1./ Không Cao Hơn Dân Chúng:
2 Sa mu ên 6: 17; 7:18: “Vậy, chúng đem hòm của Đức Giê-hô-va
vào, đặt tại chỗ, giữa trại Đa-vít đã dựng cho hòm đó; rồi Đa-vít dâng của lễ
thiêu và của lễ bình an tại trước mặt Đức Giê-hô-va. -- Vua Đa-vít bèn đi đến hầu trước mặt Đức
Giê-hô-va, mà nói rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va,tôi là ai, họ hàng tôi là gì, mà Chúa
đã đem tôi đến nơi nầy?”
1 Các Vua 3: 4-5,15—Vua đi đến Ga-ba-ôn đặng dâng của lễ tại
đó, vì nơi cao ấy là trọng nhứt; trên bàn thờ đó Sa-lô-môn dâng một ngàn con
sinh làm của lễ thiêu. Tại Ga-ba-ôn, lúc ban đêm, Đức Giê-hô-va hiện đến cùng Sa-lô-môn trong cơn chiêm bao, và phán với người
rằng: Hãy xin điều gì ngươi muốn ta ban
cho ngươi.-- Người trở về
Giê-ru-sa-lem, đứng trước mặt hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, dâng của lễ thiêu
cùng của lễ bình an, và đãi tiệc cho hết thảy tôi tớ mình”.
Vào những năm cuối
cùng triều vua David và 3 năm đầu thời trị vì của Sa lô môn, có hai nơi dâng tế
lễ cho Chúa và dân Chúa thời đó có thể tiếp cận. Một là đền tạm mà Môi se đã
xây dựng, đang tọa lạc tại Ga ba ôn là một ngọn đồi cao. Thứ hai là nhà trại do
David cất, nơi đó có hòm giao ước. Trại nầy xây cất gần hoàng cung của nhà vua.
Vua David sắp đặt lại
cho hai nơi thờ phựng ấy như sau:
--! Sử kí 16:37-38—“Đa-vít đặt A-sáp và anh em người tại đó,
trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, hầu cho mỗi ngày phục sự luôn luôn ở trước
hòm, làm việc ngày nào theo ngày nấy--Cũng đặt Ô-bết-Ê-đôm và anh em người làm
kẻ giữ cửa,…” cho nhà trại có rương giao ước-
--1 Sử kí 16: 39-40 “đặt thầy tế lễ cả Xa-đốc và anh em người,
là những thầy tế lễ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại nơi cao trong
Ga-ba-ôn, đặng sớm mai và chiều hằng dâng những của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, tại trên bàn thờ của lễ thiêu, tùy
theo các điều chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, mà Ngài đã truyền dạy cho
Y-sơ-ra-ên”.
Sinh họat thờ phượng tại Ga ba ôn rộn rịp, đông đảo, còn tại
hòm giao ước ở Si ôn thì thưa thớt. Đa số dân chúng đi đến Ga ba ôn thờ phượng
Chúa.
Sa lô môn, c òn quá non trẻ, mức độ thuộc linh của ông không
cao hơn đại đa số dân chúng, nên ông cũng đến Ga ba ôn tìm kiếm Chúa. Ông không
đến gần hòm giao ước như cha ông là David đã làm.
Đâu là hội thánh và đâu không phải hội thánh? Mẫu hội La mã tự
xưng mình là hội thánh, ngoài họ ra mọi thứ đều là ngoại giáo. Có một giáo hội
mới hiện hữu chừng 100 năm nay, cũng tự cho mình là hội thánh, ngoài họ ra tất
cả đều là Ba by lôn.
Tại Ga ba ôn, dù không
có rương chứng cớ, nhưng nhiều người đã gặp Chúa ở đó, như Sa lô môn. Trại có
rương giao ước tại Si-ôn có ít người nhóm lại. Tôi khuyên bạn đừng khinh dể những
ai nhóm ở các nơi khác nơi nhóm của bạn, và kết tội Ga ba ôn. Đừng kiêu ngạo,
cho dù tập thể mình có lời của Đấng Christ đậm đặc hơn, nhiều lẽ thật trí năng hơn.
Tôi tin, về một phương diện, Sa lô môn tiêu biểu Đấng Christ,
và việc khánh thành đền thờ và việc khởi đầu xây dựng vương quốc của ông tượng
trưng nước ngàn năm của Đấng Christ. Ngày ấy, đền tạm Ga ba ôn sáp nhập vào đền
thờ mới tại Si ôn. Dù Chúa có dùng mỗi giáo phái trong mức độ nào đó, chúng ta
không biết, nhưng khi Chúa đến, chỉ còn có một đền thờ để thờ phượng Ngài tại
Si ôn suốt 1000 năm.
2./ Vi Phạm Lệnh Cấm Của Chúa
Phục truyền 17:16-17: “Song vua ấy chẳng nên lo cho có nhiều
ngựa, chớ vì muốn thêm nhiều ngựa mà dẫn dân chúng trở lại xứ Ai cập; bởi Đức
Giê-hô-va đã phán cùng các ngươi rằng:
Các ngươi sẽ chẳng trở về đường đó nữa.
Vua cũng không nên kén nhiều phi tần, e lòng người trở xấu xa; lại chẳng
nên thâu góp nhiều bạc vàng”.
Vì có mức lượng thuộc linh ít oi, nên tự nhiên Sa lô môn vi
phạm cả ba cấm lệnh của Chúa:
-- “Vua
ấy chẳng nên lo cho có nhiều ngựa”. Xe ngựa ám chỉ các phương tiện chuyển vận
như hôm nay là máy bay, xe cộ.vv. Sự an ninh và an toàn của chúng ta có ở trong
Chúa. Đừng nhìn về Ai cập, tượng trưng một cường quốc nào đó, mà để long nương cậy họ.
-- “Vua
cũng không nên kén nhiều phi tần”-- Vua
Sa lô môn có 700 hoàng hậu và 300 cung phị, sống đời trác táng quá sức vô độ. Ông
lên ngôi khoảng 15 tuổi, vì ông tự nhận mình là con trẻ (1 Các vua 3:7), nhưng
sau 40 năm trị vì, ông mới 55 tuổi tráng niên mạnh khỏe. Thế mà trước khi qua đời,
ông khoảng 50, hay 52 tuổi, ông than thở trong Truyền đạo 12 rằng thân thể ông
như “người mạnh sức cong khom, kẻ xay cối ngừng lại bởi vì số ít, những kẻ
trông xem qua cửa sổ đã làng mắt, 4 hai cánh cửa bên đường đóng lại, và tiếng
xay mỏn lần; lúc ấy người ta nghe tiếng
chim kêu bèn chờ dậy, và tiếng con gái hát đều hạ hơi”. Sa lô môn đã quá sức già
yếu trước tuổi.
Tôi không thể áp dụng nói rằng ngày nay dân Chúa có nhiều vợ
như Sa lô môn, điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Nhưng anh em có thể bắt chước cuộc đời xa hoa, hưởng thụ
lạc thú của Sa lô môn.
Tôi có xem một số cơ ngơi của một số anh em thánh đồ, tôi thấy
anh em không phải là người có nếp sống kiều dân, lữ khách, không phải là tôi tớ
của Đấng không có chỗ gối đầu. Anh xem sống xa hoa, vô độ và hoang phí. Đáng tiếc
!
-- “Chẳng
nên thâu góp nhiều bạc vàng”—Tín đồ Cựu ước không được phép sống khó khăn. Sa lô
môn đã giàu còn muốn giàu thêm. Nếu bạn đọc Truyền đạo 2, bạn sẽ thấy Sa lô môn
dốc toàn sức lực để làm giàu. Ông mở nhiều chuyến đi bằng tàu viễn dương để
khai thác vàng. Nếu ông không khai thác vàng, ông cũng giàu có nứt đố, đổ vách
rồi.
Tín đồ Tân ước cần phải
giàu có trong đức tin, không cần lo làm giàu vật chất. Nhưng Chúa có cho một số
người được thịnh vượng, nhưng họ phải làm quản gia tiền của cho Chúa, chứ không
nên làm thủ quỷ của thần ma môn. Các bạn có tận lực làm giàu như Sa lô môn không?
Các bạn đã rơi vào tội lỗi mà Sa lô môn sa ngã?
Tóm lại vì nông cạn
thuộc linh, Sa lô môn chỉ tìm kiếm Chúa trong chỗ đông người, chỗ có hình thức
lễ nghi tôn giáo long trọng. Kế đến Sa lô môn đã sống đời hưởng thụ lạc thú, xa
hoa và làm tôi mọi cho ma môn bất nghĩa.
Cho đến ngày qua đời
MK 25-11-2020