Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2012

Phan Khôi và Việc Phiên Dịch Kinh Thánh Tiếng Việt (1920-1925)



Từ thế kỷ 19, các Hội Thánh Tin Lành đã phát động mạnh mẻ phong trào truyền giáo trên khắp thế giới. Nhiều Giáo Hội Phúc âm muốn mang ánh sáng Chúa Giêsu – Christ đến Đông Dương thuộc Pháp. Nhưng do những lo ngại của nhà cầm quyền Pháp và Nam Triều thời ấy, kế hoạch trên chưa được thuận lợi.

“Ðến mùa xuân năm 1911, các Giáo sĩ R. A. Jaffay, Paul M. Hosler và G. Lloyd Huglers đến hải cảng Tourane, ở Trung phần Việt Nam. Họ mua được một cơ sở ở góc đường Khải Ðịnh, số 66 và đường Nguyễn Hoàng, số 67 để làm trụ sở truyền giáo, đó là trụ sở đầu tiên của hội. Sau khi hoàn tất công tác, họ trở lại Trung Hoa. Giáo sĩ Jaffray không được phép làm giáo sĩ thường xuyên tại Việt Nam, Giáo sĩ Huglers được gọi về Nữu-ước để lảnh nhiệm vụ cao trọng hơn nên chỉ còn Giáo sĩ Hosler trở lại Ðông Dương một mình. Ông khởi sự học tiếng Việt và đồng thời bắt đầu giảng Tin Lành.
" 

(Trích quyển Bốn Mươi Sáu Năm Chức Vụ, hồi ký của Mục sư Lê Văn Thái) 1.
Và nói đến Giáo Hội Tin Lành là nói đến Kinh Thánh vì chủ trương từ đầu “Sola Scriptura” (Chỉ có Kinh thánh) trong khi Giáo Hội công giáo tin có Thánh Kinh và Thánh Truyền (Sacra Scriptura et Sacra Traditio) và coi sách Thánh Kinh cũng là một phần của Thánh Truyền.
Muốn biết Kinh Thánh thì phải phiên dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ địa phương. Có Kinh Thánh việc rao giảng Tin Lành mới được thuận lợi. Là những chuyên viên Kinh Thánh có hạng, các mục sư truyền đạo cố gắng học tiếng bản xứ và phiên dịch Kinh Thánh ra các ngôn ngữ, phương ngữ, thổ ngữ. Các Giáo Hội chung nhau thành lập Thánh Kinh Hội UBS ( Hiệp Hội Thánh Kinh United Bible Societies) cung cấp tài chánh để in ấn với số lượng lớn, sau đó phát không hoặc bán với giá cực rẻ. Sách in trong thời gian đầu không có chú giải vì sợ đụng chạm đến giáo lý của các Giáo hội khác nhau, về sau cho phép chú giải về lịch sử, địa danh, đo lường, tiền tệ…để độc giả ngoài Kitô giáo dễ hiểu hơn. Nhờ những nổ lực không mệt mỏi đó mà ngày nay Kinh Thánh toàn tập tức Cựu Ước và Tân Ước hoặc từng phần (từng cuốn sách, từng đoạn) đã được dịch ra trên 3000 ngôn ngữ trên thế giới.
Giáo Hội Tin Lành Việt Nam đã bắt đầu ngay công việc nầy sau khi đặt được nền móng. Năm 1931, nhận được tờ Thánh Kinh báo đầu tiên, cụ Phan Khôi đã viết bài giới thiệu nhan đề :

GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH THÁNH KINH BÁO


Cơ quan của hội Tin Lành xuất bản tại Hà Nội


Mới rồi, tôi nhận được Thánh Kinh báo số 1 mà chủ nhiệm báo ấy là ông mục sư W.C. Cadman gởi tặng, tôi rất lấy làm mừng rỡ, nên viết bài nầy giới thiệu tập báo ấy cho độc giả của Phụ nữ tân văn…..

Văn học với Kinh thánh.


Kinh Thánh đây tức là Bible, gồm cả Cựu ước và Tân ước. Người có đạo Cơ-đốc ở xứ ta bất luận Cựu giáo (Catholique) hay Tân giáo (Protestant) đều dịch ra tiếng ta kêu bằng Kinh Thánh.


Có nhiều người An Nam mình, theo cái óc cũ, thấy đạo khác thì không ưa, nói rằng: Kinh Thánh là do người có đạo họ tôn trọng kinh của họ mà kêu như vậy; còn mình, người ngoại, không tội chi mà kêu Kinh Thánh như họ.


Ai nói vậy là còn hẹp hòi quá, không hiểu sự học đời nay. Ở bên Tàu và Nhựt Bổn, người không theo đạo cũng kêu bằng Kinh Thánh như người có đạo vậy, vì hai chữ ấy đã thành một cái tên riêng (nom propre) rồi.


Ở đời nay, bất kỳ nước nào, nếu là một nước văn học đúng đắn thì trong đó cũng có chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh. Đương thời đây, các nhà văn học đại gia bên Tàu, dầu không phải tín đồ Cơ-đốc đi nữa, trong khi họ làm văn cũng dùng đến chữ trong Kinh Thánh luôn luôn. Như họ dùng chữ “tẩy lễ” là do chữ “Baptême” mà ra; chữ “phước âm”, là do chữ “Evangile” mà ra. Mà những chữ ấy ngày nay họ dùng đã quen lắm, chẳng khác nào chữ gốc trong ngũ kinh tứ thơ vậy.


Còn nói chi về chữ Pháp, thì muốn nói là gốc bởi Kinh Thánh mà ra, cũng không phải quá đáng. Tức như bởi một chữ Bible đó mà sanh ra bộn bề chữ có nghĩa về sách vở. Ấy là như: Người làm sách thì kêu bằng Bibliographe, sự học về biên chép sách vở thì kêu bằng Bibliographie; người ham mê sách vở thì kêu bằng Bibliomane; cái tánh ham sắm sách thì kêu bằng Bibliomanie; người hay tìm mua sách vở thì kêu bằng Bibliophile; cái nhà chứa sách vở thì kêu bằng Bibliothèque ... 


Lại có nhiều câu trong Kinh Thánh đã thành ra tục ngữ (proverbe) hay là thành ngữ (expression) trong tiếng Pháp. Như: “Kẻ tiên tri không được trọng đãi trong quê hương mình”; “Dưới mặt trời chẳng có sự gì lạ” . . . mấy câu đó đều là ở trong Kinh Thánh cả.
 

Hết thảy những nhà văn học Pháp dầu không theo đạo nữa cũng đều có học qua Kinh Thánh hết, bởi vì văn chương ở đó mà ra. Vậy mà thấy kẻ học ở ta đây ít có người biết đến Kinh Thánh là gì, thì đáng lấy làm tiếc quá. 


Đừng nói mấy ông nhà nho họ cho là dị đoan họ không ngó tới đã đành. Các ông học chữ Pháp giỏi mà cũng ít có ông nào đọc tới Kinh Thánh thì cái học ấy cũng gọi được là cái học không gốc. 


Có nhiều chữ trong tiếng Pháp – nhiều không xiết kể – nếu chẳng biết đến Kinh thánh thì chỉ hiểu nghĩa cạn cạn mà thôi. Ai đã thông thạo Kinh Thánh rồi thì chắc hiểu sâu hơn mà lấy làm khoái lắm.
 

Văn quốc ngữ ta cũng nên dùng chữ Kinh Thánh vào. Làm như vậy thì tiếng mình được dồi dào thêm, chớ có hại gì đâu.(*)
 

Cái bài của tôi đó tuy ngắn cũng đủ thấy Kinh Thánh có quan hệ với văn học ngày nay thế nào. Các chi hội Tin Lành ở xứ ta, đâu đâu cũng có bán đủ Kinh Thánh bằng ba thứ chữ Pháp, Hán và quốc ngữ; ước gì mỗi người có học đều tùy mình biết thứ chữ gì thì mua mà xem. Vì tôi đối với Kinh Thánh có lòng sốt sắng như vậy, nên khi thấy Thánh Kinh báo thì mừng rỡ mà giới thiệu. 

Cái chỗ tôi mừng rỡ hơn nữa, là văn chương của Thánh kinh báo còn có phần giúp ích cho văn quốc ngữ ta trong lúc mới lập nền. Bởi vì văn chương của Thánh Kinh báo đặt một cách thật rõ, thật gọn mà lại dễ hiểu nữa, rất hiệp với cái lối bình dân văn học. Tôi xin cử ra đây một vài đoạn trong bài “Tánh nết” ở trương 9 –10 của tập báo ấy: 


... Ý tưởng kín nhiệm dầu mình không tỏ, tư dục ngấm ngầm dầu mình không lộ, lời gian dối dầu mình không nói ra miệng, sự phạm thượng dầu mình vẫn chứa trong lòng, nhưng cũng có thể làm hỏng tánh nết, và không sao che tai bịt mắt xã hội được. Tánh nết là sự mầu nhiệm, phải cố sức làm cho hoàn toàn mãi mãi. Tánh tốt quý hơn ngọc, hơn vàng, hơn quyền thế, hơn mão triều thiên ... 


Ở đời, ta phải có mục đích cao xa, nghĩ đến đời đời vô cùng, chớ chẳng phải chỉ lo tính trong tạm thời mà thôi. Không nên để hoàn cảnh uốn nắn tánh nết mình. Ai bị hoàn cảnh sai khiến ấy là người rất nhát, “giống như sóng biển bị gió động mà đưa đi đẩy đi đó” (Gia-cơ 1: 6). Cái giá một người có chí quả quyết chống nổi điều ác, giữ vững điều thiện, thật gấp triệu lần những người yếu chí nhát gan. Ta nên theo gương sáng của Đa-ni-ên quyết chí trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống” (Đa-ni-ên 1: 8).
 

Mỗi người nên kể tánh tốt bằng sự quý nhứt trong đời mình. Cố sức bươn theo mục đích đó, thì đời mình sẽ có giá trị với xã hội và đẹp lòng Chúa… Nếu có mục đích cao xa như thế, dầu không tới được, nhưng lòng mình cũng sẽ hăm hở bươn theo. ông Disraeli có nói: “Một người thiếu niên nếu không ngửa mặt lên trời, ắt sẽ cúi đầu trông xuống; tâm thần không hướng về trời, chắc sẽ sấp mình mà bò trên đất”. Ai sống trong phạm vi cao xa thì cách ăn nết ở sẽ đúng đắn hơn người bậy bạ ... 


Tóm lại, tánh nết là sự cần nhứt trong đời người. Lẽ thật đó, đơn sơ mà cao cả, đẹp đẽ mà oai nghiêm, thật là một bài đạo đức lúc trẻ nên học, khi già phải nhớ. 


Xã hội nào định giá tánh nết càng cao bao nhiêu, thì trình độ càng văn minh bấy nhiêu ... Người nào hoặc nước nào coi khinh tánh nết, thì khó tránh khỏi tiếng bậy bạ, hèn mạt và mọi rợ. Chỗ nào nhơn dân không biết chú trọng tánh nết, thì ở đó đầy dẫy tình dục và tội lỗi. Ai thích hư danh hơn tánh nết, ấy là người hèn…” 


Lối văn của Thánh Kinh báo bài nào cũng đại khái như vậy. Cái sở trường ở chỗ dùng lời nói thường mà đạt được ý cao sâu. Câu nào câu nấy rắn rõi, già giặn, không có cái bịnh quá rườm rà, nhiều lời ít lẽ. Nếu những người thức giả đọc mấy đoạn trên đây mà không đồng ý, không khen như tôi, thì tôi xin chịu là tôi không có mắt, không có óc!


……

Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào. Trong bài nầy, nếu có chỗ nào bổ ích cho việc biên tập của ông thì có lẽ là một đoạn cuối cùng đó.


PHAN KHÔI

Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.74 (16.10.1930)


Qua bài viết trên, chúng ta thấy một Phan Khôi cao thượng, phóng khoáng, cởi mở tôn trọng những giá trị văn hóa và tôn giáo của nhân loại. Trong một thời đại con người còn hẹp hòi, thiển cận, ích kỹ và phe nhóm, Phan Khôi cho thấy Kinh Thánh sẽ giúp nhiều cho đất Việt.


“Có nhiều người An Nam mình, theo cái óc cũ, thấy đạo khác thì không ưa, nói rằng: Kinh Thánh là do người có đạo họ tôn trọng kinh của họ mà kêu như vậy; còn mình, người ngoại, không tội chi mà kêu Kinh Thánh như họ.
 

Ai nói vậy là còn hẹp hòi quá, không hiểu sự học đời nay. Ở bên Tàu và Nhựt Bổn, người không theo đạo cũng kêu bằng Kinh Thánh như người có đạo vậy, vì hai chữ ấy đã thành một cái tên riêng (nom propre) rồi.
 

Ở đời nay, bất kỳ nước nào, nếu là một nước văn học đúng đắn thì trong đó cũng có chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh… Hết thảy những nhà văn học Pháp dầu không theo đạo nữa cũng đều có học qua Kinh Thánh hết, bởi vì văn chương ở đó mà ra. Vậy mà thấy kẻ học ở ta đây ít có người biết đến Kinh Thánh là gì, thì đáng lấy làm tiếc quá.
 

Đừng nói mấy ông nhà nho họ cho là dị đoan họ không ngó tới đã đành. Các ông học chữ Pháp giỏi mà cũng ít có ông nào đọc tới Kinh Thánh thì cái học ấy cũng gọi được là cái học không gốc… Văn quốc ngữ ta cũng nên dùng chữ Kinh Thánh vào. Làm như vậy thì tiếng mình được dồi dào thêm, chớ có hại gì đâu”.


Chính vì đánh giá cao Kinh Thánh và văn chương Kinh Thánh, ông Phan Khôi, gia đình truyền thống Nho giáo và chống thực dân Pháp, không ngại cọng tác phiên dịch Kinh Thánh ra tiếng mẹ đẻ. Hơn 70 năm qua, bản dịch Kinh Thánh với văn phong Phan Khôi vẫn còn thịnh hành đủ trã lời cho nhưng nhận xét tinh tế của ông. Trong phần kết , ông Phan Khôi cho biết chính xác việc phiên dịch như sau:


“Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào. Trong bài nầy, nếu có chỗ nào bổ ích cho việc biên tập của ông thì có lẽ là một đoạn cuối cùng đó.”


Từ thế kỷ 17, Giáo Hội Công giáo đã bắt đầu dịch Kinh Thánh ra tiếng Việt, bắt đầu từ những câu, đoạn ngắn, kế tiếp là từng cuốn sách và sau cùng là Thánh Kinh toàn tập vào thế kỷ 19. Từ đó đến nay, các tác giả đã cho xuất bản nhiều bản dịch.
Riêng Giáo Hội Tin Lành vì du nhập vào đất nước ta hơi muộn nên Thánh Kinh toàn tập chỉ xuất hiện với bản dịch Cadman- Phan Khôi.
Thực ra đây không phải lần đầu tiên Kinh Thánh được Giáo Hội Tin Lành dịch ra tiếng Việt. Công việc nầy đã được khởi sự cuối thế kỷ 19.
“Về phía Giáo Hội Tin Lành, vào năm 1890, M. Bonnet, Giáo Sư của trường Ngôn Ngữ Ðông Phương tại Paris (Paris School of Oriental Languages), đã dịch Phúc Âm Luca sang tiếng Việt. Khi dịch Phúc Âm Luca, Giáo sư Bonnet đã dùng bản Kinh Thánh Pháp văn Ostervald để dịch.
 

Sau khi dịch xong, Phúc Âm Luca đã được Thánh Kinh Hội Anh Quốc (British & Foreign Bible Society – BFBS, Paris) xuất bản tại Paris. Năm 1898, Phúc Âm Luca tái bản lần đầu tiên.
·                                 Năm 1899, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) cho xuất bản Phúc Âm Mác tại Singapore.


·                                 Năm 1900, Thánh Kinh Hội Anh Quốc (BFBS) xuất bản Phúc Âm Giăng và đến năm 1903 lại xuất bản sách Công Vụ Các Sứ Ðồ tại Paris. Hai bản dịch nầy do Walter James, nhân viên của Thánh Kinh Hội Anh Quốc, thực hiện.


·                                 Năm 1913, Giáo Sĩ P.M. Hosler thuộc Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (CM&A) đã dịch lại Phúc Âm Mác. Bản dịch nầy được xuất bản năm 1913 tại Ngô Châu (Wuchow), thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa.


·                                 Năm 1917, Thánh Kinh Hội đã xuất bản Phúc Âm Mác tại Hà Nội. Có lẽ đây là phần Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin lành in tại Việt Nam.


·                                 Năm 1918, Thánh Kinh Hội xuất bản Phúc Âm Giăng và Sách Công Vụ tại Thượng Hải, Trung Quốc. Năm 1919, lại tiếp tục xuất bản Phúc Âm Mathiơ. Ðến năm 1922, xuất bản sách Sáng thế Ký, Xuất Ê-díp-tô Ký, Luca; tái bản Phúc Âm Mathiơ; đồng thời xuất bản lại ba sách Phúc Âm Mác, Phúc Âm Giăng và Công Vụ đã được sửa chữa.


·                                 Năm 1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925 và xuất bản vào năm 1926 tại Thượng Hải, Trung Hoa.
Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà Giáo Sĩ William C. Cadman, Giáo Sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có: cụ Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi. 


Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Ðức, Ðại Hàn và Việt Nam. Ðây là bản Kinh Thánh Việt Ngữ được ấn hành và xử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5.000 – 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay”.


Phước Nguyên

Tháng 1/1996

Trích Báo Linh Lực


Như vậy đây là một công trình dịch thuật chung:“ vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông” (W.  Cadman) (Xác nhận của Phan Khôi) “Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.” ( Phước Nguyên)
Những nhà truyền giáo Tin Lành làm việc ở Viễn Đông nên các vị  rất am hiểu chữ Hán, nay gặp một người thông thạo Hán Văn, chữ Nôm, chữ Pháp và Quốc ngữ như ông Phan Khôi đúng là tìm được một viên ngọc quý.
Phần chuyên môn, chính xác về Kinh Thánh, đã có các nhà truyền giáo phụ trách. Riêng về mặt ngôn ngữ và văn chương vào thời đó có lẻ không ai qua mặt được ông Phan Khôi. Thử so sánh lối văn Phạm Quỳnh và Phan Khôi chúng ta nhận ra ngay một bên biền ngẫu lê thê và bên kia là  gãy gọn, chính xác, khúc chiết, sáng sủa, dễ hiểu hợp với mọi lứa tuổi, điều mà các nhà truyền giáo mong muốn “ một bản dịch Kinh thánh phổ thông hợp giới bình dân”.
Chúng ta thử đọc đoạn đầu sách Sáng Thế Ký, bản dịch Phan Khôi- Cadman.
 1 Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.

2 Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.

3 Đức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng.

4 Đức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối.

5 Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và
 buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt.

6 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng
 phân rẽ nước cách với nước.

7 Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với
 nước ở trên khoảng không; thì có như vậy.

8 Đức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy
 là ngày thứ nhì.

9 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy.

10 Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Đức
 Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.

11 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh cây cỏ; cỏ kết hột giống, cây trái kết quả, tùy theo loại mà có hột giống trong mình trên đất; thì có như vậy.

12 Đất sanh cây cỏ: cỏ kết hột tùy theo loại, cây kết quả có hột trong mình, tùy

 theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.

13 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ ba
.
14 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời, đặng phân ra ngày với đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm;

15 lại dùng làm vì sáng trong khoảng không trên trời để soi xuống đất; thì có như vậy.
16 Đức Chúa Trời làm nên hai vì sáng lớn; vì lớn hơn để cai trị ban ngày, vì nhỏ hơn để cai trị ban đêm; Ngài cũng làm các ngôi sao.

17 Đức Chúa Trời đặt các vì đó trong khoảng không trên trời, đặng soi sáng đất,
18 đặng cai trị ban ngày và ban đêm, đặng phân ra sự sáng với sự tối. Đức Chúa
 Trời thấy điều đó là tốt lành.

19 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ tư.

20 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và các loài chim phải bay trên mặt đất trong khoảng không trên trời.

21 Đức Chúa Trời dựng nên các loài cá lớn, các vật sống hay động nhờ nước mà sanh nhiều ra, tùy theo loại, và các loài chim hay bay, tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.

22 Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều.

23 Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ năm.

24 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tùy theo loại, tức súc vật, côn trùng, và thú rừng, đều tùy theo loại; thì có như vậy.

25 Đức Chúa Trời làm nên các loài thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, và các côn trùng trên đất tùy theo loại, Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành.

26 Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất.

27 Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.

28 Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất. 29 Đức Chúa Trời lại phán rằng: Nầy, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất, và các loài cây sanh quả có hột giống; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi.

30 Còn các loài thú ngoài đồng, các loài chim trên trời, và các động vật khác trên mặt đất, phàm giống nào có sự sống thì ta ban cho mọi thứ cỏ xanh đặng dùng làm đồ ăn; thì có như vậy.

31 Đức Chúa Trời thấy các việc Ngài đã làm thật rất tốt lành. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ sáu.


Một bản dịch như trên vừa chính xác vừa dễ hiểu, vừa dân tộc. Chính nhờ thế dù đã trên 80 năm, bản dịch trên cơ bản vẫn được các Giáo hội Tin Lành xử dụng.
Trong một bài viết của Huỳnh Christian Timothy, ông nhận xét cách chọn từ của Phan Khôi  về các chức vụ trong Giáo Hội mà Kinh Thánh có bàn đến, ông chỉ lưỡng lự ở hai từ MỤC SƯ là ông cho không chính xác, còn các từ khác ông hoàn toàn đồng ý là Phan Khôi dịch chính xác. Ví dụ:
·  I. Apostle

Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: apostolos

Phan Khôi dịch Apostle sang Hán Việt thành Sứ Đồ. Sứ = Người được sai đi; Đồ = Học trò. Thiết tưởng sự dịch này tương đối chính xác cho nên chúng ta có thể giữ lại. Người Công Giáo dịch Apostle là Tông Đồ hoặc Ngôn Sứ. Tông = Chính
 gốc; Ngôn = Nói, lời nói.
·  II. Evangelist Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là:euaggelistes

Phan Khôi dịch Evangelist là Người Giảng Tin Lành (Công Vụ Các Sứ Đồ 21:8; II Ti-mô-thê 4:5). Thiết tưởng, dịch như vậy là đúng nghĩa. Chúng ta có thể giữ nguyên hoặc đổi thành Truyền Đạo Viên (Truyền Đạo = Rao giảng Đạo; Viên = Người chuyên tâm làm một công việc nào đó).
·  III. Bishop Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: episkopos

Phan Khôi dịch Bishop sang Hán Việt là Giám Mục. Giám = Xem xét; Mục = Nuôi súc vật, theo ý thuộc linh là Mục Vụ: Công tác chăn bầy hoặc truyền đạo. Thiết tưởng, dịch như vậy là đúng nghĩa, không cần phải thay đổi.
·  IV. Elder Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: presbuteros.

Phan Khôi dịch Elder sang Hán Việt là Trưởng Lão. Trưởng = đứng đầu; Lão =
 lớn tuổi (ở đây được hiểu là về mặt thuộc linh = có kinh nghiệm thuộc linh). Thiết tưởng, dịch như vậy là đúng nghĩa, không cần phải thay đổi.
·  V. Pastor/Shepherd Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là:poimēn

Phan Khôi dịch Pastor sang Hán Việt là Mục Sư. Mục = Mục vụ: Công tác chăn bầy hoặc truyền đạo; Sư = thầy. Thiết tưởng, chúng ta nên dịch Pastor/Shepherd thành “Người Chăn” trong tiếng Việt hoặc “Mục Tử” trong Hán Việt, hoặc tốt hơn, dịch là “Mục Đồ” với ý nghĩa “học trò của Chúa làm nhiệm vụ chăm sóc bầy chiên của Chúa.” Mục Đồ mới nghe thì lạ tai nhưng nghe nhiều lần sẽ quen tai như: tín đồ, môn đồ, sứ đồ, thánh đồ… Người Công Giáo dịch Pastor/Shepherd sang Hán Việt thành Linh Mục, rất đúng nghĩa.
·  VI. Deacon Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: diakonos

Phan Khôi dịch Deacon sang Hán Việt là = Chấp Sự. Chấp = làm theo; Sự = Công việc. Thiết tưởng chúng ta có thể giữ nguyên danh từ Chấp Sự vì dịch như thế cũng khá xác nghĩa và khó mà tìm được danh từ nào thích hợp hơn. Trong Hội Thánh ban đầu cũng có Nữ Chấp Sự (Rô-ma 16:1).
·  VII. Minister Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: diakonos

Phan Khôi dịch Minister là = Người Hầu Việc/Người Giúp Việc. Đề nghị chúng ta dịch là Mục Vụ Viên. Mục vụ = công tác chăn bầy hoặc truyền đạo; Viên = Ngưòi chuyên tâm làm một công việc nào đó.
·  VIII. Preacher. Trong nguyên tác tiếng Hy-lạp là: kerux.

Phan Khôi dịch Preacher là = Thầy Giảng. Đề nghị chúng ta dịch là Giảng Viên. Giảng = Trình bày rõ ràng một điều gì; Viên = Ngưòi chuyên tâm làm một công việc nào đó. Giảng Viên là người chuyên tâm rao giảng lời Chúa, như vậy tránh được sự hiểu lầm về chữ “thầy.”


Khi đọc lại những phản hồi ý kiến về từ Mục sư mà Tam Huynh cho là chưa chính xác , đại đa số anh em Tin Lành không đồng tình với ông ..trái lại số đông cho là từ mục sư thông dụng hiện nay do Phan Khôi dịch chẳng có trở ngại gì lớn.

Trong năm năm trời làm bạn với từng câu chữ Kinh Thánh chắc ông đã hiểu rõ lẻ đời “Vanitas vanitatum, omnia vanitas” ( Ngưởi truyền đạo nói : Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không) Sách Truyền Đạo 1, 2. “ Chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời” ( Sách Truyền Đạo 1, 9) “Sự thật sẽ giải thoát anh em” ( Các ngươi sẽ biết lẽ thật , và lẽ thật sẽ buông tha anh em” ( Giăng 8, 32 ). Do vậy nên ông chấp nhận mọi gian khổ, và an bình trong mọi biến cố, luôn đứng về công lý, về chân lý mà không phải nhân vật nào cũng có đủ dũng khí đương đầu.
Tôi có cảm nghĩ, ông Phan Khôi, bên ngoài tuy “ngoại đạo”, nhưng tâm hồn ông đã thuộc hàng con cái Thiên Chúa rồi, ông đã thấm nhuần Lời Chúa từ thời ông nâng niu phiên dịch từng chữ, từng câu Thánh Kinh. Ông đã thuộc về con cái “Thần Đức Chúa Trời”, con cái của tự do nội tâm mà không còn quyền lực âm phủ hay thế trần nào còn có thể làm lung lạc được nữa. Chính vì thế mà ông ung dung tuyên ngôn .
Làm sao cũng chng làm sao

D
u có thế nào cũng chng làm chi !

Làm chi cũng ch
ng làm chi

D
u có làm gì cũng chng làm sao!
Và như Thiên Chúa vĩnh hằng… bài thơ cứ thế tiếp tục cho đến thiên thu vạn
 đại!

Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng.

Hội An, ngày 25 tháng 11 năm 2010.