(Hai Loại dân Vô thần)
-
Trí năng tin
không có Thượng Đế,
Lương tâm lại
sợ Đấng huyền vi,
Đương thời chối
cãi Ngài thực hữu,
Lâm chung
kinh hãi cuộc ra đi.
-
Lòng vẫn tin
Chúa Trời hiện hữu,
Cư xử quên đi
Đấng toàn tri,
Chúi đầu cuộc
sống vô thần mãi,
Chúa đến ngậm
mồm hết sân si.
-
Thơ Đa-vít
làm. Cho thầy nhạc chánh
1 Kẻ ngu dại
nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời.
Chúng nó đều
bại hoại, đã làm những việc gớm ghiếc;
Chẳng có ai
làm điều lành.
2 Đức
Giê-hô-va từ trên trời ngó xuống các con loài người,
Đặng xem thử
có ai khôn ngoan,
Tìm kiếm Đức
Chúa Trời chăng.
3 Chúng nó
thay thảy đều bội nghịch, cùng nhau trở nên ô uế;
Chẳng có ai
làm điều lành,
Dầu một người
cũng không.
4 Các kẻ làm
ác há chẳng hiểu biết sao?
Chúng nó ăn
nuốt dân ta khác nào ăn bánh,
Và cũng chẳng
hề cầu khẩn Đức Giê-hô-va.
5 Chúng nó bị
cơn kinh khiếp áp bắt,
Vì Đức Chúa
Trời ở giữa dòng dõi kẻ công bình.
6 Các ngươi
làm bại mưu kẻ khốn cùng,
Bởi vì Đức
Giê-hô-va là nơi nương náu của người.
7 Ôi! Chớ chi
từ Si-ôn sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên đã đến!
Khi Đức
Giê-hô-va đem về những phu tù của dân Ngài,
Thì Gia-cốp sẽ
mừng rỡ và Y-sơ-ra-ên vui vẻ.
-
c. 1- Ai
không tin Đức Chúa Trời thực hữu thì sẽ không biết sợ thẩm quyền tối cao nào
nên trở nên rất gian ác và hư hoại. Họ không sợ sẽ có sự hình phạt tương lai
nên trở nên độc ác và bông lung luân lí.
Dân Âu Mỹ có
nhiều nhiều vô thần hơn dân Á Phi.
c. 3 được Rô
ma chương 3 :11- 14 điễn lại-- Chẳng ai hiểu biết, chẳng ai tìm kiếm Đức Chúa
Trời. Thảy đều tẻ tách, cùng nhau ra vô dụng; Chẳng ai làm điều thiện, dẫu một
người cũng không. Họng họ là mồ mả mở ra, Lưỡi họ buông điều dối gạt Môi họ chứa
nọc rắn độc, Miệng họ đầy rủa sả cay đắng.
-
Có hai loại
dân vô thần:
-
1. Người vô
tín có tư tưởng vô thần:
Người chưa
tin Chúa mới có tư tương vô thần, nhưng lương tâm họ lại cảm thấy có Ngài, nhất
là khi gần trút hơi thở cuối cùng, hay nằm bệnh trước khi chết, họ lại sợ bóng
tối, sợ tương lai vô định, nên bất an và sợ hãi. Các cảm giác đó chứng tỏ lương
tâm họ cảm biết có Đức Chúa Trời, nhưng tư tưởng họ thì không chấp nhận.
Triết giả
Voltaire hồi thế kỉ 19, ở Pháp quốc, khi còn sống ngạo mạn, lộng ngôn đến Chúa,
nhưng mấy tháng cuối cùng nằm giường bệnh trước khi chết, thì đêm nào ông cũng
kêu rú lên vì sợ hãi cõi đời đời vô định mà ông quá hãi hùng phải bước vào.
2. Người tín
đồ có cuộc sống vô thần.
Mệnh đề trên
đây có vẻ phi lí, nhưng là một sự thật hiển nhiên trong đa số tín đồ đã được
tái sinh. Lòng họ đã tiếp nhận Đức Chúa Trời, nhưng tâm trí họ quên Ngài trong
cuộc sống. Họ hoàn toàn sống theo bản năng con người thiên nhiên, vật dục.
Họ như con đà
điểu, hoang tưởng rằng hễ chúi đầu xuống cát sa mạc là không ai thấy nó, vì nó
không thấy một ai cả.
Rất nhiều tín
đồ, thậm chí nhiều người mệnh danh là “tôi tớ Chúa” chúi đầu vào đống tiền của
hội thánh mà họ quản lí, chúi mũi vào quyền lực mà họ nắm được trong hội thánh,
họ không hề nghĩ đến Chúa. Họ sống như kẻ vô thần, không hề biết sợ Chúa trong
hành động độc ác khi đánh đập bạn đồng công, tham nhũng, lạm quyền quyền thế
trong nhà Chúa…
Kết luận:
Thi thiên 16,
David nói tôi hằng để Chúa trước mặt tôi, kính sợ Ngài trong cả cuộc đời. Câu cuối cùng của Thi thiên 14 nầy chép, “Ôi!
Chớ chi từ Si-ôn sự cứu rỗi của Y-sơ-ra-ên đã đến! Khi Đức Giê-hô-va đem về những
phu tù của dân Ngài,
Thì Gia-cốp sẽ
mừng rỡ và Y-sơ-ra-ên vui vẻ”
Cả dân vô tín
và tín đồ vô thần đều bị lưu đãy trong tình trạng mất cảm nhận sự thực hữu của
Đức Chúa Trời. Mong Chúa cho cả hai hạng người lưu đày nầy được giải phóng.
Minh Khải—25-1-2016