Nhiều
năm trước, đôi vợ chồng trẻ nọ đã thuật lại câu chuyện về một góa phụ già nua
không còn ai thân thiết. Bà cụ ở cạnh nhà họ và hai người thường mời bà qua
dùng chung bữa tối. Vào một buổi chiều lạnh giá của Bắc Âu, người vợ thấy bà cụ
đẩy xe rác tới bãi rác của khu phố, nhưng không thấy bà quay về. Hai vợ chồng
bắt đầu lo lắng và thu xếp công việc để đi tìm bà.
Cuối cùng họ tìm thấy bà ở cạnh một đống phế
liệu, đang ngồi trên chiếc xe cút-kít, đầu gục xuống, bất chấp tuyết rơi mỗi
lúc một dày - một hình ảnh của sự tuyệt vọng. Người chồng chạm vào vai bà cụ và
nhẹ nhàng lay bà. Cụ già ngẩng đầu lên và đôi môi mấp máy: “Anh chị chính là sự
đáp ứng của Chúa cho lời cầu nguyện của tôi. Tôi vừa nói với Ngài rằng ở đây
tôi cô đơn quá, không biết làm sao có ai biết mà cứu tôi trong lúc nầy, rằng
chỉ có Ngài lo cho tôi mà thôi, ngoài ra chẳng còn ai cả. Nhưng Ngài đã cho tôi
biết rằng vẫn còn vợ chồng anh thương yêu và tìm kiếm tôi.” Hai vợ chồng nhanh
chóng đưa bà về nhà, sưởi ấm cho bà và họ cùng nhau ăn bữa tối.
Ai
cũng dễ xúc động khi thấy cảnh thương tâm. Đó là một trong những ơn phước còn
lại ở bản chất loài người, một điều may mắn khi chúng ta còn có lòng trắc ẩn!
Nhưng để thúc đẩy lòng thương xót đi xa hơn nữa bằng những hành động cụ thể,
chấp nhận mất thời gian, tốn kém tiền bạc, tiêu hao sức lực … vì những người
nghèo khổ trong xã hội, thì thật có rất ít người. Cơ Đốc giáo thật xa lạ với
loại tình thương trên môi miếng, và nếu Hội thánh nào dung dưỡng loại tình yêu
đó thì nơi ấy đang gặp đại họa. Chúa Cứu Thế đã ngán ngẩm cái bề ngoài đạo đức
của hàng giáo phẩm Do Thái giáo, những con người “đọc lời cầu nguyện cho dài mà
nuốt nhà đờn bà góa…” (Ma-thi-ơ 23:14) vì thế Ngài trông cậy ở chúng ta, những
người phải biết yêu thương bằng việc làm và lẽ thật.
“Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói
và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.” I Giăng 3:18