấm. Các vị vua đến từ chi phái Giu-đa, trong khi các thầy tế lễ là hậu duệ của Levi. Một vị vua mà đã cố gắng tác nhiệm như một thầy tế lễ, ngay lập tức nhận được sự không hài lòng của Chúa, và Sau lơ minh họa cho điểm đó. Dám dâng hương trong đền thờ, vua Ô-xia ngay lập tức bị mắc bệnh cùi và đã được cách ly cho đến ngày qua đời ( 2 Sử. 26:16-21 ). Một số tiên tri cũng là thầy tế lễ, ví dụ Ezekiel và Zechariah, và David là một vị vua và là một nhà tiên tri. Nhưng không bao giờ có ai vừa là một vị vua và là thầy tế lễ ở Israel.

Tuy nhiên, những lời tiên tri trong Ezekiel 21:25-27 và Xachari 6:9-13 cho chúng ta biết cuối cùng hai chức nhiệm nầy sẽ được hiệp nhất khi Đấng Messiah đến và Ngài sẽ là vua và thượng tế. Và tất nhiên trong Sách Hê-bơ-rơ, Giêsu được gọi là vua của chúng ta ( Hebr. 1:8 ) và là Thượng Tế của chúng ta ( Hebr. 4:14 ). Điều này có thể bởi vì Chúa Giêsu không phải là một thầy tế lễ theo nghĩa Lê-vi nhưng theo thứ tự cao hơn của Melchizedek. Tất cả  Hê-bơ-rơ 7 được dành cho chủ đề này.


Tôi biết tôi là gì, nhưng bạn là gì?

Trong Xuất 19:6 Israel được gọi là vương quốc các thầy tế lễ nhưng trong 1 Phiero 2:9 chúng ta đọc, "Nhưng anh em là giống được lựa chọn, là chức tế lễ nhà vua, là nước thánh, làm dân thuộc riêng về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao ra các mỹ đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi sự tối tăm đến sự sáng láng lạ lùng của Ngài". Ông đã nói chuyện với Hội thánh, kêu gọi chúng ta đến một chức tư tế vương giả. Chỉ có vua được coi là vương giả.

Và trong Khải-sai 1:5-6 thậm chí còn rõ ràng hơn. “...từ nơi Jêsus Christ là Chứng nhân thành tín, là Đấng sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết, và là Nguyên thủ của các vua trên đất! Đấng thương yêu chúng ta, đã lấy huyết mình rửa tội chúng ta, làm cho chúng ta nên nước, nên thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời là Cha của Ngài: nguyện vinh hiển và quyền năng về nơi Ngài đời đời vô cùng! A-men. A Men” 

Một số các bản dịch hiện đại thích từ ngữ “vương quốc” hơn chữ  “vua” trong đoạn trên, và đó là sự thật, từ ngữ tiếng Hy Lạp có thể được dịch một trong hai cách như vậy. Họ cố gắng so sánh phân đoạn ở Khải Huyền với Xuất 19:6 để củng cố nền thần học thiên vị thay thế của họ, làm cho hội thánh trông giống như Israel. Nhưng theo các học giả bảo thủ nhất, rõ ràng là cả hai bối cảnh và cấu trúc ngữ pháp của đoạn văn trên yêu cầu từ ngữ  tiếng Hy Lạp được dịch là các vua. (Điều này cũng đúng trong Khải huyền 5:10 nơi cùng một cụm từ được lặp đi lặp lại.)

Các vua của điều gì?

Kinh Thánh không có một câu trả lời cụ thể cho điều này, nhưng trong Ê phê sô 2:6-7 Phaolô đã viết: “và khiến cho chúng ta cùng sống lại với Ngài, và đồng ngồi với Ngài ở trên trời trong Christ Jêsus,  hầu cho trong các đời tương lai Ngài có thể tỏ ra ân điển cực kỳ phong phú của Ngài bằng sự nhân từ đối với chúng ta trong Christ Jêsus". 

“Các thời đại sắp tới" đề cập đến thời gian của thiên niên kỷ và xa hơn nữa mà chúng ta sẽ phục vụ như là ví dụ về các sự phong phú vô song của ân sủng của Đức Chúa Trời, và ngồi với Vua của chúng ta trên ngôi Ngài.

Trong suốt lịch sử con người các vị vua tốt nhất luôn là những người chân thành nhất, tận hiến cho sự thịnh vượng của các đối tượng của họ. Và các thầy tế lễ đã không chỉ là các quan chức tôn giáo. Trong hầu hết các thế hệ họ là nhà kho xã hội về kiến ​​thức, triết học, văn học, tôn giáo, nghệ thuật, âm nhạc, lịch sử và ngôn ngữ. Nếu những người nầy có thể phục vụ như mô hình của thế giới cho tương lai trên trời của chúng ta, sau đó chúng ta có thể giả sử có nhiều người hơn trở thành vua và thầy tế lễ ngồi trên ngai vàng hoặc hướng dẫn một phụng vụ thờ phượng.
Ở Mỹ, chúng tôi không có một gia đình hoàng gia, nên rất nhiều người trong chúng tôi không biết nó như thế nào. Nhưng người từ các nước khác làm vua, và họ biết hầu hết các việc liên hệ hoàng gia, "dân hoàng gia", như chúng được gọi, không kiến hiệu gì. Nhiều người trong số họ thậm chí không giúp điều khiển đất nước như cai trị gia đình của họ. Họ theo một sự kêu gọi cao hơn, theo đuổi lợi ích cá nhân và sống cuộc đời phục vụ. Không có nhu cầu hỗ trợ mình, vì vậy họ tự do dành tất cả thời gian của họ, năng lượng, và trí tuệ tìm đến những điều họ nhận thấy là cần thực hiện nhất.


Trên trái đất, chúng ta đều có một bản chất tội lỗi, vì vậy chúng ta có thể bước ra khỏi con đường của sự công bình, và chúng tôi đã nhìn thấy điều đó xảy ra với nhiều người hoàng gia. Và vì bản chất sa ngã của chúng ta, ngay cả người tốt nhất của chúng ta chỉ có thể đạt được một tỷ lệ phần trăm nhỏ của tiềm năng gần như vô hạn của chúng ta. Nhưng trong trạng thái hoàn hảo của chúng ta, những điều này sẽ không là vấn đề. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta với những khả năng mà hầu như chúng ta đã không sử dụng. Bây giờ chúng ta đang như một con ngựa đua thuần chủng đã được đưa vào để kéo chiếc xe chở một đứa trẻ. Nhưng tất cả mọi điều đó sẽ thay đổi đời đời khi được ta cất lên. Cuối cùng sẽ không có gì ngăn cản chúng ta đạt được tiềm năng đầy đủ của mình trong bất kỳ công việc đảm đương nào mà chúng ta có thể tưởng tượng.

Cả Phaolô ( 1 Cor. 15:42-44 ) và John ( 1 Giăng 3:2 ) đã làm sáng tỏ rằng chúng ta sẽ không biết trước cách chính xác những gì chúng ta sẽ giống như, sau sự cất lên hoặc sống lại. Động cơ của chúng ta, khả năng của chúng ta, và diện mạo của chúng ta, tất cả sẽ khác nhau. Nhưng cả hai ông đều nói rằng chúng ta sẽ giống Chúa Giêsu. Có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm sẽ đẹp lòng Đức Chúa Trời và đều làm vì vinh quang của Ngài. Chúng ta chỉ có thể suy đoán về các điểm đặc biệt.

Tất cả điều này có vượt quá giới hạn trí tưởng tượng của bạn sao? Tất nhiên là có. Đó là lý do tại sao Paul gọi đó là "sự giàu có vô song của ân sủng của Ngài." Ông cũng nói, "Điều mắt chưa thấy, tai chưa nghe, Và lòng người chưa từng nghĩ đến, thì Đức Chúa Trời đã dự bị cho những kẻ thương yêu Ngài"( 1 Cor. 2:9 ). Sau khi đã đến chỗ đó và nhìn thấy tương lai của chúng ta ( 2 Cor. 12:2-4 ) ông biết nó vượt quá khả năng của tâm trí bị tội lỗi làm ô nhiễm của chúng ta tưởng tượng. Nhưng hãy biết điều này.Vừa là vua và một thầy tế lễ sẽ là ban thưởng xứng đáng nhất đến nay, để làm trọn sự kêu gọi mà chúng ta đã từng có.

Jack Kelley