Thứ Ba, 4 tháng 2, 2020

CUỘC SỐNG HAI BÀN THỜ-



Sáng thế kí 12:6-8, “Áp-ram đi khắp xứ, đến chỗ cây sồi của Mô-rê tại Si-chem. Lúc đó, dân Ca-na-an đang còn ở trong xứ. Đức Giê-hô-va hiện ra với Áp-ram và phán: “Ta sẽ ban xứ nầy cho dòng dõi con.” Tại đây, Áp-ram lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, là Đấng đã hiện ra với ông.  Từ đó, ông di chuyển đến vùng đồi núi phía đông Bê-tên, rồi đóng trại giữa Bê-tên ở phía tây, và A-hi ở phía đông. Ông cũng lập tại đó một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va và cầu khẩn danh Ngài”.
Thi thiên 84:3, “Con chim cũng đã tìm được một cái nhà, Và chim én một tổ cho nó, nơi nó có thể đặt con nhỏ của nó, Ngay cả các bàn thờ của Chúa, Đức GIA-VÊ vạn-quân ôi, Vua của con, Đức Chúa TRỜI của con”TKTC.
Trước đây 100 năm có một người thuộc Hội Anh em Đông phương đã giảng một bài rất ấn tượng về “Cuộc sống bàn thờ và lều trại”.

Bản văn bài đó còn lưu lại đến hôm nay, diễn giảng về hai đặc điểm trong cuộc đời của Áp-ra-ham. Bản thân và mọi sự của ông đều mãi mãi đặt trên bàn thờ. Cuộc đời ông là cuộc sống lữ hành, không định cư trong dinh thự to lớn, nhưng chỉ tạm trú trong những lều trại tạm bợ, dễ di dời, vì ông đang đi tìm một thành phố hầu đến.
Thi thiên 118:27 miêu tả cuộc sống bàn thờ của tín nhân nên có là: “Đức GIA-VÊ là Đức Chúa TRỜI, và Ngài đã ban cho chúng ta sự sáng; Hãy cột tế-vật bằng các dây vào các sừng của bàn-thờ”. Y như Y sác đồng ý cho cha mình trói lại trên bàn thờ, tín nhân có sự sáng thần thượng sẽ tình nguyện mãi mãi cột mình vào bàn thờ để cuộc đời được thiêu hóa cho Chúa cách trọn vẹn. Sách Khải huyền chép 11 lần động từ “định cư trên đất”, đối kháng với cuộc đời lữ khách mà sứ đồ Phi e rơ nói trong 1 Phierơ 2. Cuộc sống Áp ra ham có hai đặc điểm như vậy.
Hôm nay tôi xin diển tả cuộc sống hai bàn thờ để tiếp nối cho cuộc sống mẫu mực của Áp-ra-ham trước kia.
Trong đền tạm tại đồng hoang và trong đền thờ tại Jerusalem, có hai bàn thờ. Một là bàn thờ đồng ở sân ngoài, mà đời sống của Áp-ra-ham đã trải qua. Thứ hai là bàn thờ vàng trong nơi thánh. Bàn thờ nầy để xông hương sáng và chiều.
-         Bàn Thờ Đồng:
Đọc Kinh thánh chúng ta thấy cả hai ông Áp-ra-ham và Đa vít đều có từng trải nếp sống hiến dâng ở bàn thờ bằng đồng. “Nguyện Ngài nhớ đến các lễ vật ngươi, Và nhậm những của lễ thiêu ngươi!” (Thi 20: 3). Trước khi qua đời vua Đa-vít đã triệu tập cuộc nhóm họp với mục đích cho toàn dân có cơ hội hiến dâng. Ông nói những lời có kinh nghiệm của một con người đã sống cuộc đời có bàn thờ hiến dâng: “Nhưng con là ai và dân con là gì mà chúng con lại có thể dâng-hiến dồi-dào như thế này? Vì tất cả các vật đều đến từ Chúa, và từ tay Chúa chúng con đã cho Chúa. Vì chúng con là những kẻ tạm-trú trước mặt Chúa, những kẻ ở đậu, như tất cả các tổ-phụ của chúng con đã là vậy; những ngày chúng con trên trái đất y như một cái bóng, và chẳng có một hy-vọng gì cả. GIAVÊ Đức Chúa TRỜI của chúng con ôi, mọi sự dư-dật này mà chúng con đã cung-cấp để xây cho Chúa một cái đền cho danh thánh của Chúa, ấy là từ tay Chúa, và tất cả là của Chúa” 1 Sử 29:14-16 TKTC. Ngợi khen Chúa, cuộc đời Đa vít chính là bản sao tăng cường của cuộc đời thánh tổ Áp-ra-ham trong sự hiến dâng và sống đời lữ khách.
-         Bàn Thờ Vàng:
Vua Đa-vít có kinh nghiệm sâu hơn cụ Áp ra ham, khi ông cầu nguyện với Chúa, “chim én một tổ cho nó, nơi nó có thể đặt con nhỏ của nó, Ngay cả các bàn thờ của Chúa”.
Đa vít ví sánh mình như chim én xây tổ (mong đưa cả gia đình) trên hai bàn thờ của Chúa, nhất là bàn thờ vàng.
Nếu bạn đọc 73 thi thiên của Đa vít sáng tác, bạn không thể không thấy cuộc sống thực nghiệm tại bàn thờ vàng của nhà vua.
Nhà vua thực sự đã cầu nguyện không thôi như Phao lô dạy chúng ta về sau, đã cầu nguyện thâu đêm như tiên tri Sa-mu-ên, nên ông thưa với Chúa, “Con vừa trở thành như con bồ nông trong hoang-mạc; Con vừa trở thành như con chim cú trong những nơi hoang-dã. Con nằm thao-thức, Con vừa trở thành như con chim cô-đơn trên một mái nhà” (Thi 102). Nhà vua cũng trung tín cầu nguyện mỗi ngày ba cử, như tiên tri Đa ni ên, sau nầy.Buổi chiều, buổi sáng, và ban trưa, tôi sẽ than thở rên siết; Ngài ắt sẽ nghe tiếng tôi” (Thi 55:17).
Tôi e rằng tín nhân chưa biết cầu nguyện là một Cơ Đốc nhân giả mạo. Sau quá trình theo Chúa, khi đã cao tuổi, tôi mong bạn có cuộc đời bàn thờ vàng, một sinh hoạt cầu nguyện thiết thực, cầu thay như Môi se, ba lần, mỗi lần 40 ngày 40 đêm, siêng năng cầu nguyện như Sa mu ên, như Đa vít, như Đa ni ên, như Phao lô đã “cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ” (Eph 6: 18).
Bạn ơi, từ các thời đại, lúc nào Chúa cũng tìm kiếm những con người có cuộc sống bàn thờ và lều trại, và quý trọng những người tôi tớ có cuộc sống hai bàn thờ. Bạn đã có cuộc sống như vậy chưa? Bạn có để cho “dây nhân từ, xích yêu thương”của Chúa  (Ô sê 11:4) cột mình vào bàn thờ hiến dâng, và bạn có như chim én yếu ớt, xây tổ trên bàn thờ vàng, để làm một chiến sĩ, một người cầu thay mãn đời chăng? Bạn có mỗi ngày cầu nguyện sự cứu rỗi cho các dân tộc, van xin cho hội thánh các nước trên cả địa cầu, có cầu nguyện cho sự thịnh vượng cả về phần xác và phần hồn của mọi tín nhân mình quen biết, có cầu nguyện cho chính quyền địa phương và chính phủ trung ương, có cầu nguyện cho nước thuộc linh của Chúa mau hiển lộ trên đất chăng?
Người có cuộc sống hai bàn thờ là người “vừa lòng Chúa” như Đa vít vậy. Xin Chúa thương xót chúng ta.
Minh Khải 04- 02-2020